Ứng dụng công nghệ thông tin định hướng việc tự học tiếng việt cho học viên quân sự nước ngoài tại học viện kỹ thuật quân sự - Nguyễn Thị Thanh Thủy

Tài liệu Ứng dụng công nghệ thông tin định hướng việc tự học tiếng việt cho học viên quân sự nước ngoài tại học viện kỹ thuật quân sự - Nguyễn Thị Thanh Thủy: 90 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019) v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI NGUYỄN THỊ THANH THỦY* *Học viện Kỹ thuật Quân sự,  thuytiengviet@gmail.com Ngày nhận bài: 18/9/2018; ngày sửa chữa: 17/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiều năm qua, Học viện Kỹ thuật Quân sự (HVKTQS) đã trở thành địa chỉ tin cậy trong việc giúp đỡ, đào tạo học viên quân sự nước ngoài (Lào và Campuchia) trở thành những kỹ sư quân sự đầu ngành của nước bạn. Hằng năm, số lượng học viên Lào và Campuchia đến học tập tại Học viện luôn ổn định và có chiều hướng tăng lên. Hiện tại con số học viên bạn học tập tại Học viện đã lên đến hơn 200. Uy tín của Học viện và niềm yêu mến đất nước, con người Việt Nam, yêu tiếng Việt của học viên bạn trở thành động lực cho giảng viên dạy ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỊNH HƯỚNG VIỆC TỰ HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI TẠI HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ TÓM TẮT Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học không chỉ mang lại...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 535 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng công nghệ thông tin định hướng việc tự học tiếng việt cho học viên quân sự nước ngoài tại học viện kỹ thuật quân sự - Nguyễn Thị Thanh Thủy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019) v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI NGUYỄN THỊ THANH THỦY* *Học viện Kỹ thuật Quân sự,  thuytiengviet@gmail.com Ngày nhận bài: 18/9/2018; ngày sửa chữa: 17/10/2018; ngày duyệt đăng: 20/12/2018 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiều năm qua, Học viện Kỹ thuật Quân sự (HVKTQS) đã trở thành địa chỉ tin cậy trong việc giúp đỡ, đào tạo học viên quân sự nước ngoài (Lào và Campuchia) trở thành những kỹ sư quân sự đầu ngành của nước bạn. Hằng năm, số lượng học viên Lào và Campuchia đến học tập tại Học viện luôn ổn định và có chiều hướng tăng lên. Hiện tại con số học viên bạn học tập tại Học viện đã lên đến hơn 200. Uy tín của Học viện và niềm yêu mến đất nước, con người Việt Nam, yêu tiếng Việt của học viên bạn trở thành động lực cho giảng viên dạy ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐỊNH HƯỚNG VIỆC TỰ HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI TẠI HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ TÓM TẮT Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học không chỉ mang lại niềm hứng khởi trong các giờ học trên lớp, giúp cho việc tiếp thu bài tốt hơn mà công nghệ thông tin còn có tác dụng quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình tự học của học viên. Trên nền tảng công nghệ thông tin, giảng viên sẽ hướng dẫn học viên khai thác nguồn tài liệu có sẵn trên mạng Internet hoặc giảng viên tự tạo Block, tạo trang Facebook, tạo nhóm để tương tác với học viên hoặc thiết kế các bài tập phù hợp với trình độ của học viên để định hướng việc tự học một cách hiệu quả. Bài viết này đề cập cụ thể hơn đến việc ứng dụng công nghệ thông tin một cách đơn giản