Tài liệu Ứng dụng công nghệ khoan kiểm soát áp suất cho các giếng có nhiệt độ cao, áp suất cao tại bể Nam Côn Sơn: 20 DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
đồng bằng châu thổ trong các trầm tích có tuổi Miocene giữa
và sớm của hệ tầng Thông - Mãng Cầu và Nam Côn Sơn thuộc
khu vực bể. Ở khu vực Đông Bắc có bề dày trầm tích Cenozoic
thay đổi rất lớn từ 4.000 - 10.000m, ở phụ đới trũng Trung tâm
trong đới trũng phía Đông có bề dày trầm tích Cenozoic từ
5.000 - 14.000m (Lô 05). Khu vực Tây Nam trầm tích Cenozoic
có chiều dày từ 3.500 - 4.000m ở trũng hẹp sâu kề đứt gãy Sông
Hậu. Qua đó cho thấy dị thường nhiệt độ cao chỉ gặp ở khu vực
Đông Bắc bể vì trầm tích lớn và bị chôn vùi sâu hơn nên sẽ chịu
nhiệt độ cao hơn còn ở phía Tây Nam gặp ít vì trầm tích không
lớn. Điều này có thể giải thích cho hiện tượng dị thường áp suất
Ngày nhận bài: 3/5/2018. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 4/5 - 1/6/2018.
Ngày bài báo được duyệt đăng: 3/12/2018.
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ KHOAN KIỂM SOÁT ÁP SUẤT CHO CÁC GIẾNG
CÓ NHIỆT ĐỘ CAO, ÁP SUẤT CAO TẠI BỂ NAM CÔN SƠN
TẠP CHÍ DẦU KHÍ
Số...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng công nghệ khoan kiểm soát áp suất cho các giếng có nhiệt độ cao, áp suất cao tại bể Nam Côn Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
đồng bằng châu thổ trong các trầm tích có tuổi Miocene giữa
và sớm của hệ tầng Thông - Mãng Cầu và Nam Côn Sơn thuộc
khu vực bể. Ở khu vực Đông Bắc có bề dày trầm tích Cenozoic
thay đổi rất lớn từ 4.000 - 10.000m, ở phụ đới trũng Trung tâm
trong đới trũng phía Đông có bề dày trầm tích Cenozoic từ
5.000 - 14.000m (Lô 05). Khu vực Tây Nam trầm tích Cenozoic
có chiều dày từ 3.500 - 4.000m ở trũng hẹp sâu kề đứt gãy Sông
Hậu. Qua đó cho thấy dị thường nhiệt độ cao chỉ gặp ở khu vực
Đông Bắc bể vì trầm tích lớn và bị chôn vùi sâu hơn nên sẽ chịu
nhiệt độ cao hơn còn ở phía Tây Nam gặp ít vì trầm tích không
lớn. Điều này có thể giải thích cho hiện tượng dị thường áp suất
Ngày nhận bài: 3/5/2018. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 4/5 - 1/6/2018.
Ngày bài báo được duyệt đăng: 3/12/2018.
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ KHOAN KIỂM SOÁT ÁP SUẤT CHO CÁC GIẾNG
CÓ NHIỆT ĐỘ CAO, ÁP SUẤT CAO TẠI BỂ NAM CÔN SƠN
TẠP CHÍ DẦU KHÍ
Số 12 - 2018, trang 20 - 30
ISSN-0866-854X
Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh Tùng, Lê Vũ Quân, Lê Quốc Trung, Trần Đăng Tú
Viện Dầu khí Việt Nam
Email: tuananguyen@vpi.pvn.vn
Tóm tắt
Hiện nay, các triển vọng dầu khí mới tại thềm lục địa của Việt Nam thường được phát hiện tại các khu vực nước sâu, xa bờ, điều kiện
địa chất phức tạp, có dị thường về áp suất và nhiệt độ Trong đó, sự thay đổi áp suất đáy giếng là nguyên nhân chính gây ra các sự cố
trong quá trình khoan như: mất ổn định thành giếng, sập lở, kẹt cột cần khoan, mất dung dịch khoan, xâm nhập dung dịch vỉa
Bài báo giới thiệu công nghệ khoan kiểm soát áp suất (MPD) và kết quả ứng dụng phương pháp khoan duy trì áp suất đáy không đổi
(CBHP) ở bể Nam Côn Sơn. Đây là giải pháp hiệu quả giúp ổn định thành giếng, tăng cường khả năng kiểm soát giếng, ngăn ngừa và hạn
chế mất dung dịch, giảm thiểu thời gian phi sản xuất, giảm nhiễm bẩn thành hệ, tạo điều kiện tốt nhất cho công tác thử vỉa và gọi dòng
sản phẩm.
