Tài liệu Ứng dụng kỹ thuật Fish và Karyotype trên tế bào gai nhau trong 3 tháng đầu thai kỳ: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 431
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT FISH VÀ KARYOTYPE
TRÊN TẾ BÀO GAI NHAU TRONG 3 THÁNG ĐẦU THAI KỲ
Lê Quang Tín*, Nguyễn Vạn Thông*, Nguyễn Thị Thanh Trúc*, Đặng Lê Dung Nghi*,
Phạm Thị Vân Anh*, Vũ Thị Nhung**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chẩn đoán tiền sản được thực hiện chủ yếu trên mẫu nước ối trong 3 tháng giữa thai kỳ hoặc
trên mẫu gai nhau trong 3 tháng đầu thai kỳ. Tuy nhiên, tại Việt Nam, trong khi chẩn đoán tiền sản trên mẫu
nước ối được áp dụng khá rộng rãi thì chẩn đoán tiền sản trên mẫu gai nhau lại được áp dụng khá hạn chế nên
cần thêm nhiều nghiên cứu để cải thiện.
Mục tiêu: Đánh giá toàn diện việc ứng dụng kỹ thuật FISH và karyotype trên tế bào gai nhau tại bệnh viện
Hùng Vương nhằm phục vụ tốt chương trình chẩn đoán tiền sản trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Phương pháp: 67 ca được thực hiện sinh thiết gai nhau. Mẫu gai nhau sau si...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng kỹ thuật Fish và Karyotype trên tế bào gai nhau trong 3 tháng đầu thai kỳ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 431
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT FISH VÀ KARYOTYPE
TRÊN TẾ BÀO GAI NHAU TRONG 3 THÁNG ĐẦU THAI KỲ
Lê Quang Tín*, Nguyễn Vạn Thông*, Nguyễn Thị Thanh Trúc*, Đặng Lê Dung Nghi*,
Phạm Thị Vân Anh*, Vũ Thị Nhung**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Chẩn đoán tiền sản được thực hiện chủ yếu trên mẫu nước ối trong 3 tháng giữa thai kỳ hoặc
trên mẫu gai nhau trong 3 tháng đầu thai kỳ. Tuy nhiên, tại Việt Nam, trong khi chẩn đoán tiền sản trên mẫu
nước ối được áp dụng khá rộng rãi thì chẩn đoán tiền sản trên mẫu gai nhau lại được áp dụng khá hạn chế nên
cần thêm nhiều nghiên cứu để cải thiện.
Mục tiêu: Đánh giá toàn diện việc ứng dụng kỹ thuật FISH và karyotype trên tế bào gai nhau tại bệnh viện
Hùng Vương nhằm phục vụ tốt chương trình chẩn đoán tiền sản trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Phương pháp: 67 ca được thực hiện sinh thiết gai nhau. Mẫu gai nhau sau sinh thiết sẽ được chia làm 2
phần để làm FISH và karyotype gai nhau. Kỹ thuật FISH gai nhau sử dụng mẫu dò AneuVysion để chẩn đoán
nhanh các đột biến lệch bội nhiễm sắc thể 13, 18, 21, X, Y. Kỹ thuật karyotype gai nhau kết hợp cả 2 phương pháp
nuôi cấy flask và nuôi cấy in situ để chẩn đoán bất thường số lượng và cấu trúc của toàn bộ bộ nhiễm sắc thể tế
bào gai nhau.
Kết quả: 62 ca được thực hiện FISH với 100% cho ra kết quả, đồng thời 98,2% trùng khớp với kết quả
karyotype. 67 ca được thực hiện karyotype với 91% số ca thực hiện thành công, tuy nhiên chất lượng tiêu bản vẫn
còn thấp nếu so với tiêu chuẩn mới của ACMG. Tỷ lệ bất thường trong nghiên cứu là 23,9%, trong đó thể tam
nhiễm 21 chiếm tỷ lệ cao nhất (10,4%).
Kết luận: Kỹ thuật FISH gai nhau đã cho thấy tính hiệu quả, tuy nhiên kỹ thuật karyotype gai nhau vẫn
chưa đạt được thành công như mong đợi nên cần phải nghiên cứu thêm để cải tiến kỹ thuật.