nhưng khá hiệu quả đó là giảng viên tạo các bản ghi âm dựa trên nội dung cụ thể từng bài học để tương tác với học viên, giao bài tập hoặc làm nguồn tư liệu định hướng cho việc tự học của học viên. Từ khóa: bản ghi âm, công nghệ thông tin, tự học tiếng Việt như một ngoại ngữ không ngừng đổi mới, nêu ra nhiều giải pháp, phương pháp giảng dạy mới để đáp ứng nhu cầu của người học và hơn hết là để chất lượng học tiếng Việt của học viên bạn ngày càng nâng cao. Một trong những giải pháp đó là ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào việc dạy và học. Ứng dụng CNTT vào tiến trình giảng dạy và học tập nói chung và dạy tiếng Việt cho người nước ngoài nói riêng đã phát triển sâu rộng ở các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, mối quan tâm của các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục 91KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019) NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v không còn là “có nên giới thiệu và ứng dụng CNTT vào quá trình đào tạo hay không” mà là “làm thế nào để nâng cao hiệu quả học tập, tạo hứng thú cho sinh viên thông qua việc ứng dụng các thành tựu mới của CNTT” (Nguyễn Văn Long, 2015, tr.31). Thực tế, sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực CNTT đã tạo ra những thay đổi lớn lao trong cách thức, phương pháp dạy và học ngoại ngữ, đồng thời mang lại những hiệu quả tích cực. Theo các tác giả như Beauvois (1992), Peck & Domcott (1994), Murphy (1995), Kallick & Wilson (2001) và Warschauer & Shetzer (2003) (Walker, R.S. Hewer, and G. Davies, 2008, tr.154), việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy và học mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực bởi các lý do: - Công nghệ có thể mang tới những trải nghiệm mới mẻ và hấp dẫn, tạo hứng thú cho học viên; - Công nghệ còn tạo điều kiện thuận lợi để học viên theo đuổi mục tiêu học tập suốt đời và chính quá trình hoạt động học tập suốt đời là chìa khóa dẫn tới sự thành công; - Công nghệ giúp học viên tự tin và chủ động hơn trong học tập và mở ra trước mắt các em một nguồn tài nguyên khổng lồ đa phương tiện với các nội dung học tập dưới dạng văn bản, tệp âm thanh, hình ảnh, video; - Công nghệ trao cho học viên cơ hội tiếp cận môi trường học tiếng đa dạng, đầy đủ và thực tiễn với khả năng trau dồi tất cả các kỹ năng tiếng cơ bản nghe, nói, đọc, viết bên cạnh việc học từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm. Thật vậy, CNTT không chỉ hỗ trợ đắc lực giảng viên trong các giờ dạy trên lớp, giúp cho giờ học trở nên sinh động, phong phú hơn mà “Công nghệ còn cho phép học viên tự học theo khả năng của riêng mình trong một môi trường thân thiện” (Nguyễn Thị Thanh Thanh, 2015, tr.109). Trong khuôn khổ của bài viết, chúng tôi tập trung giới thiệu ứng dụng CNTT nhằm định hướng việc tự học cho học viên quân sự nước ngoài đang học tại HVKTQS. 2. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, KHAI THÁC NHỮNG NGUỒN TƯ LIỆU SẴN CÓ PHỤC VỤ QUÁ TRÌNH TỰ HỌC Học ngoại ngữ nói chung và việc học tiếng Việt của học viên nước ngoài là một quá trình liên tục, không gián đoạn. Khác với các môn học khác, ngoại ngữ là môn học rất nhanh quên nếu không được luyện tập thường xuyên hàng ngày. Học viên không chỉ học ở trên lớp mà giảng viên còn cần phải chỉ ra cho học viên hướng tự học, tự nghiên cứu, cách bổ sung thêm kiến thức ở bên ngoài để củng cố thêm cho bài học trên lớp. Giảng viên cần phải coi “người học là trung tâm” và trang bị cho họ tính “tích cực, chủ động” trong học tập. Nếu giảng viên ứng dụng CNTT vào dạy học thì học viên hoàn toàn có thể mở rộng không gian và thời gian học, họ có thể học ở bất cứ ở đâu và bất cứ vào thời điểm nào khi có phương tiện hỗ trợ. Thực tế, học viên Lào và Campuchia tại HVKTQS có ý thức tự học cao. Sau những giờ học trên lớp, học viên thường tự làm các bài luyện ngữ pháp, viết từ mới, đọc bài đọc và tự tập phát âm. Đây là một điểm mạnh của học viên, tuy nhiên, khi học viên quá “chăm” đọc từ và đọc bài nhưng lại đọc sai, phát âm không tốt thì sẽ tạo ra những vết “hằn” rất khó sửa chữa. Chính vì lẽ đó, nếu giảng viên trang bị cho học viên những nguồn bao gồm cả phần phát âm để học viên học phát âm từ/câu chuẩn sẽ rất tốt. Hiện nay, hầu hết học viên Lào, Campuchia tại Học viện Kỹ thuật Quân sự đều có điện thoại thông minh và máy tính có kết nối mạng Internet. Tận dụng “tài nguyên” này, giảng viên chỉ dẫn cho học viên học tập qua các trang trực tuyến. Ưu tiên hàng đầu là giảng viên sẽ giới thiệu để học viên kết nối với trang chuyên dạy tiếng Việt cho người nước ngoài có uy tín; các trang có nguồn tài liệu về ngữ âm, ngữ pháp mà giảng viên thấy phù hợp. Ở các trang này, các tài liệu được biên soạn khá đa dạng, phong phú vì thế học viên sẽ cảm thấy hứng thú hơn. Việc trau dồi thường xuyên sẽ giúp ghi nhớ và thực hành tốt hơn. Người học có thể lựa 92 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019) v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI chọn những tài liệu cần thiết từ các trang mà giảng viên chia sẻ hoặc tải về trang của mình để làm các bài tập. Hiện nay có nhiều phần mềm luyện phát âm rất tốt, giảng viên có thể sử dụng những ứng dụng CNTT đó vào việc dạy phát âm tiếng Việt như phần mềm“ Học vần Tiếng Việt”. Phần mềm này bao gồm 173 âm vần, 519 từ khóa và 445 bài luyện viết chữ mẫu tiếng do Nhà xuất bản Giáo dục phát hành. Tất cả các âm vần, từ khóa, tập đọc, tập nói trong chương trình đều được ghi âm giọng Hà Nội chuẩn. Hoặc giảng viên cũng có thể tải và hướng dẫn học viên khai thác phần mềm “Học tiếng Việt cấp tốc iVietnamese trên iOS”, phần mềm này được ứng dụng trên điện thoại di động cũng rất tiện lợi cho việc sử dụng. Cách tốt nhất ở đây là giảng viên có thể chỉ dẫn trực tiếp cho một vài học viên cách làm, cách khai thác, rồi những học viên này sẽ hướng dẫn cho bạn khác trong thời gian tự học. Để việc khai thác hiệu quả, giảng viên cần giới thiệu những nguồn tài liệu phù hợp với trình độ học viên. Mặc dù đối tượng học viên ở đây là người nước ngoài nhưng nhìn một cách tổng thể, điều này cũng giống với chỉ đạo của Thủ tướng trong đề án dạy và học ngoại ngữ: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến trong dạy và học ngoại ngữ”. Bên cạnh việc giới thiệu cho học viên khai thác những trang học tiếng Việt trực tuyến, giảng viên cũng có thể tạo trang riêng của mình hoặc đơn giản hơn là tạo một tài khoản Facebook, nhóm Viber hoặc nhóm trong Messenger, WhatsApp chuyên trao đổi, chia sẻ các tài liệu học tiếng Việt nhằm tạo sự tương tác thầy trò ngay cả khi không ở trên lớp. Trên trang học tập tiếng Việt của mình, giảng viên đăng tải các tài liệu tự biên soạn hay chữa một số bài tập cần thiết cho học viên để củng cố kiến thức trên lớp. Việc chữa bài rất quan trọng