Từ khóa: Khoan kiểm soát áp suất (MPD), áp suất đáy không đổi (CBHP), nhiệt độ cao, áp suất cao (HTHP).
1. Giới thiệu
Các phức tạp do yếu tố địa chất ở bể Nam Côn
Sơn ảnh hưởng lớn đến quá trình thi công giếng
khoan gồm: gắn kết của vỉa yếu, kém bền vững;
sự trương nở mạnh của sét trong một số địa tầng
gây bó hẹp thành giếng khoan, kẹt thiết bị khoan;
hiện tượng mất dung dịch trầm trọng tại các tầng
carbonate; dị thường áp suất, nhiệt độ cao. Dị thường
áp suất cao, nhiệt độ cao tại phía Đông Bắc (như Lô
05-1c, 05-2, 05-3, 04-3...) đã gây ra các khó khăn trong
quá trình thi công khoan, ảnh hưởng đến tiến độ và
chi phí khoan.
Yếu tố địa chất gây nên hiện tượng dị thường
áp suất có thể do sự mất cân bằng trong quá trình
kết rắn của đá, sự giãn nở nhiệt do tăng nhiệt độ của
nước, sự sinh thành hydrocarbon, sự thay thế khoáng
vật, các hoạt động kiến tạo... Trong một số trường
hợp ở môi trường đồng bằng châu thổ (delta), với
đặc điểm tốc độ trầm tích lớn có thể gây nên hiện
tượng mất cân bằng trong quá trình kết rắn của đá
dẫn đến dị thường áp suất cao do các trầm tích này bị
chôn vùi sâu hơn, chịu nhiệt độ cao hơn. Môi trường
Hình 1. Quan hệ giữa nhiệt độ và độ sâu ở giếng A bể Nam Côn Sơn [1]
Quan hệ nhiệt độ - chiều sâu
Nhiệt độ (oC)
Ch
iề
u
sâ
u
(m
)
21DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
PETROVIETNAM
cao trong Lô 04-3, 05-1c, 05-2, 05-3... bể Nam Côn Sơn
nơi các tập trầm tích dày Pliocene (> 2.000m) (Hình 2
và 3) và giá trị gradient nhiệt độ đo được rất cao (Hình
1). Quá trình sinh thành hydrocarbon cũng gây nên
sự mất cân bằng và cũng có thể là nguyên nhân gây
nên dị thường áp suất tại khu vực này.
Một số mỏ dầu khí tại bể Nam Côn Sơn có đặc
điểm địa chất phức tạp, đặc biệt là nhiệt độ và áp suất
vỉa rất cao. Theo kết quả phân tích dữ liệu từ các giếng
thăm dò, áp suất đáy giếng lớn hơn 11.500psi và
nhiệt độ trên 170oC, có nơi áp suất lên đến 12.000psi
và nhiệt độ là 180oC.