Từ khoá: FISH, karyotype, gai nhau, sinh thiết gai nhau, chẩn đoán tiền sản
ABSTRACT
THE APPLICATION OF FISH AND KARYOTYPING TECHNIQUES ON CHORIONIC VILLOUS CELLS
FOR FIRST TRIMESTER PRENATAL DIAGNOSIS
Le Quang Tin, Nguyen Van Thong, Nguyen Thi Thanh Truc, |Dang Le Dung Nghi,
Pham Thi Van Anh, Vu Thi Nhung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 431- 437
Background: Prenatal diagnosis was primarily performed on samples of amniotic fluid in second trimester
or of chorionic villus in first trimester of pregnancy. However, in Vietnam, while the prenatal diagnosis on
amniotic fluid is applied broadly, the prenatal diagnosis on chorionic villus is applied fairly limited and needs
more research to improve.
Objectives: To evaluate the application of FISH and karyotyping techniques at Hung Vuong Hospital to
better serve the prenatal diagnosis program in the first trimester of pregnancy.
Methods: Chorionic villus sampling was performed on 67 cases. Then the samples were divided into 2 parts
for FISH and karyotyping techniques. FISH technique on chorionic villus used AneuVysion probes to rapidly
* Bệnh viện Hùng Vương ** Hội Phụ Sản TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN. Lê Quang Tín ĐT: 0908938796 Email: lequangtin264@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 432
detect the aneuploidies of chromosomes 13, 18, 21, X, Y. And the karyotyping technique combined 2 methods of
flask culturing and in situ culturing to detect chromosomal abnormalities of chorionic vilous cells.
Results: 62 cases were performed FISH technique with all of them were informative and 98.2% coincided
with karyotype results. 67 cases were performed karyotyping technique with 91% of them successfully
implemented, however the quality of the templates was lower than the new standards of the ACMG. Abnormal
ratio was 23.9% in the study, including trisomy 21 accounted for the highest proportion (10.4%).
Conclusion: FISH technique on chorionic villus has proved effective, however karyotyping technique has not
achieved success as expected. So it need further research to improve the technology.
Keyword: FISH, karyotype, chorionic villus, CVS, prenatal diagnosis
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh ra một đứa con khỏe mạnh luôn là
mong muốn lớn nhất của tất cả các bậc làm cha
làm mẹ. Tuy nhiên, những bất thường ở thai nhi
vẫn có thể xảy ra ảnh hưởng đến sự phát triển
của trẻ sau này, trong đó, bất thường di truyền
luôn là mối quan tâm hàng đầu vì nó không thể
điều trị được và sẽ ảnh hưởng đến suốt cuộc đời
đứa trẻ. Vì vậy, các bậc phụ huynh có nhu cầu
muốn biết trước rằng liệu thai nhi có bị bất
thường di truyền hay không để họ có thể quyết
định nên tiếp tục dưỡng thai hay sẽ chấm dứt
thai kỳ. Từ đó, các xét nghiệm chẩn đoán tiền
sản ra đời nhằm giúp giải quyết nhu cầu bức
thiết này.
Trong chẩn đoán tiền sản, kỹ thuật nhiễm
sắc thể đồ (karyotype) được xem là tiêu chuẩn
vàng vì nó giúp phát hiện các bất thường về số
lượng cũng như cấu trúc của nhiễm sắc thể
(NST) thai nhi với độ chính xác cao (99,4% -
99,8%)(6). Tuy nhiên, kĩ thuật này phải trải qua
quá trình nuôi cấy tế bào nên thời gian trả kết
quả kéo dài khoảng 14 đến 21 ngày(6). Vào đầu
thập niên 1980, kỹ thuật FISH (fluorescence in
situ hybridization) ra đời cho phép rút ngắn thời
gian trả kết quả xuống còn 2 – 3 ngày. Kỹ thuật
này dựa vào tín hiệu huỳnh quang để phát hiện
sự có mặt hoặc vắng mặt của một đoạn gen nào
đó trên NST. Tuy nhiên, nhược điểm của kỹ
thuật này là chỉ khảo sát được các bất thường số
lượng NST thường gặp như 13, 21, 18, X, Y.
Ngày nay, cùng với sự tiến bộ của khoa học
kỹ thuật, chẩn đoán tiền sản đã phát triển mạnh
mẽ và rộng khắp trên toàn thế giới. Trong đó,
chẩn đoán tiền sản chủ yếu được thực hiện trên
mẫu nước ối hoặc gai nhau. Chẩn đoán tiền sản
trên mẫu nước ối là xét nghiệm phổ biến nhất
bởi ưu điểm đơn giản, tiện lợi, tuy nhiên nó chỉ
có thể thực hiện khi thai từ 16 tuần trở lên. Trong
khi đó, chẩn đoán tiền sản trên mẫu gai nhau tuy
phức tạp và có độ rủi ro cao hơn nhưng có thể
thực hiện ngay trong 3 tháng đầu thai kỳ, nhờ đó
việc chấm dứt thai kỳ trở nên đơn giản hơn khi
thai bất thường cũng như làm giảm tâm lý lo
lắng cho phụ huynh khi thai bình thường.