vì giảng viên nắm được chương trình học của học viên và học viên hứng thú hơn khi được luyện tập với kiến thức phù hợp về ngữ pháp, từ vựng Ở đây, giảng viên cần biên soạn tài liệu một cách công phu, thận trọng, tránh những sai sót đáng tiếc. Dù là nguồn tài nguyên khai thác hay nguồn tự tạo thì các tài liệu này phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Phải gắn với mục tiêu và nội dung cơ bản của bài học, phù hợp với trình độ của người học, góp phần bổ trợ trong việc nâng cao kiến thức, rèn luyện kỹ năng và đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học; - Phải liên quan đến nội dung bài giảng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm định hướng tư duy cho người học; - Phải có hình thức đa dạng (thông tin, hình ảnh, âm thanh, video...) và có tính chọn lọc để đảm bảo tính tập trung. Để tạo được “kho tài nguyên” như trên không chỉ đòi hỏi sự tâm huyết, công sức, thời gian mà còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ khoa học công nghệ của người thầy. Chính vì lẽ đó, không phải giảng viên nào cũng có thể triển khai được mặc dù biết cách làm trên là vô cùng hiệu quả. Tuy nhiên, giảng viên hoàn toàn có thể ứng dụng CNTT bằng cách làm đơn giản nhưng hiệu quả, đó là tạo các bản ghi âm đơn giản để trao đổi, định hướng việc tự học có trọng điểm cho học viên. 3. TẠO CÁC BẢN GHI ÂM ĐƠN GIẢN, ĐỊNH HƯỚNG, THÚC ĐẨY VIỆC TỰ HỌC CỦA HỌC VIÊN Thông qua các bản ghi âm, giảng viên có thể giao bài tập để học viên tự làm. Các dạng bài tập có thể khai thác qua hình thức này là: nghe và phát âm lại cho đúng (bắt chước theo cách phát âm chuẩn của giảng viên), nghe và viết chính tả; nghe và tóm tắt thông tin, nghe và trả lời câu hỏi, Như vậy, học viên có thể rèn kỹ năng nghe và viết cùng lúc. Sau khi học viên nghe, viết xong có thể chụp ảnh gửi bản viết để giảng viên sửa chữa; hoặc học viên cũng có thể ghi âm lại chính bài đọc của mình và gửi lại để giảng viên nghe, chữa lỗi. Ở những trình độ khác nhau, giảng viên cần có sự điều chỉnh và tạo các bản ghi âm phù hợp nhằm tăng thêm sự lôi cuốn, hào hứng. 93KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019) NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v Một cách thiết thực và bám sát với chương trình học trên lớp hơn là ở mỗi đơn vị bài học (căn cứ vào giáo trình chính thống mà học viên sử dụng trên lớp), giảng viên sẽ ghi âm phần từ vựng, bài đọc thành các bản âm ghi khác nhau sau đó gửi vào nhóm (group) chung để học viên khai thác. Sở dĩ giảng viên nên ghi âm phần từ vựng và đọc rồi ghi âm phần bài đọc để chia sẻ cho học viên vì điều này sẽ giúp cho học viên trong khi học từ mới có thể nghe lại cách phát âm của giảng viên để nhắc lại cho đúng. Khi học viên nghe lại cách đọc của giảng viên trong phần bài đọc sẽ giúp giảm tối đa việc đọc phân xuất từ không đúng đồng thời biết cách ngừng, nghỉ đúng lúc. Việc tạo các bản ghi âm và gửi cho học viên có thể thực hiện ở tất cả các giai đoạn học tiếng Việt của người học. Cụ thể như sau: 3.1. Phần ngữ âm Như một đặc điểm của ngôn ngữ Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, có dấu thanh nên việc nắm bắt đúng cách phát âm của học viên ngay từ những bài đầu tiên học ngữ âm là hết sức quan trọng. 