Với đặc điểm áp suất cao, để đảm bảo an toàn,
cần phải sử dụng dung dịch có tỷ trọng cao để khống
chế áp suất vỉa. Hình 4 cho thấy trong khoảng từ
2.400 - 4.200mTVD, giới hạn khoan (narrow PP-FP) rất
nhỏ, có vị trí chỉ vào khoảng 0,8 - 1ppg. Với đặc điểm
địa chất này, để khoan đến chiều sâu thiết kế, phải
bổ sung 2 cấp ống chống với mác thép đặc chủng
và kích thước không thông dụng (13⅝'' và 10"), dẫn
đến phải tăng chi phí và thời gian khoan. Ngoài ra,
trong điều kiện giới hạn khoan hẹp rất dễ xảy ra hiện
tượng mất dung dịch hoặc lưu thể vỉa xâm nhập vào
giếng gây ra hiện tượng mất kiểm soát giếng. Theo
thống kê có 1 sự cố về kiểm soát giếng (well control)
trên 1 giếng có nhiệt độ cao, áp suất cao (HTHP) và 1
sự cố kiểm soát giếng trên 20 giếng có áp suất bình
thường. Trong điều kiện HTHP rất dễ dẫn đến hiện
tượng phun trào nếu giếng khoan không được kiểm
soát tốt.
Trong quá trình kéo thả, hiện tượng piston dễ xảy
ra khi ở điều kiện chênh lệch áp suất vỉa và vỡ vỉa quá
hẹp, dẫn đến quá trình khoan bị kéo dài làm gia tăng
chi phí khoan.
Ngoài ra, khi khoan các giếng HTHP, điều kiện bắt
buộc là các giàn phải có các tiêu chuẩn cao về đặc
tính kỹ thuật cũng như sức chứa, do vậy giá thành
thuê giàn sẽ cao.
Hình 5 cho thấy tại giếng khoan bể Nam Côn Sơn,
ở độ sâu khoảng 2.800m đã xuất hiện dị thường nhiệt
độ cao, đến chiều sâu khoảng 3.500m thì nhiệt độ vỉa
đã lên tới 150oC (khoảng 300oF) và tại độ sâu khoảng
4.100m nhiệt độ vỉa là 175oC (khoảng 350oF). Trong
điều kiện này, để làm giảm khả năng xảy ra các sự cố
liên quan đến thiết bị, cần phải sử dụng các thiết bị
có tiêu chuẩn chịu nhiệt cao dẫn đến giá thành cao.
Hình 3. Dị thường áp suất trong trầm tích Miocene trên bể Nam Côn Sơn [1]
Hình 2. Dị thường áp suất trong trầm tích Miocene giữa và dưới của bể Nam Côn Sơn [1]
Chú giải
Mỏ gas
Mỏ dầu
Cấu tạo
Áp suất rất cao
Có thể có áp
suất rất cao
Áp suất cao
Chú giải
Mỏ gas
Mỏ dầu
Cấu tạo
Áp suất rất cao
Có thể có áp
suất rất cao
Áp suất cao
22 DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
Biểu đồ khoan một giếng tại bể Nam Côn Sơn
(Hình 6) cho thấy rất rõ khi khoan qua khu vực HTHP
đã mất tới vài tháng chỉ cho khoảng khoan 2.500 -
4.000m, trong quá trình khoan gặp sự cố liên quan
đến kiểm soát giếng, kẹt cần, mất dung dịch Nếu
không được kiểm soát tốt, giếng khoan sẽ gây ra sự
cố, đòi hỏi nhà điều hành phải áp dụng công nghệ
kiểm soát giếng khoan hiệu quả nhất, đảm bảo cho
quá trình khoan được triển khai tiết kiệm, an toàn.
Bài báo giới thiệu về công nghệ khoan kiểm
soát áp suất (MPD) bằng phương pháp áp suất đáy
không đổi (CBHP), đồng thời đánh giá hiệu quả của
việc ứng dụng thực tế công nghệ này khi khoan tại
bể Nam Côn Sơn.
2. Công nghệ khoan kiểm soát áp suất bằng
phương pháp duy trì áp suất đáy không đổi
Sự thay đổi áp suất đáy giếng là nguyên nhân
chính gây ra tình trạng: mất ổn định thành giếng,
sập lở, kẹt cột cần khoan, mất dung dịch khoan, xâm
nhập dung dịch vỉa Sự thay đổi áp suất đáy giếng
xảy ra khi thay đổi trạng thái tuần hoàn, ví dụ ngừng
tuần hoàn để tiếp cần khoan. Trong trạng thái tuần
hoàn dung dịch để đưa mùn khoan lên bề mặt, áp
suất đáy giếng bằng tổng của cột áp thủy tĩnh của
dung dịch trong giếng khoan và tổn hao áp suất do
ma sát trong khoảng không vành xuyến dọc thân
giếng. Ở trạng thái tĩnh khi ngừng tuần hoàn, tổn
hao áp suất mất đi dẫn đến giảm giá trị áp suất đáy
giếng, gây ra các phức tạp trên. Đặc biệt với các
giếng khoan địa tầng không ổn định, sự thay đổi áp
suất đáy giếng sẽ làm gia tăng rủi ro xảy ra sự cố
trong quá trình khoan.