Tại Việt Nam, chẩn đoán tiền sản chủ yếu
được thực hiện trên mẫu nước ối. Các kỹ thuật
chẩn đoán tiền sản trên mẫu gai nhau vẫn còn
được áp dụng rất hạn chế. Riêng tại bệnh viện
Hùng Vương, chẩn đoán tiền sản vẫn chủ yếu
dựa trên mẫu nước ối với 2 kỹ thuật chính là
FISH và karyotype. Trong đó, nhiều trường hợp
thai có nguy cơ bất thường NST trong 3 tháng
đầu thai kỳ nhưng do những hạn chế và khó
khăn về kỹ thuật chẩn đoán tiền sản trên mẫu
gai nhau nên thai phụ đành chờ đến 3 tháng
giữa thai kỳ để chọc ối. Để khắc phục tình trạng
này, chúng tôi quyết định thực hiện nghiên cứu
này nhằm đánh giá toàn diện việc ứng dụng kỹ
thuật FISH và karyotype trên tế bào gai nhau tại
bệnh viện Hùng Vương, từ đó đề ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện các kỹ thuật này để phục
vụ tốt chương trình chẩn đoán tiền sản trong 3
tháng đầu thai kỳ tại bệnh viện Hùng Vương.
Ngoài ra, nghiên cứu còn có mục tiêu phụ là xác
định tỷ lệ bất thường di truyền của các thai có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 433
chỉ định làm sinh thiết gai nhau trong tam cá
nguyệt thứ nhất.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Báo cáo loạt ca
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Thai phụ có thai từ 11 đến 14 tuần đến khám
tại bệnh viên Hùng Vương và có 1 trong số các
chỉ định sau:
Kết quả sàng lọc trong quý I thai kỳ cho thấy
thai có nguy cơ cao bị tam nhiễm 13, 18 và 21
(T13 hoặc T18, T21 ≥ 1/250);
Siêu âm trong quý I của thai kỳ phát hiện
một số dị dạng có liên quan đến các bất thường
của NST;
Chỉ số NT (nuchal translucency) cao (≥ 3,5
mm);
Cha hoặc mẹ mang các bất thường NST cân
bằng và có thể di truyền cho con.
Các thai phụ được chọn lọc sẽ được tư vấn rõ
ràng và đều đồng ý tham gia nghiên cứu thông
qua bản cam kết đồng thuận có chữ ký của thai
phụ và chồng.
Tiêu chuẩn loại trừ
Rối loạn đông máu, giang mai, vị trí nhau
không phù hợp với sinh thiết qua ngả bụng.
Cỡ mẫu
Chọn mẫu toàn bộ
Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 1/2013 đến tháng 10/2015
Phương pháp tiến hành
Kỹ thuật sinh thiết gai nhau tại bệnh viện
Hùng Vương là kỹ thuật sinh thiết qua ngả bụng
dưới sự hướng dẫn của siêu âm. Bác sĩ sẽ gây tê
tại vị trí dự định sinh thiết, tiếp đó sẽ dùng kim
SpinoCan 25G đâm xuyên qua thành tử cung
đến vị trí bánh nhau để lấy 1 lượng nhỏ mẫu gai
nhau dưới áp lực âm. Mẫu gai nhau thu được sẽ
được rửa sạch máu mẹ và sẽ được thực hiện
FISH, karyotype. Trường hợp lượng mẫu quá
nhỏ không đủ thực hiện cả 2 xét nghiệm thì sẽ
ưu tiên thực hiện karyotype.
Kỹ thuật FISH gai nhau tại bệnh viện Hùng
Vương gồm 5 bước chính: xử lý mẫu, trải lam,
lai, rửa lai và phân tích kết quả. Trước tiên, mẫu
gai nhau thu được sẽ được xử lý bằng dung dịch
nhược trương sodium citrate và dung dịch cố
định Carnoy (3 methanol : 1 acid acetic). Dịch
sau xử lý sẽ được trải lên lam và sẽ được nhỏ 1
lượng mẫu dò lên lam (mẫu dò AneuVysion của
hãng Vysis với 2 loại là CEP 18/X/Y lai trên NST
18, X, Y và LSI 13/21 lai NST 13, 21). Tiếp đó, lam
sẽ được biến tính ở 730C trong 3 phút rồi được lai
qua đêm trong bể ổn nhiệt ở 420C. Sáng hôm sau,
lam sẽ được ngâm với các dung dịch rửa lai và
được nhuộm bằng thuốc nhuộm huỳnh quang
DAPI, sau đó sẽ được phân tích kết quả dưới
kính hiển vi huỳnh quang. Mỗi lam sẽ khảo sát
100 nhân, trường hợp nghi ngờ thể khảm thì sẽ
khảo sát 200 nhân.
