Tài liệu Ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ tại học viện khoa học quân sự - Đặng Thế Tuấn: 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Công nghệ thông tin (CNTT) là ngành ứng
dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. Khái
niệm CNTT được đưa ra đầu tiên trong Nghị quyết
số 49/CP ngày 04/8/1993 của Chính phủ về Phát
triển công nghệ thông tin ở nước ta trong những
năm 90: “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa
học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại
- chủ yếu là máy tính và các mạng viễn thông -
nhằm cung cấp các giải pháp tổng thể để tổ chức,
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin phong phú và tiềm tàng trong
mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
Đã có nhiều nghiên cứu khai thác ứng dụng
CNTT hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học, tiêu
biểu như: Nguyễn Thị Thanh Hải (2013) “Ứng
ĐẶNG THẾ TUẤN*
*Học viện Khoa học Quân sự, dthetuan@yahoo.com
Ngày nhận bài: 18/4/2018; ngày sửa chữa: 20/8/2018; ngày duyệt đăng: 30/8/2018
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ H...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ tại học viện khoa học quân sự - Đặng Thế Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Công nghệ thông tin (CNTT) là ngành ứng
dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. Khái
niệm CNTT được đưa ra đầu tiên trong Nghị quyết
số 49/CP ngày 04/8/1993 của Chính phủ về Phát
triển công nghệ thông tin ở nước ta trong những
năm 90: “CNTT là tập hợp các phương pháp khoa
học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại
- chủ yếu là máy tính và các mạng viễn thông -
nhằm cung cấp các giải pháp tổng thể để tổ chức,
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin phong phú và tiềm tàng trong
mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
Đã có nhiều nghiên cứu khai thác ứng dụng
CNTT hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học, tiêu
biểu như: Nguyễn Thị Thanh Hải (2013) “Ứng
ĐẶNG THẾ TUẤN*
*Học viện Khoa học Quân sự, dthetuan@yahoo.com
Ngày nhận bài: 18/4/2018; ngày sửa chữa: 20/8/2018; ngày duyệt đăng: 30/8/2018
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC NGOẠI NGỮ
TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ
TÓM TẮT
Hiện nay, Học viện Khoa học Quân sự đã xây dựng một số các phòng học đa phương tiện và phòng
dạy học dịch ca-bin. Các phương tiện kỹ thuật, thiết bị công nghệ thông tin phổ biến như máy vi tính,
ti vi, máy trình chiếu đã trang bị đến từng phòng học và phòng làm việc. Tuy nhiên, việc khai thác,
ứng dụng còn chưa đạt kết quả như mong muốn. Trong bài viết này, chúng tôi chia sẻ một số kinh
nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong biên soạn đổi mới giáo trình tài liệu; thiết kế và thể hiện
bài giảng; khai thác, sử dụng phòng đa chức năng và thư viện điện tử nhằm góp phần đẩy mạnh khai
thác ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao hiệu quả học ngoại ngữ.
Từ khóa: công nghệ thông tin, phòng học đa phương tiện, thư viện điện tử, dạy học ngoại ngữ
dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đổi mới phương
pháp giảng dạy các môn khoa học Mác- Lênin”2,
Nguyễn Minh Tuấn (2016) “Khai thác ứng dụng
công nghệ thông tin hỗ trợ đổi mới phương pháp
dạy học”3 Đối với lĩnh vực dạy học ngoại ngữ
cũng có nhiều nghiên cứu đóng góp thiết thực,
như: Đặng Thế Tuấn (2015) “Khai thác thiết bị dạy
học trong dạy các kỹ năng thực hành tiếng tại Học
viện Khoa học Quân sự”, Đinh Thúy Ngần (2016)
“Xây dựng bài tập nghe trên máy tính cho học viên
tiếng Nga”, Võ Thị Kim Oanh (2017) “Thiết kế
xây dựng và đánh giá việc sử dụng khóa học trực
tuyến trên website Myelt cho giáo trình Life cấp
độ B1”
Tuy nhiên, việc nghiên cứu ứng dụng CNTT
trong biên soạn đổi mới giáo trình, thiết kế bài
98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
giảng, khai thác phòng học đa chức năng và thư
viện điện tử nhằm nâng cao hiệu quả dạy học
ngoại ngữ còn chưa nhiều, cần tiếp tục nghiên cứu,
chia sẻ.
2. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN TRONG DẠY HỌC
2.1. Biên soạn, đổi mới giáo trình, tài liệu
dạy học
Các giáo trình, tài liệu truyền thống tồn tại
dưới hình thức là những cuốn sách bản giấy, so
với giáo trình, tài liệu điện tử là các file văn bản kỹ
thuật số thì giáo trình, tài liệu truyền thống chiếm
nhiều không gian bảo quản, nhanh bị phai mờ,
rách nát theo quá trình di chuyển, sử dụng. Với
sự phát triển của CNTT hiện nay, dung lượng nhớ
của các thiết bị nhớ có thể nói là vô hạn so với kích
thước nhỏ bé của các file văn bản kỹ thuật số. Nếu
chúng ta chuyển các cuốn giáo trình, tài liệu dạy
học thành các file văn bản thì không những tiết
kiệm không gian bảo quản mà còn thuận tiện trong
tìm kiếm, dễ mang theo, thậm chí không cần mang
theo khi di chuyển, nếu sử dụng Internet và đám
mây điện tử.
Cách để chuyển đổi những cuốn giáo trình
truyền thống thành những file văn bản tương đối
dễ dàng, nhanh chóng và thuận tiện dưới sự hỗ trợ
của các thiết bị CNTT, bao gồm: máy Scan (quét
tài liệu) kết nối với máy vi tính và phần mềm hỗ
trợ scan. Các file văn bản được lưu lại dưới các
định dạng khác nhau, trong đó phổ biến nhất là
định dạng PDF.
Việc biên soạn mới các giáo trình, tài liệu hiện
nay đang được phổ biến soạn thảo trên ứng dụng
Microsoft Office Word, chúng được lưu lại ở file
văn bản định dạng phổ biến là DOC, hoặc cũng có
thể chuyển đổi sang định dạng PDF đều đảm bảo
thuận tiện bảo quản và sử dụng.
Nâng cao chất lượng dạy học luôn đòi hỏi phải
liên tục nghiên cứu đổi mới, cập nhật nội dung để
biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học cho phù hợp
với yêu cầu phát triển của giáo dục-đào tạo và đặc
thù của chuyên ngành.
Đối với dạy học ngoại ngữ, bao gồm cung cấp
kiến thức ngôn ngữ và bồi dưỡng các kỹ năng:
nghe, nói, đọc, viết, phiên dịch và biên dịch. Các
giáo trình, tài liệu dạy học trước đây chủ yếu là các
văn bản in những chữ viết và hình ảnh đen trắng,
kèm theo đó là các băng cassette hoặc CD, VCD,
DVD để luyện tập ngữ âm và bồi dưỡng kỹ năng
nghe. Các giáo trình, tài liệu và các học liệu kèm
theo đó có tính độc lập tương đối, khi sử dụng phải
theo những quy trình thao tác trang thiết bị dạy học
phức tạp, tốn thời gian, gián đoạn theo dõi, hiệu
quả tiếp thu và hình thành kỹ năng chậm. Hiện
nay, dưới sự hỗ trợ của CNTT, chúng ta có thể tích
hợp ảnh màu, âm thanh, video clip vào giáo trình,
tài liệu điện tử làm tăng mức độ trực quan, tính
chân thực và rút ngắn quy trình thao tác sử dụng,
quá trình luyện tập trở nên trực tiếp, hiệu quả hơn.
Ví dụ, biên soạn giáo trình, tài liệu dạy học về ngữ
âm, chữ viết và từ vựng trên ứng dụng Microsoft
Office Word, chúng ta có thể tạo các đường liên
kết (link) chỉ dẫn các ký hiệu phiên âm và âm tiết
đến các file âm thanh đã lưu sẵn hoặc ứng dụng
flash mô phỏng phát âm, ví dụ: ứng dụng miễn
phí pinyinchart1, tạo link chỉ dẫn các chữ Trung
Quốc đến ứng dụng mô tả cách viết chữ đã được
cài trong máy vi tính, ví dụ: ứng dụng miễn phí
Chinese Writing Master 4.02, hoặc thêm các file
hình ảnh minh họa đồ vật bên cạnh từ mới, cụ thể
như sau:
门 mén cửa
坐 zuò ngồi
吃 chī ăn
99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
Với các giáo trình, tài liệu điện tử là file định
dạng PDF, nếu cần bổ sung, chỉnh sửa, nâng cấp
nội dung, chúng ta có thể dùng phần mềm Arcobat
Pro3 để chỉnh sửa trực tiếp hoặc dùng các phần
mềm nhận dạng chữ như ABBYY FineReader4
chuyển đổi sang file định dạng DOC để chỉnh sửa.
Biên soạn, nâng cấp giáo trình, tài liệu liên
quan đến bồi dưỡng các kỹ năng: nghe, nói, phiên
dịch thì ngoài những nội dung cần bổ sung, chỉnh
sửa và cách làm tương tự như trên, chúng ta còn
phải tính đến bản chất mục tiêu của rèn luyện các
kỹ năng ngoại ngữ là tiến tới rèn luyện khả năng
giao tiếp. Ngoài khả năng ngoại ngữ, còn một số
yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng không nhỏ đến
khả năng giao tiếp trực tiếp như: vai trò của các
đối tác, tâm trạng của các đối tác, mối quan hệ
giữa các đối tác và môi trường giao tiếp các yếu
tố này không thể hiện được bằng văn bản, mà phải
cung cấp kèm theo các video clip để học viên có
thể quan sát, mô phỏng. Ví dụ, các video clip về
giao tiếp theo chủ đề đang học, video clip tiếp đón
đoàn Việt Nam với các nước hoặc các video clip
diễn văn, phát biểu hội nghị hội thảo để học viên
luyện tập dịch nói theo các video clip đó...
2.2. Thiết kế và thể hiện bài giảng
Phần mềm được sử dụng phổ biến nhất hiện
nay phục vụ trực tiếp cho việc thiết kế và thể
hiện bài giảng là Microsoft PowerPoint. Các bài
giảng được thiết kế và thể hiện bằng Microsoft
PowerPoint (gọi tắt là bài giảng PowerPoint) có
sự hỗ trợ của máy vi tính, máy trình chiếu và loa
vi tính (hoặc kết nối với màn hình Tivi cỡ lớn)
để thuận tiện trong quá trình dạy học. Bài giảng
Microsoft PowerPoint làm cho kiến thức được trực
quan hóa bằng kênh hình (có thể kết hợp cả kênh
tiếng) và nhờ có sự minh họa sinh động của công
nghệ, sẽ hỗ trợ học viên nhận thức các cơ chế, quá
trình trừu tượng được tốt hơn.
Tuy nhiên, khi thiết kế bài giảng PowerPoint,
giảng viên phải đầu tư thời gian tìm hình ảnh minh
họa, âm thanh, tư liệu dẫn chứng phù hợp với
nội dung bài giảng.
Ví dụ như thiết kế bài giảng PowerPoint cho
bài thực hành tiếng “请把护照和机票给我”. Căn
cứ vào mục tiêu, nội dung, trọng tâm, trọng điểm
dạy học, giảng viên có thể bổ sung các nội dung hỗ
trợ bài giảng như sau:
Thứ nhất, học viên sau khi học phải phát âm
đúng, viết chữ đúng, hiểu được ý nghĩa của từ mới.
Do vậy, khi thiết kế bài giảng, giảng viên có thể liệt
kê các từ mới và tạo link, hoặc nhúng các file âm
thanh tương ứng cho các từ mới vào các slide, để
học viên có thể nghe, mô phỏng và luyện tập phát
âm. Tiếp theo là tạo link dẫn các chữ Trung Quốc
của các từ mới đến ứng dụng trình diễn cách viết
chữ để học viên được quan sát một cách rõ ràng
thứ tự viết từng nét cho một chữ, qua đó có thể
thực hành luyện viết chữ một cách nhanh chóng
và chính xác.
Thứ hai, đối với các từ ngữ trọng điểm, giảng
viên nên tổ chức thành câu và tìm kiếm hình ảnh
minh họa cho sự kiện đó để đưa vào slide, ví dụ
như dưới. Bằng hỗ sự trợ trực quan của hình ảnh,
học viên có thể vừa luyện đọc vừa khắc sâu được
ý nghĩa của các từ ngữ liên trọng điểm của bài.
Thứ ba, đối với trọng điểm ngữ pháp, giảng
viên cần khái quát thành công thức đưa vào slide,
sau đó cung cấp từ để yêu cầu học viên tự thay thế
thành câu, ví dụ như hình dưới đây.