Phương pháp duy trì áp suất đáy giếng không
đổi là phương pháp được sử dụng để điều chỉnh
hay hạn chế tối đa ảnh hưởng của sự thay đổi đột
ngột áp suất đáy giếng gây ra do thay đổi trạng thái
tuần hoàn dung dịch khoan. Với việc sử dụng một
hệ thống tuần hoàn kín, dung dịch khoan khi đi lên
bề mặt được dẫn hướng đến một hệ thống van tiết
lưu tự động hoặc bán tự động, hệ thống van này tạo
ra phản áp bề mặt lên dòng dung dịch thông qua
việc đóng mở thay đổi tiết diện van. Áp suất này tác
động vào khoảng không vành xuyến nhằm bù lại
lượng tổn hao áp suất bị giảm khi giảm lưu lượng
bơm, do đó áp suất đáy giếng được giữ cố định
trong suốt quá trình khoan.
Hình 5. Gradient nhiệt độ của một giếng khoan tại bể Nam Côn Sơn [2]
Hình 4. Gradient áp suất của giếng khoan bể Nam Côn Sơn [2]
Ch
iề
u
sâ
u
th
ẳn
g
đứ
ng
(T
VD
)
Gradien áp suất vỉa
Gradient áp suất vỡ vỉa
Tỷ trọng dung dịch tương đương EMW (ppg)
Ch
iề
u
sâ
u
th
ẳn
g
đứ
ng
(T
VD
)
Nhiệt độ (oF)
23DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
PETROVIETNAM
Hình 7 mô tả trạng thái áp suất đáy giếng được duy trì ổn
định khi thay đổi trạng thái tuần hoàn dung dịch bằng phương
pháp CBHP.
Hình 8 mô phỏng phương thức ứng dụng phản áp bề mặt
(SBP) trong phương pháp CBHP. Theo lý thuyết, khi ngừng tuần
hoàn dung dịch thì tổn hao áp suất do ma sát giảm đi sẽ được
bù lại bằng lượng phản áp bề mặt với giá trị tương
đương cho phép kiểm soát áp suất đáy giếng (BHP)
luôn ổn định.
Phương pháp CBHP tạo ra khả năng có thể khoan
được ở những khu vực có giới hạn khoan nhỏ đến rất
nhỏ. Đặc biệt, phương pháp CBHP có thể điều chỉnh
chính xác áp suất trong giếng nhờ bổ sung bằng
phản áp bề mặt để duy trì áp suất đáy giếng ổn định,
cho phép sử dụng dung dịch khoan có tỷ trọng nhỏ
hơn, từ đó làm gia tăng tốc độ cơ học khoan.
Ưu điểm của phương pháp CBHP:
- Sử dụng hệ thống van tiết lưu điều chỉnh phản
áp bề mặt, cho phép hạn chế tối đa sự thay đổi áp
suất đáy giếng khi thay đổi trạng thái tuần hoàn của
giếng.
- Áp suất đáy giếng ở trạng thái động và trạng
thái tĩnh đều được duy trì ổn định và dễ điều chỉnh
trong giới hạn khoan nhỏ giữa gradient áp suất vỉa và
gradient áp suất vỡ vỉa.
- Khả năng duy trì áp suất đáy giếng ổn định
trong giới hạn khoan cho phép khoan sâu hơn trước
khi phải thay đổi tỷ trọng dung dịch và chống ống.
- Trong quá trình tiếp cần khi ngừng tuần hoàn,
dòng xâm nhập được kiểm soát bằng việc sử dụng
phản áp bề mặt duy trì áp suất đáy giếng.