Kỹ thuật karyotype gai nhau tại bệnh viện
Hùng Vương trải qua 4 bước chính: nuôi cấy gai
nhau, thu hoạch, nhuộm và phân tích kết quả.
Trong đó, quá trình nuôi cấy gai nhau được thực
hiện qua 2 giai đoạn: nuôi cấy flask (thời gian từ
9 – 15 ngày) và nuôi cấy in situ trên đĩa petri
chứa lá kính (từ 5 – 6 ngày) sử dụng môi trường
Aminomax đặc trưng cho tế bào gai nhau tăng
sinh. Sau khi đạt được mật độ tế bào phù hợp,
colcemid được thêm vào để ngưng phân bào ở
kỳ giữa. Tiếp đó, mẫu gai nhau sẽ được thu
hoạch bằng dung dịch nhược trương sodium
citrate và dung dịch cố định Carnoy, dán lá kính
lên lam. Lam sau khi thu hoạch sẽ được nhuộm
band G bằng Giemsa và trypsin, sau đó sẽ được
khảo sát và phân tích bằng hệ thống kính hiển vi
có kết nối với máy vi tính chứa phần mềm Meta
System. Dựa theo tiêu chuẩn trích trong
Diagnostic Cytogenetics (1999), mỗi ca sẽ khảo
sát (đếm số lượng NST và nhận biết NST giới
tính) ít nhất 15 cụm NST và phân tích (xếp thành
bộ karyotype hoàn chỉnh) 5 cụm NST.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 434
Thu thập và phân tích số liệu: Kết quả sẽ
được thu thập và phân tích bằng phần mềm
Microsoft Excel và Stata SE.
KẾT QUẢ
Tổng cộng có 67 thai phụ tham gia nghiên
cứu với đa số thai phụ trong khoảng 12 tuần tuổi
(64,2%). Trong 67 ca thực hiện sinh thiết gai
nhau, không có trường hợp nào không thu được
gai nhau cũng như không có trường hợp nào
gặp tai biến sau sinh thiết. Tuy nhiên, có 5
trường hợp lượng gai nhau thu được quá ít nên
chỉ đủ làm karyotype. Vì vậy, kỹ thuật FISH chỉ
thực hiện được trên 62 trong số 67 ca sinh thiết.
Bảng 1: Kết quả kỹ thuật FISH gai nhau
Kết quả FISH Số ca
Tỷ lệ (%)
N=62 N=67
Bình thường 47 75,8 70,1
Bình thường XX 20 32,3 29,9
Bình thường XY 27 43,5 40,3
Bất thường 15 24,2 22,4
Thể tam nhiễm 21 7 11,3 10,4
Thể tam nhiễm 18 3 4,8 4,5
Thể tam nhiễm 13 1 1,6 1,5
Thể đơn nhiễm X 4 6,5 6
Không thực hiện FISH 5 7,5
Tất cả các ca thực hiện FISH đều cho ra kết
quả với 24,2% ca bất thường, trong đó thể tam
nhiễm 21 chiếm tỷ lệ cao nhất (11,3%). Có 1
trường hợp thể khảm là thể đơn nhiễm X/ XY
với tỷ lệ khảm là 37% (74/200 nhân bất thường).
Bảng 2: Kết quả kỹ thuật karyotype gai nhau
Kết quả karyotype Số ca
Tỷ lệ (%)
N=61 N=67
Bình thường 46 75,4 68,7
Bình thường XX 20 32,8 29,9
Bình thường XY 26 42,6 38,8
Bất thường 15 24,6 22,4
Bất thường số lượng NST 14 23 20,9
Bất thường cấu trúc NST 1 1,6 1,5
Không ra kết quả 6 9
Trong 67 ca thực hiện karyotype, 61 ca cho ra
kết quả (91%) và 6 ca không cho ra kết quả (9%).
Các trường hợp bất thường số lượng NST là thể
tam nhiễm 13/18/21 và thể đơn nhiễm X. Trường
hợp bất thường cấu trúc duy nhất là chuyển
đoạn giữa NST 11 và NST 20:
46,XY,der(11)t(11;20)(q21;q13.1)pat.