100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
Thứ tư, luyện tập các kỹ năng nghe nói, giảng
viên cần đưa các slide có hình ảnh hoặc video clip
để học viên quan sát và thực hành thuật lại các
hành động gợi ý trên slide.
Tuy nhiên, những kiến thức, tình huống mà
chúng ta cung cấp nêu ở các bước trên đây chỉ
nằm trong khuôn khổ của giờ học trên lớp, nên
vẫn còn hạn hẹp, mới chỉ trang bị cho học viên
khả năng tiếp tục tự học, tự rèn luyện các kỹ năng
về nội dung cụ thể đó. Muốn học viên có thể luyện
tập thành thục khả năng ngôn ngữ và vận dụng
tốt vào giao tiếp thì ngoài việc yêu cầu học viên
hoàn thành bài tập của giáo trình, chúng ta nên
phải hướng dẫn cho học viên cách tra cứu, bổ sung
kiến thức qua thư viện điện tử. Luyện nghe, nói,
đọc, viết qua các tài liệu, phần mềm ứng dụng
hoặc video clip trên Internet
2.3. Khai thác, sử dụng phòng học đa năng
Hiện nay, Học viện Khoa học Quân sự đã xây
dựng, trang bị được một số phòng học đa năng
các loại (còn gọi là phòng học đa phương tiện,
multimedia classroom) và 01 phòng dạy học dịch
ca-bin. Các phòng học đa năng có nhiều tính năng
đảm bảo áp dụng vào dạy học:
- Thiết lập nhiều màn hình, để quản lý nhiều
công việc, thực hiện nhiều thao tác thuận tiện trên
một máy tính như: phát video, chỉnh sửa văn bản,
chỉnh sửa các slide, quản lý lớp học ...
- Truyền tải hình ảnh của giảng viên, nhằm
tăng hiệu quả tương tác và giao lưu trực tiếp trong
hoạt động dạy học.
- Sử dụng tính năng giám sát màn hình học
viên để bám sát tình hình học tập của học viên, kịp
thời phát hiện khó khăn, vướng mắc và sẵn sàng
đưa ra những gợi ý, chỉ dẫn giúp đỡ
- Với tính năng trợ giúp từ xa kết hợp với tính
năng trình diễn nội dung từ máy giảng viên truyền
lên trên máy của học viên giúp cho quá trình dạy
học, hướng dẫn, giúp đỡ từng học viên được đảm
bảo nhanh chóng, rõ ràng, cụ thể nhưng không ảnh
hưởng đến trật tự lớp học và việc tự học của học
viên khác.
- Có thể truyền tải âm thanh từ giảng viên đến
các máy tính của học viên, đảm bảo cho giảng viên
thực hiện các nội dung hướng dẫn, hoặc đưa ra các
yêu cầu học tập bằng giọng nói. Đặc biệt là việc
hướng dẫn luyện tập ngữ âm và luyện tập kỹ năng
nghe, nói.
- Có thể tạo ra hệ thống thông tin liên lạc giữa
hai bộ phận, đây là tính năng chia nhóm thảo luận,
nhưng vẫn đảm bảo tính độc lập để các nhóm có
thể tiến hành đồng thời.
- Truyền giọng nói của học viên, để học viên
chủ động nêu yêu cầu trợ giúp, phát biểu ý kiến
hoặc trình bày nội dung luyện tập khẩu ngữ.
- Tính năng yêu cầu trợ giúp của học viên - Giơ
tay phát biểu, giúp cho học viên yêu cầu trợ giúp
hoặc xin được phát biểu một cách nhanh chóng
ngay trên màn hình của giảng viên, đảm bảo không
làm mất tập trung tự học tập, nghiên cứu của học
viên khác.
Khai thác sử dụng các phòng học đa năng này
không những nâng cao chất lượng truyền đạt kiến
thức ngôn ngữ, nâng cao hiệu quả rèn luyện, bồi
dưỡng đồng thời các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
mà còn giúp cho học viên làm chủ được CNTT,
nâng cao khả năng giao tiếp qua CNTT.
Đối với phòng học dịch ca-bin, giảng viên tổ
chức lớp học thành những buổi hội nghị, cho các
học viên thay đổi nhau vào các vai là thành viên
101KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
TRAO ĐỔI v
hội nghị và người phiên dịch để tổ chức luyện tập.