- Ít phải thay đổi tỷ trọng dung dịch khoan, gia
tăng tốc độ cơ học khoan.
Mục tiêu của khoan kiểm soát áp suất là đưa áp
suất giếng luôn nằm giữa khoảng áp suất vỉa và áp
suất vỡ vỉa, nhằm tránh được các sự cố xâm nhập khí,
dầu, nước hoặc mất dung dịch tại các vỉa có giới hạn
khoan rất hẹp, thường gặp tại các mỏ thuộc vùng
biển sâu. Khi công đoạn khoan vừa bắt đầu (máy
bơm bắt đầu hoạt động), áp suất ở khoảng không
vành xuyến phía miệng giếng gần như bằng 0. Khi
đóng máy bơm để tiếp cần (máy bơm ngừng hoạt
động), phản áp bề mặt bổ sung được phải duy trì ở
giá trị khoảng vài trăm psi thay cho giá trị áp suất ma
sát trong khoảng không vành xuyến mất đi.
Hình 9 chỉ ra sự bổ sung phản áp bề mặt vào hệ
thống tuần hoàn, khi trọng lượng tuần hoàn tương
đương hoặc tổn thất áp suất ma sát bị thiếu hụt trong
quá trình tuần hoàn bị gián đoạn. Về mặt lý thuyết,
để giữ cho áp suất đáy giếng không thay đổi có thể
được bổ sung bằng một giá trị phản áp bề mặt tương
Hình 8. Áp suất đáy giếng ổn định trong phương pháp CBHP [3]
Hình 7. Áp suất đáy giếng trong phương pháp CBHP
Hình 6. Biểu đồ thi công khoan giếng HTHP [2]
Tuần hoàn
Ngừng tuần hoàn
Áp suất vỉa
Phản áp bề mặt
Thời gian
PBHP = PHH + PAFP + PSBP
Á
p
su
ất
đ
áy
g
iế
ng
Áp suất vỡ vỉa
Trạng thái tĩnh
PBHP = PHH + PAFL
Trạng thái động
PBHP = PHH + PAFL + PSBP
PBHP: Áp suất đáy giếng
PHH: Áp suất thủy tĩnh
PAFL: Tổn hao áp suất do ma sát
trong KKVX
PSBP: Phản áp bề mặt
PP FP
Áp suất
Ch
iề
u
sâ
u
24 DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
đương khi ngừng tuần hoàn. Do vậy, có thể kiểm soát được áp suất
đáy giếng khoan không bị thay đổi, ngăn chặn được hiện tượng xâm
nhập dòng chất lưu từ vỉa vào giếng.
Việc áp dụng phản áp bề mặt từ miệng
giếng giúp công tác khoan có thể sử dụng hệ
dung dịch có trọng lượng riêng nhỏ hơn và
có thể nén ép. Tuy nhiên, cột áp thủy tĩnh của
giếng khi ở trạng thái giếng ngừng tuần hoàn là
trong điều kiện “dưới cân bằng”. Do vậy, phản áp
bề mặt thực hiện chức năng duy trì điều kiện áp
suất lòng giếng ở trạng thái cân bằng hoặc gần
cân bằng với vỉa khoan qua.