Bảng 3: Tổng hợp kết quả FISH và karyotype gai
nhau
Kết quả xét nghiệm gai nhau Tổng (N=67) Tỷ lệ (%)
Bình thường 50 74,6
Bình thường XX 21 31,3
Bình thường XY 29 43,3
Bất thường 16 23,9
Thể tam nhiễm 21 7 10,4
Thể tam nhiễm 18 3 4,5
Thể tam nhiễm 13 1 1,5
Thể đơn nhiễm X 4 6
Bất thường cấu trúc 1 1,5
Không có kết quả 1 1,5
57 ca có cả 2 kết quả FISH lẫn karyotype,
trong đó 56 ca kết quả FISH và karyotpe trùng
khớp với nhau (chiếm 98,2%). Chỉ có duy nhất 1
trường hợp kết quả FISH và karyotype không
trùng khớp khi FISH cho ra bất thường thể khảm
đơn nhiễm X/ XY (37%) trong khi karyotype lại
cho ra kết quả bất thường toàn bộ (9 cụm NST
được khảo sát). Có 1 ca không có cả 2 kết quả do
không thực hiện FISH đồng thời karyotype cũng
thất bại. Với 2 trường hợp trên, thai phụ được đề
nghị chọc ối.
Kết quả karyotype có 15 ca bất thường trong
khi kết quả tổng hợp lại có 16 ca bất thường là do
1 trường hợp kết quả FISH cho ra thể đơn nhiễm
X nhưng karyotype lại không cho ra kết quả
(mẫu bị nhiễm). Thai phụ được đề nghị chọc ối
và kết quả xét nghiệm nước ối trùng khớp với
kết quả FISH gai nhau. Tương tự, kết quả FISH
có 15 ca bất thường trong khi kết quả tổng hợp
có 16 ca bất thường là do 1 trường hợp bất
thường cấu trúc không thể phát hiện bằng kỹ
thuật FISH mà chỉ phát hiện được bằng
karyotype (chuyển đoạn giữa NST 11 và 20).
Như vậy, tỷ lệ bất thường trong nghiên cứu là
23,9%, trong đó, thể tam nhiễm 21 vẫn là bất
thường phổ biến nhất với 10,4% (chiếm 43,8%
trong số các trường hợp bất thường).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 435
BÀN LUẬN
Kết quả sinh thiết gai nhau
Trong số 67 ca thực hiện sinh thiết gai nhau
tại bệnh viện Hùng Vương, không có trường
hợp nào gặp tai biến sau thủ thuật. Đây là một
kết quả khá khả quan, tuy nhiên tỷ lệ sẩy thai
theo lý thuyết là khoảng 1%(5).. Vì vậy, nếu muốn
chứng minh mức độ an toàn của kỹ thuật sinh
thiết gai nhau tại bệnh viện Hùng Vương, cần
phải nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn rất nhiều.
Kết quả FISH gai nhau
Kỹ thuật FISH gai nhau trong nghiên cứu
này được thực hiện trên 62 ca với 100% số ca cho
ra kết quả. Nếu so với kết quả karyotype, trong
số 57 ca có cả 2 kết quả FISH lẫn karyotype, tỷ lệ
tương thích giữa FISH và karyotype là 98,2%
(KTC 95% 0,91 – 0,99) với chỉ duy nhất 1 ca kết
quả FISH không trùng khớp với karyotype. Đó
là trường hợp kỹ thuật FISH cho ra kết quả thể
khảm đơn nhiễm X/ XY (74/200 nhân bất thường
chiếm 37%) trong khi karyotype cho ra bất
thường toàn bộ. Do karyotype được xem là tiêu
chuẩn vàng trong chẩn đoán tiền sản nên kết
quả karyotype có độ tin cậy rất cao. Tuy nhiên,
trong xét nghiệm gai nhau, kết quả đôi khi có sai
lệch mà nguyên nhân không phải xuất phát từ
vấn đề kỹ thuật mà là do những hạn chế của xét
nghiệm gai nhau. Do có sự khác biệt về nguồn
gốc của nhau và thai khi thai có nguồn gốc từ
khối tế bào trong (ICM: inner cell mass), trong
khi nhau có nguồn gốc từ khối tế bào trong lẫn
nguyên bào nuôi (trophoblast) trong giai đoạn
blastocyst(10). Vì vậy, nhiều khả năng kết quả về
mặt di truyền của thai và nhau sẽ khác nhau.
Trong đó, không loại trừ khả năng kết quả gai
nhau là bất thường trong khi thai là bình thường
tạo thành hiện tượng khảm khú trú bánh nhau
(CPM: confined placental mosaicsm)(3). Do đó, để
đảm bảo tính chính xác của kết quả, những ca
xét nghiệm gai nhau cho kết quả khảm nên tiếp
tục xét nghiệm nước ối để làm đối chứng(3,10).