Qua đó, không những nâng cao khả năng phiên
dịch sát với tình huống thực tiễn, mà còn rèn
luyện, bồi dưỡng cho học viên tư chất, bản lĩnh
của người cán bộ.
2.4. Khai thác thư viện điện tử
Thư viện của Học viện Khoa học Quân sự
hiện nay, ngoài chức năng của một thư viện truyền
thống, còn được trang bị hệ thống nhiều máy tính
có kết nối internet và kết nối với các cơ sở dữ liệu
của các Học viện, Nhà trường khác (có đủ các điều
kiện của thư viện điện tử). Đây là một trong những
cơ sở vật chất CNTT, cung cấp cho giảng viên có
đủ phương tiện tra cứu, thu thập tài liệu phục vụ
giảng dạy và nghiên cứu khoa học, học tập đổi mới
phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng dạy
học nói chung.
Các giảng viên giảng dạy ngoại ngữ đang tích
cực khai thác, tìm hiểu thông tin, nắm bắt xu thế
yêu cầu của xã hội về nguồn nhân lực chất lượng
cao, xu thế yêu cầu về chất lượng dạy học ngoại
ngữ. Trong thư viện điện tử, các giảng viên có thể
ứng dụng CNTT vào khai thác các kho dữ liệu
trực tuyến như: www.cnki.net, bcc.blcu.edu.cn
để sưu tầm tài liệu, nghiên cứu đổi mới nội dung,
chương trình, giáo trình, phương pháp dạy học.
Tra cứu, ứng dụng khai thác các wesite dạy học
và kiểm tra trình độ ngoại ngữ online như: http://
www.manythings.org/ (dạy học tiếng Anh), https://
www.busuu.com (dạy học 12 ngôn ngữ khác
nhau),
(thi HSK). Tìm kiếm tải về, cài đặt sử dụng các
phần mềm, ứng dụng, như: ứng dụng hướng dẫn
phát âm, ứng dụng hướng dẫn viết chữ 笔顺查
询工具5,phần mềm xây dựng ngân hàng đề thi
MCMIX, phần mềm soạn bài tập HOTPOTATO
Đối với học viên, bao gồm cả học viên cao
học và nghiên cứu sinh thì thư viện chính là nơi
cung cấp nguồn thông tin quan trọng nhất trong
nhà trường, là điểm kết nối giữa nguồn thông tin
của xã hội và nhu cầu thông tin của học viên, là
môi trường rèn luyện và phát huy năng lực độc
lập trong việc khám phá và tư suy sáng tạo. Thư
viện mở ra một môi trường tri thức rộng lớn, thông
thoáng và đa dạng để học viên “thỏa sức” mở rộng
tầm nhìn và nuôi dưỡng, thực hiện ước mơ. Ở đó,
bài giảng của giảng viên chỉ còn là những “cọc
tiêu” để học viên định hướng, xác định mục tiêu
của công cuộc khám phá. Tuy nhiên, việc tiếp cận
và sở hữu tri thức chỉ thật sự có hiệu quả trên tính
tự giác của học viên, nó bị chi phối bởi chính việc
xác định mục tiêu học tập và khả năng tự học, tự tra
cứu của học viên. Do vậy, để nâng cao chất lượng
dạy học và đặc biệt là chất lượng tự học của học
viên, thì giảng viên phải nỗ lực định hướng cho
học viên hình thành những ước mơ, hoài bão, dựa
trên những mục tiêu nhiệm vụ học tập, nghiên cứu.
Để học viên có thể tự giác đến thư viện tìm tòi,
nghiên cứu thì giảng viên phải hướng dẫn cho học
viên tư duy phản biện, có phản biện thì mới nảy
sinh vấn đề và nhu cầu giải quyết vấn đề, có nhu
cầu giải quyết vấn đề thì ắt phải cần tri thức, mà
một trong những kho tàng tri thức nhân loại chính
là thư viện. Để học viên tự chủ, tự giác tích cực
học tập nghiên cứu giảng viên còn phải hướng dẫn
cách tự học và cách làm chủ phương tiện hỗ trợ tự
học, đặc biệt là CNTT, có như vậy học viên mới
thực sự tìm thấy hiệu quả trong tự học tập nghiên
cứu, từ đó tự tin để tiếp tục tự giác tích cực học tập
nghiên cứu.
3. KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi đã
nêu một số những thao tác ứng dụng cơ bản, cụ thể
để khai thác các trang thiết bị CNTT nâng cao hiệu
quả dạy và học ngoại ngữ. Tuy nhiên, để khai thác
có hiệu quả những ứng dụng CNTT thì vấn đề cơ
bản vẫn là con người phải làm chủ CNTT. Do vậy,
Học viện cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền cho
giảng viên, học viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu
mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi
mới phương pháp giảng dạy nâng cao chất lượng
dạy học. Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT, tổ
chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi
về kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong giảng dạy.
Mỗi cán bộ, giảng viên cần tích cực tự học
thông qua CNTT, trau dồi phát triển kỹ năng tìm
kiếm thông tin từ các chuyên gia, đồng chí, đồng
đội, thậm chí từ chính những học viên am hiểu,
102 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 15 - 9/2018
v TRAO ĐỔI
sẵn sàng chia sẻ, luôn cầu thị tiến bộ. Đa phần các
thông tin cần thiết đều đã có sẵn trên mạng Internet,
việc cần làm là phải tìm ra, sàng lọc và tìm đúng
thông tin mình cần. Có nhiều công cụ tìm kiếm rất
hữu ích như: Google, Baidu và YouTube... Chỉ cần
xác định được những từ khóa phù hợp, các công cụ
tìm kiếm sẽ tìm ra những thông tin, hình ảnh hoặc
video clip phục vụ giảng dạy và học tập một cách
nhanh chóng.
Cùng với sự nâng cao ý thức, khả năng làm
chủ và nhu cầu ứng dụng CNTT của cán bộ, giảng
viên và học viên, Học viện cần tiếp tục nghiên cứu,
từng bước mở rộng xây dựng, nâng cấp hệ thống
trang thiết bị CNTT bắt kịp với xu thế phát triển
hiện đại hóa công tác quản lý, dạy học trong nước
và quốc tế. Xây dựng hệ thống trang thiết bị CNTT
từng bước đồng bộ và có giải pháp bảo đảm an
toàn, an ninh mạng theo yêu cầu./.
Chú thích:
1. Dùng trực tiếp tại <https://chinese.yabla.
com/chinese-pinyin-chart.php>.
2. Tải về từ <https://tiengtrung.vn/phan-mem-
huong-dan-viet-chu-han-chinese-writing-master>
3. Tải về từ <https://downmienphi.com/
windows/download-adobe-acrobat-xi-pro.195.
html>.
4. Tải về từ <https://www.abbyy.com/en-eu/
finereader/>.
5. Tải về từ <
bihuabishunchaxunruanjian.html>.
Tài liệu tham khảo:
Đinh Thúy Ngần (2016), “Xây dựng bài tập nghe trên
máy tính cho học viên tiếng Nga”, Tạp chí Khoa
học Ngoại ngữ Quân sự, số 4, tr.29-34.
Võ Thị Kim Oanh (2017), “Thiết kế xây dựng và đánh
giá việc sử dụng khóa học trực tuyến trên website
Myelt cho giáo trình Life cấp độ B1”, Tạp chí Khoa
học Ngoại ngữ, số 51, tr.53-64.
Đặng Thế Tuấn (2015), Khai thác thiết bị dạy học trong
dạy các kỹ năng thực hành tiếng tại Học viện Khoa
học Quân sự, Đề tài nghiên cứu khoa học, Học viện
Khoa học Quân sự, Hà Nội.
杨寄洲 (2006),初级汉语教程,北京语言大学出版
社,北京。
USING INFORMATION TECHNOLOGY EQUIPMENT FOR ENHANCING
THE QUALITY OF LANGUAGE LEARNING IN MILITARY SCIENCE ACADEMY
DANG THE TUAN
Abstract: Currently, the Academy of Military Sciences has built a number of multimedia and cabinet
translation classrooms. Typical IT tools such as computers, televisions, projectors and so on have
been equiped to every classroom and office. However, the exploitation and application of these assets
still face some limits. In this article, we would like to share some experiences concerning, how to do
harvest IT usages to improve the efficiency of teaching foreign languages in the Academy of Military
Sciences.
Keywords: IT, classroom multimedia, electronic library, teaching foreign languages
Received: 18/4/2018; Revised: 20/8/2018; Accepted for publication: 30/8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tckhnnqs_15_9_2018_dang_the_tuan_97_102_5366_2136280.pdf