2.1. Nguyên lý hoạt động
Để chuyển giếng từ trạng thái không tuần
hoàn tới trạng thái tuần hoàn mà không xảy ra
hiện tượng mất dung dịch hay hiện tượng kick,
gây ra do sự biến động về áp suất đáy giếng, có
thể thực hiện theo phương pháp: giảm từ từ tốc
độ máy bơm đồng thời đóng từ từ van điều tiết
áp suất trên bề mặt để tăng áp suất ở khoảng
0 2 4 6 8 10
0
100
200
300
400
500
600
700
0 1 2 3 4 5 6 7 8 9
0
100
200
300
400
500
600
700
Ph
ản
á
p
bề
m
ặt
(p
si
)
Thời gian (phút)
Tố
c
độ
b
ơm
(g
pm
)
Tốc độ bơm (gpm) Phản áp bề mặt (psi)
Bearing assembly với đường kính ngoài là 19,63” nên có thể dùng với hầu hết các loại rotor
- Wireline lubricator: Thiết bị làm kín Wireline tool trong quá trình điều áp
- Casing stripper
- Test plug
Protective sleeves
Hai vành cao su dạng hình nón tạo ra 2 vành làm kín ôm lấy cần khoan khi nó được thả qua RCD. Khả năng
làm kín của chúng tăng lên khi áp suất trong khoảng không vành xuyến tăng lên. Độ bền và sự tin cậy của
chúng có thể đảm bảo cho quá trình làm kín cho cần khoan tới 6⅝” và các đầu nối có đường kính tới 8,89”
Mặt bích trên cho phép RCD này có thể được nối dài lên giống như một phần của ống nâng
Ống bảo vệ (protective sleeves): Bảo vệ cho chốt giữ khi thả cần khoan hay bộ khoan cụ đáy khi đi qua
Mặt bích dưới thường được lắp ngay trên mặt bích trên của hệ thống đối áp trên bề mặt. Mặt bích này có
nhiều kích thước khác nhau tương ứng với kích thước BOP khác nhau
Chốt giữ (Latching assembly) cho phép việc ôm hoặc giải phóng bearing assembly
Locking dogs nằm bên trong Latching assembly cho phép việc điều chỉnh từ xa việc ôm hoặc giải phóng
bearing assembly hoặc các thiết bị khác như protective sleeves, logging adapter, snubbing adapter, test plus
Tại vị trí của bearing assembly có thể lắp đặt:
Hình 9. Đồ thị áp suất khi giếng khoan sử dụng phản áp bề mặt trong CBHP [4]
Hình 10. Thiết bị kiểm soát xoay RCD model 7875 [3]
25DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
PETROVIETNAM
Hình 11. Mặt cắt dọc thiết bị kiểm soát xoay và giới hạn áp suất làm việc [5]
Lực làm kín
Dòng chảy từ khoảng
không vành xuyến
Ngoài phạm vi hoạt động
Phạm vi hoạt động
Số vòng quay trong một phút
Model 7875
Á
p
su
ất
g
iế
ng
k
ho
an
(p
si
)
không vành xuyến, tới khi máy bơm dừng hoàn toàn và
áp suất ở khoảng không vành xuyến tương đương với
giá trị ECD khi giếng tuần hoàn (ECD là trọng lượng riêng
tuần hoàn tương đương, bằng tổng các giá trị áp suất lòng
giếng tại các thời điểm khác nhau).
- Hệ thống các van điều áp tự động (automatic
choke) điều khiển bằng máy tính được lắp đặt trên đường
tuần hoàn để có thể tự động thực hiện quy trình điều áp
theo các mức áp suất thay đổi khi máy bơm làm việc hoặc
ngưng hoạt động.
- Van một chiều lắp trong cột cần khoan (NRV, non
return valve) cho phép ngăn dòng dung dịch không bị
chảy ngược khi hệ thống tạm ngưng tuần hoàn, hoặc van
cột cần (floating valve) cho phép ngăn dòng dung dịch
khoan đi lên khi kéo cần khoan.
- Các loại máy bơm chuyên dụng được sử dụng để
duy trì bổ sung áp suất liên tục qua khoảng không vành
xuyến từ bề mặt thông qua việc kết hợp với hệ thống van
điều áp, nhằm mục tiêu điều chỉnh chính xác và dễ dàng
áp suất ở khoảng không vành xuyến trong quá trình thay
đổi chế độ làm việc của máy bơm.
- Áp suất bề mặt bổ sung tác động vào đáy giếng
thông qua sự đóng kín một phần hoặc hoàn toàn của van
điều áp. Với các thiết bị của kiểm soát áp suất, trong quá
trình khoan, dòng chất lưu xâm nhập được ngăn chặn
thông qua điều chỉnh tăng áp suất ma sát ở khoảng không
vành xuyến.
- Trong một số trường hợp, máy bơm dùng cho
phương pháp thi công thông thường có nhiều cấp tốc độ
cũng được sử dụng với vai trò giống như loại bơm chuyên
dụng, hoặc với vai trò là bơm dự phòng, thực hiện được
đầy đủ các chức năng yêu cầu đối với thiết bị của công
nghệ khoan kiểm soát áp suất.