Với trường hợp trong nghiên cứu, nếu kết
quả chọc ối là thể đơn nhiễm X (toàn bộ hoặc
khảm) thì đây là trường hợp khảm thật sự. Nếu
kết quả chọc ối là bình thường thì đây là trường
hợp khảm khu trú bánh nhau loại II hoặc III (bất
thường tồn tại trên tế bào gai nhau nuôi cấy
nhưng không tồn tại trong thai)(3). Đáng tiếc là
thai phụ đã quyết định bỏ thai thay vì chọc ối, do
đó ta không thể biết chính xác thai nhi rơi vào
trường hợp nào. Dù vậy, với việc thể đơn nhiễm
X tồn tại ở cả kết quả FISH lẫn karyotype, đồng
thời cũng phù hợp với kết quả siêu âm (nang
thanh dịch vùng gáy) nên cũng cho thấy độ tin
cậy của 2 kỹ thuật này.
Nếu so với các nghiên cứu khác trên thế giới
như của Brydorf (1996), Quilter (2001), Goumy
(2004), Toutain (2009) thì các nghiên cứu này
cũng tương tự như nghiên cứu của chúng tôi với
100% số ca thực hiện cho ra kết quả và gần như
tất cả đều trùng khớp với karyotype(1,2,7,9). Kết
quả của nghiên cứu này cũng cho thấy độ nhạy
và độ đặc hiệu của kỹ thuật FISH gai nhau là gần
như tuyệt đối, khi không có trường hợp dương
tính giả hay âm tính giả nào được ghi nhận. Do
đó, có thể khẳng định FISH gai nhau là một công
cụ chẩn đoán nhanh, hiệu quả và chính xác.
Trong số các xét nghiệm tiền sản nhanh hiện
nay, bên cạnh kỹ thuật FISH, kỹ thuật QF-PCR
(Quantitative Fluorescence Polymerase Chain
Reaction) tuy ra đời muộn hơn nhưng ngày càng
trở nên phổ biến nhờ các ưu điểm như đơn giản,
có thể tự động hoá, lượng mẫu sử dụng ít, có thể
trả kết quả trong ngày... Tuy nhiên, kỹ thuật này
đòi hỏi hệ thống PCR và hệ thống điện di mao
quản đắt tiền trong khi kỹ thuật FISH chỉ cần hệ
thống kính hiển vi huỳnh quang thường có tại
các trung tâm tế bào di truyền(6). Bên cạnh đó, kỹ
thuật FISH rất có hiệu quả trong chẩn đoán các
trường hợp thể khảm do khảo sát từng nhân tế
bào nên sẽ cho ra cụ thể tỷ lệ bất thường. Số
lượng nhân tế bào được khảo sát trong trường
hợp thể khảm sẽ tăng lên (khoảng 200 nhân) để
cho ra tỷ lệ bất thường chính xác, điều mà kỹ
thuật QF-PCR rất khó để xác định. Vì vậy, kỹ
thuật FISH vẫn còn đóng vai trò quan trọng, đặc
biệt ở các trung tâm di truyền vừa và nhỏ(6).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 22 * Số 3 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 436
Kết quả karyotype gai nhau
Trong số 67 ca thực hiện karyotype, có 56 ca
đạt tiêu chuẩn (chiếm 83,6%), 11 ca không đạt
tiêu chuẩn, trong đó có 3 ca không có tế bào.
Trong 8 ca còn lại, có 5 ca có kết quả bất thường
và cả 5 ca đều trùng với kết quả FISH nên vẫn có
thể trả kết quả. Tổng cộng có 61 ca cho ra kết quả
karyotype và 6 ca không cho ra kết quả. Như
vậy, tỷ lệ thành công của karyotype gai nhau
trong nghiên cứu này là 91% (KTC 95% 0,82 –
0,97). Trong số các ca thực hiện thành công, kết
quả các cụm được khảo sát đều trùng khớp với
nhau và trùng khớp với kết quả FISH (không
tính trường hợp thể khảm). Trong số 6 ca thất bại
có 1 ca không làm FISH, vì thế không có kết quả
để trả và thai phụ được đề nghị chọc ối. Trong 5
ca còn lại, có 3 ca thai phụ muốn chọc ối làm xét
nghiệm và cả 3 ca kết quả đều trùng khớp với
kết quả FISH gai nhau.
Trong số 6 ca thất bại, có 1 ca bị nhiễm
khuẩn, 2 ca tế bào không phát triển và 3 ca
không đủ số lượng cụm NST để trả kết quả.