3.1.1. Bài đầu tiên “Khái quát tiếng Việt” Giảng viên đọc thật chậm, đọc to, rõ ràng rồi tạo các bản ghi âm như sau: Hệ thống chữ cái tiếng Việt (gồm 29 ký tự): a, b, c, d, đ, e, ê, g, h, i, k, l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, v, x, y. Hệ thống nguyên âm tiếng Việt (gồm 11 nguyên âm đơn): a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư, i (y); 3 cặp nguyên âm đôi: iê – ia (yê – ya), ua – uô, ưa – ươ. Hệ thống phụ âm tiếng Việt (gồm 16 phụ âm đơn): b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, r, s, t, v, x; 11 phụ âm ghép ch, gh, gi, kh, ng, nh, ph, qu, th, tr, ngh. Hệ thống dấu thanh (6 thanh): thanh không, thanh huyền, thanh sắc, thanh hỏi, thanh ngã, thanh nặng. Nếu trong bài đầu tiên này, ngoài các bản ghi âm, giảng viên tạo (hoặc khai thác) được các file hình hướng dẫn cách viết hệ thống chữ thường, chữ hoa thì sinh viên sẽ có thể khai thác, nắm được nguyên tắc viết đúng và nếu có quên cách viết con chữ nào thì hoàn toàn chủ động tự xem lại. Một trong những nguồn tư liệu dạy viết hiệu quả mà giảng viên có thể tham khảo là file dạy viết chữ của Trung tâm viết chữ đẹp. 3.1.2. Phần nguyên âm, phụ âm và phần vần Vẫn tiếp tục bằng hình thức ghi âm đơn giản, tùy vào nội dung từng bài học, giảng viên chắt lọc nội dung chính, đọc chậm, đọc to, rõ ràng, tạo bản ghi rồi gửi vào nhóm chung. Ở phần này, giảng viên có thể tạo các bản ghi căn cứ vào các đầu mục, nội dung trong từng bài của giáo trình mà học viên đang học: Ví dụ: Phần I: Các kết hợp vần: Giảng viên đọc hệ thống vần trong bài như: am, ăm, âm, của từng bài. Phần II: Đọc từ: Giảng viên đọc phần từ vựng có trong giáo trình. Phần III: Đọc câu: Giảng viên đọc các từ, cụm từ, sau đó đọc lần lượt các câu có trong giáo trình. Trong phần này, giảng viên vẫn giữ cách đọc chậm, to, rõ ràng thanh điệu để học viên tiện theo dõi. Nếu giảng viên tạo thêm được các file hình ảnh đi kèm từ để học viên không chỉ biết cách phát âm chuẩn từ mà còn hiểu được nghĩa những từ ngữ đơn giản thì sẽ càng tạo hứng thú hơn cho học viên. Một điểm chú ý ở phần này là giảng viên nên tạo các bản ghi âm ngắn, chia bài thành nhiều bản ghi khác nhau để học viên tiện theo dõi, và quan trọng hơn là để học viên không bị cảm giác thấy “ngại”, “chán”. Việc nghe các bản ghi từ giảng viên như thế này cũng giúp cho học viên hình thành kỹ năng 94 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019) v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI nghe tốt, hạn chế tối đa việc phát âm sai ngay từ lúc mới học ngữ âm, tạo tiền đề cho việc tiếp thu tiếng Việt một cách chuẩn mực, đồng đều. 3.2. Phần “Tiếng Việt thực hành” Tương tự như phần ngữ âm, giảng viên cũng sẽ ghi âm, tạo bản ghi cho từng bài. Tuy nhiên, ở mỗi bài, giảng viên sẽ chỉ nên tạo các bản ghi âm của phần “Từ vựng” và phần “Bài đọc”. 3.2.1. Phần từ vựng Phần này sẽ bao chứa từ vựng cơ bản của bài. Đặc biệt là những từ khó, giảng viên phải phát âm chuẩn, rõ ràng để sinh viên nghe và luyện theo. 3.2.2. Phần đọc Giảng viên đọc các bài đọc. Ví dụ: Bài 5: Đi xem hội, (Đoàn Thiện Thuật, 2006, tr.49) Bản ghi âm 1: Phần từ vựng: lễ hội nam nữ thanh niên lân cận trò chơi bơi thuyền thổi xôi phần thưởng nét đặc sắc dân ca quan họ Kinh Bắc áo the khăn xếp áo tứ thân nón ba tầm mời trầu dân gian Bản ghi âm 2: Bài đọc Hội Lim (Giảng viên đọc toàn bộ nội dung bài đọc trong trang 49 của giáo trình đã dẫn) Việc tạo các bản ghi từ vựng và phần bài đọc giúp sinh viên nâng cao kỹ năng nghe, “gỡ rối” khi học viên đọc bài nhưng bị “mắc” ở một từ nào đó, học viên hoàn toàn có thể mở bản ghi nghe lại cách đọc của giảng viên. Quan trọng hơn nữa, qua bài đọc mẫu của thầy cô, học viên sẽ nắm chắc hơn cách phân xuất từ, đảm bảo hiểu đúng nội dung của bài, tránh tối đa việc phân xuất từ không chính xác dẫn đến hiểu sai nghĩa của từ và nội dung bài. Bên cạnh việc rèn kỹ năng nghe, học viên còn hoàn toàn có thể tự rèn kỹ năng viết bằng cách nghe từ, nghe câu rồi viết lại. 3.3. Phần tiếng Việt nâng cao và tiếng Việt chuyên ngành. Khi đã trải qua phần tiếng Việt thực hành, nếu sinh viên tiếp tục học tiếng Việt ở trình độ nâng cao và tiếng Việt chuyên ngành thì giảng viên cũng nên tạo 2 file nghe cơ bản: Phần từ vựng: Phần này sẽ bao chứa từ vựng cơ bản của bài. Phần đọc: Giảng viên đọc các bài đọc. Ví dụ: Bài 1: Khái quát chung về đạn dược (Nguyễn Thị Thanh Thủy, 2018, tr.15) Bản ghi 1: Phần từ vựng đạn dược vật phẩm tạo khói gây cháy chiếu sáng sát thương đối phương phá hủy trang thiết bị công dụng chiến - kỹ thuật khai thác chủng loại kiểu cỡ Bản ghi 2: Bài đọc Khái niệm đạn dược Nếu ở phần này, giảng viên chuẩn bị được các hình ảnh và giải thích từ mới một cách trực quan thì sẽ tạo hiệu ứng tích cực đối với học viên, bởi khi đã học đến phần nâng cao và chuyên ngành, học viên không chỉ cần phát âm chuẩn về ngôn ngữ mà còn cần hiểu chính xác nghĩa của từ. Để nắm chắc nghĩa của các từ, cụm từ chuyên ngành thì việc dùng hình ảnh minh họa cụ thể cho từ vựng đó sẽ mang lại hiệu quả tốt nhất. Mục đích của việc tạo các bản ghi này là đảm bảo “người thầy” có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, ngay cả khi học viên không ở trên lớp thì thầy vẫn “ở bên cạnh” hướng dẫn. Việc này cũng tạo điều kiện để những học viên vì một lý do nào đó không đến lớp được thì hoàn toàn có thể khai thác, nắm bắt được cách phát âm của bài dưới sự hướng dẫn của giảng viên một cách chính thống. 95KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019) NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v Điểm đáng chú ý ở đây là các bản ghi (file hình ảnh) cần cắt ngắn, đơn giản, không gộp chung nội dung toàn bài trong một bản ghi. Cách làm này tạo cho học viên cảm giác dễ hiểu, dễ tiếp thu. Khi học viên nghe và viết lại các từ (đã học trên lớp) thì một lần nữa kiến thức được tái hiện và ghi nhớ sâu sắc. Cũng phải nói thêm rằng, giảng viên không chỉ phát các bản ghi âm để học viên nghe một chiều mà song song với việc giao bài, giảng viên cũng cần có các hình thức kiểm tra để nắm bắt được thái độ học tập, khả năng tiếp thu bài của học viên. Việc kiểm tra này không chỉ tiến hành ở trên lớp mà sinh viên hoàn toàn có thể trao đổi với giảng viên trong nhóm. Qua Inbox, giảng viên có thể giải đáp mọi thắc mắc cho học viên. Việc tạo được các bản ghi âm và các bài giảng dưới dạng đoạn clip ngắn đã đòi hỏi giảng viên cần có sự đầu tư công phu về mặt thời gian, công nghệ, kiến thức nhưng nếu giảng viên chủ động xây dựng được hệ thống câu hỏi trắc nghiệm và phần mềm đánh giá kết quả tự học của học viên thì chắc chắc việc tự học sẽ trở nên hiệu quả và mang nhiều tác dụng tích cực hơn. 4. KẾT LUẬN Có thể nói, mục đích của giảng dạy ngoại ngữ nói chung và việc giảng dạy tiếng Việt cho học viên nước ngoài nói riêng là biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục để người học có thể tự học. Do đó, hiệu quả của giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào việc làm thế nào để người học tham gia một cách chủ động và tích cực vào quá trình đó. Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin, ngoài giờ học trên lớp, giữa người dạy và người học có thể tăng cường thêm sự tương tác, làm tăng hiệu quả của việc tự học. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc định hướng việc tự học cho học viên còn tùy thuộc vào trình độ, mức độ đầu tư công sức của chính thầy cô. Nếu giảng viên có trình độ công nghệ thông tin tốt và tạo được riêng một Block, trên đó không chỉ có các bài nghe mà còn có hình ảnh, nguồn tài nguyên lớn hơn để có thể hoàn thiện cả 4 kỹ năng ngoại ngữ chia thành các cấp độ thì đây sẽ là một môi trường tự học tiếng Việt lý tưởng cho học viên quân sự nước ngoài. Tuy nhiên, trước khi có các Block này thì việc giảng viên ghi âm, trao đổi bài với học viên sẽ vẫn là cách tương tác dạy-học mang lại hiệu quả tích cực. Chúng tôi cũng cho rằng, phương pháp luyện này không chỉ áp dụng trong việc dạy-học tiếng Việt như một ngoại ngữ mà còn có thể áp dụng cho việc dạy các môn ngoại ngữ nói chung cho sinh viên Việt Nam. Hy vọng những giải pháp này sẽ góp một phần tích cực định hướng việc tự học cho học viên, giúp việc học tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài tại Học viện Kỹ thuật Quân sự hiệu quả hơn./. Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Long (2015), “Giảng dạy tiếng Anh trong thời đại truyền thông số từ góc nhìn của ngôn ngữ học xã hội”, Tạp chí Ngôn ngữ & Ðời sống, số 1, tr.30-34. Nguyễn Thị Thanh Thanh (2015), “Mạng xã hội Facebook và những ứng dụng của Facebook trong môi trường học tập linh hoạt tăng tính cộng tác”, Tạp chí Seameo Retrac, số 6, tr.106-121. GS. Đoàn Thiện Thuật (2006), Thực hành Tiếng Việt trình độ B, NXB Thế giới, Hà Nội. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2018), Giáo trình Tiếng Việt chuyên ngành Đạn, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Hà Nội. Walker, R.S. Hewer, and G. Davies (2008), Information and Computer Technology for Language Teaching, (ICT4LT), cited 2008 June 15, < org/en/en_mod1-5.htm>. 96 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019) v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI APPLICATIONS OF INFORMATION TECHNOLOGY TO ORIENT THE SELF - STUDY FOR FOREIGN STUDENTS OF VIETNAMESE AT MILITARY TECHNOLOGY ACADEMY NGUYEN THI THANH THUY Abstract: Applying IT in teaching and learning not only brings excitement in the classroom, helping students absorb better but also has an important effect in promoting their self-study process. On the basis of information technology, teachers will guide students to explore the resources available on the Internet, create their own blogs, Facebook pages or groups to interact with students or design exercises in line with their levels to orient the self study effectively. This article refers more specifically to how to apply IT simply but quite effectively in creating simple sound recordings based on specific content of each lesson to interact with students, give assignments or for students to use as a source of data to self-study. Keywords: sound recordings, Information technology, self - study Received: 18/9/2018; Revised: 17/10/2018; Accepted: 20/12/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhnnqs_17_01_2019_90_96_nguyen_t_thanh_thuy_7872_2136251.pdf
Tài liệu liên quan