Với việc sử dụng phương pháp khoan kiểm soát áp
suất, những rủi ro hay gặp phải của hệ thống tuần hoàn
mở (trong công nghệ khoan thông thường) được loại bỏ.
Khi máy bơm dung dịch dần chuyển sang chế độ ngừng
hoạt động, cụm van điều áp được đóng lại từ từ; đồng
thời, van một chiều lắp trong cột cần khoan ngăn áp suất
không cho dung dịch chảy ngược ra khỏi giếng, giúp áp
suất tại khoảng không vành xuyến tăng dần (đây là quá
trình nén áp suất đối bổ sung vào giếng).
2.2. Hệ thống thiết bị chính khi áp dụng phương pháp
khoan CBHP
2.2.1. Thiết bị kiểm soát xoay (RCD)
RCD là thiết bị kiểm soát xoay (Hình 10) [5].
Thiết bị này được lắp ngay bên trên của cụm đối áp
trên giàn khoan (surface BOP stack), tạo ra một vành bịt
kín an toàn xung quanh cần khoan và các đầu nối trong
quá trình cột cần khoan quay, để chuyển hướng một cách
chủ động dòng hồi dung dịch từ khoảng không vành
xuyến.
RCD cũng có thể chuyển hướng dòng hồi dung dịch
cùng với mùn khoan qua một hệ thống van tiết lưu riêng
tới các thiết bị tách, cho phép sử dụng nhiều phương
pháp khoan khác nhau: MPD, UBD, air drilling. Việc chuyển
hướng dòng hồi dung dịch này giúp nâng cao hiệu quả
26 DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
an toàn, sức khỏe và bảo vệ môi trường trong quá trình
khoan kiểm soát áp suất. Có thể tháo cụm thiết bị trục
quay để nhanh chóng chuyển từ khoan kiểm soát áp suất
sang khoan truyền thống và ngược lại.
Với mỗi loại RCD có một giới hạn áp suất làm việc
nhất định phụ thuộc vào tốc độ quay của cột cần khoan
(Hình 11).
2.2.2. Hệ thống van điều áp
Hệ thống van điều áp (choke manifold system) được
bố trí lắp đặt trên đường tuần hoàn đi lên của dung dịch
khoan từ đáy giếng (Hình 12). Hệ thống này có khả năng
điều chỉnh các dạng áp suất khác nhau như: áp suất đáy
giếng, áp suất ống đứng, phản áp bề mặt. Hệ thống van
điều áp được sử dụng phổ biến trong phương pháp khoan
kiểm soát áp suất duy trì áp suất đáy không đổi để điều
chỉnh phản áp bề mặt bằng việc đóng mở các van trong
hệ thống, duy trì áp suất đáy không đổi trong quá trình
tiếp cần, ngăn ngừa những mối nguy hại có thể xảy ra do
sự thay đổi áp suất đáy giếng.
Hệ thống van điều áp được chia thành 3 dạng cơ bản:
- Hệ thống van điều áp điều khiển bằng tay (manual
choke).
- Hệ thống van điều áp bán tự động (semi - automatic
choke).
- Hệ thống van điều áp tự động (PC control automatic
choke).
Tuy nhiên hiện nay, các công ty dầu khí chủ yếu sử
dụng hệ thống van điều áp tự động do có ưu điểm: khả
năng điều chỉnh linh hoạt và hạn chế tối đa sai sót trong
quá trình kiểm soát công tác khoan.
Hệ thống van điều áp tự động gồm các chi tiết như
Hình 12.
- Lưu lượng kế (mass flowmeter) là dụng cụ dùng
thu thập các dữ liệu quan trọng về khối lượng và thể tích
dòng, cũng như trọng lượng riêng và nhiệt độ của dòng
dung dịch hồi trong thời gian thực. Dữ liệu được chuyển
qua bộ kiểm soát thông minh (intelligent control unit).