Trường hợp bị nhiễm có thể do sơ suất trong quá
trình thao tác. Nguyên nhân tế bào không phát
triển là do lượng mẫu thu được quá ít, vì vậy
không thể phân biệt được đó là gai nhau hay là
màng rụng của mẹ. Do đó, nhiều khả năng mẫu
cấy không phải là gai nhau nên tế bào không thể
tăng sinh trong môi trường nuôi cấy. Với 3 ca có
số lượng cụm NST ít (12, 13, và 10 cụm NST), do
không phù hợp với tiêu chuẩn đã đề ra (15 cụm)
nên không thể trả kết quả.
Nếu so với các nghiên cứu của Iqbal (1998),
Sikkema- Raddatz (2000), Jorge (2014) thì kết quả
karyotype trong nghiên cứu này vẫn còn thấp
hơn so với các nghiên cứu khác trên thế giới
(mức độ thành công lần lượt là 99,6; 99,7 và
93,7%)(4,5,8). Đồng thời, theo tiêu chuẩn mới nhất
của ACMG công bố năm 2009, karyotype gai
nhau nên khảo sát ít nhất là 20 cụm NST đến từ 2
nuôi cấy độc lập tức cao hơn tiêu chuẩn hiện tại
của phòng chúng tôi. Tuy nhiên, trong điều kiện
của bệnh viện Hùng Vương hiện nay rất khó để
áp dụng tiêu chuẩn này mà nguyên nhân chủ
yếu là do trang thiết bị còn hạn chế. Khác với
nuôi cấy tế bào ối, nuôi cấy gai nhau khó khăn
hơn nhiều đồng thời cũng có những đòi hỏi cao
hơn về trang thiết bị và hóa chất sử dụng. Bên
cạnh đó, vấn đề giá thành của 1 ca nuôi cấy gai
nhau cần phù hợp với kinh tế của người dân
Việt Nam. Nếu như theo tiêu chuẩn mới này,
trong số 67 ca thực hiện karyotype, chỉ có 32 ca
đạt chuẩn về số lượng cụm NST chiếm tỷ lệ
47,8%. Vì vậy, trước mắt chúng tôi chưa thể áp
dụng tiêu chuẩn mới của ACMG. Tuy nhiên,
chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục nghiên cứu cải tiến
nhằm hướng đến tiêu chuẩn mà ACMG vừa
công bố.
Tóm lại, do những hạn chế về trang thiết bị
và hóa chất, chất lượng karyotype gai nhau vẫn
chưa đạt được thành công như mong đợi. Vì
vậy, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu cải tiến sao
cho kỹ thuật karyotype gai nhau có thể cho ra
chất lượng tốt nhất trong điều kiện cơ sở vật chất
thiết bị phòng xét nghiệm di truyền của bệnh
viện Hùng Vương hiện nay.
Như vậy, nếu tổng hợp cả kết quả FISH lẫn
karyotype gai nhau, trong số 67 ca trong nghiên
cứu, có 50 ca bình thường chiếm tỷ lệ 74,6% và
16 ca bất thường chiếm 23,9%, trong đó thể tam
nhiễm 21 có số lượng nhiều nhất (chiếm 43,8%
trong các ca bất thường). Điều này phù hợp với y
văn do thể tam nhiễm 21 là bất thường di truyền
phổ biến nhất(1,9). Nhìn chung, tỷ lệ bất thường
của các ca làm sinh thiết gai nhau cao hơn nhiều
so với các ca chọc ối (vốn chỉ chiếm từ 3 – 5%
theo số liệu từ phòng Di truyền – Bệnh viện
Hùng Vương). Nguyên nhân là do nhiều trường
hợp bất thường NST trong tam cá nguyệt thứ
nhất sẽ sẩy thai trước khi bước qua tam cá
nguyệt thứ 2. Do đó, số ca bất thường NST được
phát hiện trong tam cá nguyệt thứ nhất sẽ cao
hơn trong tam cá nguyệt thứ 2. Bên cạnh đó
những ca có chỉ định sinh thiết gai nhau thường
có tỷ lệ bất thường trên siêu âm cao hơn so với
chỉ định chọc ối.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 437
Nguy cơ nhiễm tế bào mẹ
Nhiễm tế bào mẹ là một vấn đề lớn trong
chẩn đoán tiền sản vì có thể làm sai lệch kết quả.
Trong xét nghiệm gai nhau, màng rụng và máu
chính là nguồn tế bào mẹ trong mẫu nhau(10). Tuy
nhiên, vấn đề không quá nghiêm trọng như xét
nghiệm nước ối do mẫu nhau thu được bằng kỹ
thuật sinh thiết gai nhau sẽ trải qua quá trình
tách máu và màng rụng trước khi xét nghiệm(2).
Nếu quá trình phân tách ban đầu tốt thì tế bào
mẹ nếu còn sót lại cũng chỉ nằm trong khoảng từ
1,8 – 4%, không ảnh hưởng nhiều đến kết quả.
KẾT LUẬN
Qua 67 trường hợp thực hiện sinh thiết gai
nhau tại bệnh viện Hùng Vương, tỷ lệ bất
thường là 23,9%, trong đó thể tam nhiễm 21
chiếm tỷ lệ cao nhất (10,4%). Kỹ thuật FISH đã
cho thấy tính hiệu quả với 100% số ca cho ra kết
quả, đồng thời sự tương thích giữa kết quả FISH
và karyotype gai nhau là 98,2% (KTC 95% 0,91 –
0,99). Kỹ thuật karyotype gai nhau tuy có tỷ lệ
thành công 91% (KTC 95% 0,82 – 0,97) thấp hơn
so với nhiều nghiên cứu khác trên thế giới, đồng
thời chất lượng tiêu bản cũng thấp hơn so với
tiêu chuẩn của ACMG. Do đó, cần tiếp tục
nghiên cứu với số lượng mẫu lớn hơn nhằm cải
tiến quy trình karyotype gai nhau để nâng cao
chất lượng kỹ thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bryndorf T, Christensen B, Vad M, Parner J, Carelli M, Ward
B, Klinger K, Bang J, Philip J (1996), "Prenatal detection of
chromosome aneuploidies in uncultured chorionic villus
samples by FISH", Am J Hum Genet, 59 (4), 918-926.
2. Goumy C, Bonnet-Dupeyron M, Cherasse Y, Laurichesse H,
Jaffray J, Lacroute G, Geneix A, Lemery D, Vago P (2004),
"Chorionic villus sampling (CVS) and fluorescence in situ
hybridization (FISH) for a rapid first-trimester prenatal
diagnosis", Prenatal Diagnosis, 24 (4), 249-256.
3. Grati F, Grimi B, Frascoli G, Di Meco A, Liuti R, Milani S,
Trotta A, Dulcetti F, Grosso E, Miozzo M, Maggi F, Simoni G
(2006), "Confirmation of mosaicism and uniparental disomy in
amniocytes, after detection of mosaic chromosome
abnormalities in chorionic villi", European Journal of Human
Genetics, 14 (3), 282–288.
4. Iqbal M, Manko G, Trabin J, Virelles C, Jackson L (1998),
"Cytogenetic evaluation of 1000 cases of chorionic villus
sampling", Annals of Saudi Medicine, 18 (6), 506-510.
5. Jorge P, Mota-Freitas M, Santos R, Luz Silva M, Soares G,
Fortuna A (2014), "A 26-Year Experience in Chorionic Villus
Sampling Prenatal Genetic Diagnosis", Journal of Clinical
Medicine, 3 (3), 838-848.
6. Nguyễn Vạn Thông, Khổng Hiệp, Hoàng Hiếu Ngọc, Phạm
Hùng Vân (2011), "Ứng dụng và kinh nghiệm sử dụng kỹ
thuật chẩn đoán nhanh (FISH, MLPA và QF-PCR) các bất
thường lệch bội nhiễm sắc thể thường gặp trong chẩn đoán
trước sinh", Tạp chí Y Học Thành Phố Hồ Chí Minh, 15 (2), 39-44.
8
7. Quilter C, Holman S, Al-Hammmandi R, Theodorides D,
Hasting R, Delhanty J (2001), "Aneuploidy screening in direct
chorionic villus samples by flourescence in situ hybridisation:
the uses of commercial probes in a clinical setting", British
Journal of Obstetrics and Gynaecology, 108 (2), 215-218. 6
8. Sikkema-Raddatz B, Bouman K, Verschuuren-Bemelmans C,
Stoepker M, Mantingh A, Beekhuis J, de Jong B (2000), "Four
years' cytogenetic experience with the culture of chorionic
villi", Prenatal Diagnosis, 20 (12), 950-955. 7
9. Toutain J, Epiney M, Begorre M, Dessuant H, Vandenbossche
F, Horovitz J, Saura R (2010), "First-trimester prenatal
diagnosis performed on pregnant women with fetal
ultrasound abnormalities: The reliability of interphase
fluorescence in situ hybridization (FISH) on mesenchymal
core for the main aneuploidies", European Journal of Obstetrics
& Gynecology and Reproductive Biology, 149, 143-146.
Ngày nhận bài báo: /10/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: /10/2017
Ngày bài được đăng: 20/04/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ung_dung_ky_thuat_fish_va_karyotype_tren_te_bao_gai_nhau_tro.pdf