- Van tiết lưu (drilling choke) đóng, mở để điều chỉnh
lượng phản áp bề mặt tương ứng cho khoảng không vành
xuyến của giếng khoan.
- Bộ kiểm soát thông minh là nơi thu thập và lưu trữ
các thông tin cần thiết cho việc đo và phân tích các tính
chất vật lý, gồm cả việc phản ứng với các bất lợi trong
giếng khoan.
2.2.3. Van một chiều trong cột cần (NRV)
Trong quá trình khoan kiểm soát áp suất thường sử
dụng phản áp bề mặt (surface back-pressure) tác động
vào khoảng không vành xuyến, hoặc trong nhiều trường
hợp áp suất trong khoảng không vành xuyến cao hơn áp
lực bên trong bộ khoan cụ, lúc này dung dịch cùng mùn
khoan có xu hướng bị đẩy ngược vào bên trong cột cần
khoan và có thể làm: tắc động cơ đáy, hỏng thiết bị đo,
thậm chí có thể xảy ra phun bên trong cột cần khoan, đây
chính là lý do phải dùng NRV lắp đặt bên trong cột cần
khoan (Hình 13).
2.2.4. Thiết bị hiển thị tốc độ và áp suất dòng chảy tức thời
Các phép đo tức thời không chỉ cung cấp số liệu quan
trọng cho hệ thống kiểm soát tự động, mà còn hiển thị
kết quả của quá trình tác động từ trên mặt xuống giếng
khoan. Thiết bị này cho phép theo dõi và phát hiện kịp
Hình 12. Cụm van điều áp kiểm soát dòng xâm nhập [3]
Lưu lượng kế Van tiết lưu
27DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
PETROVIETNAM
thời các thay đổi bất thường trong giếng khoan để kiểm
soát áp suất đáy một cách chính xác trong giới hạn khoan
(Hình 14).
+ Phát hiện mất dung dịch
Hình 15 là một ví dụ cho trường hợp màn hình cảnh
báo mất dung dịch.
Ngoài ra, hệ thống kiểm soát dung dịch còn có
các thiết bị như: bình tách đa pha, hệ thống sản xuất
nitrogen
3. Kết quả ứng dụng phương pháp khoan duy trì áp
suất đáy tại bể Nam Côn Sơn
3.1. Phát hiện chất lưu xâm nhập (kick) sớm
Mục tiêu chính của việc sử dụng khoan kiểm soát
áp suất để đảm bảo các giếng được khoan an toàn qua
các khoảng khoan có cửa sổ áp suất nhỏ (narrow kick/
loss margin) mà không gặp bất kỳ sự cố nào. Phương
pháp này giúp kiểm soát được áp suất đáy giếng, hạn chế
được dòng chất lưu của vỉa xâm nhập với lưu lượng rất
nhỏ trong thành hệ dị thường áp suất cao, làm gia tăng
an toàn, giảm thiểu khả năng xảy ra sự cố và bảo vệ tính
nguyên vẹn của thành hệ. Bên cạnh đó, phương pháp này
có thể phát hiện sớm dòng chất lưu (lỏng hoặc khí) xâm
nhập vào giếng, giảm thời gian kéo thả.
3.2. Phát hiện chất lưu xâm nhập sớm vào giếng
Trong khi khoan, hệ thống MPD có thể phát hiện sự
xuất hiện khí ở bề mặt, đồng thời có thể xác định các sự
cố dễ hơn so với dùng các phương pháp khoan thông
thường.
Hình 16 cho thấy dung dịch khoan xâm nhập trở lại
giếng do hiện tượng co ép sau phá hủy (ballooning) của
đất đá vỉa bằng lưu lượng kế (coriolis fow meter), trong khi
dừng bơm để tiếp cần.
3.3. Phát hiện khí xâm nhập vào giếng
Trong quá trình khoan, tỷ trọng dung dịch cả dòng
đi xuống và dòng đi lên (in-out) được xác định chính xác
thông qua lưu lượng kế. Hình 17 cho thấy xuất hiện chất
lưu xâm nhập và tốc độ của dòng đi lên (flow out) tăng do
ảnh hưởng của sự giãn nở của chất lưu.
Hình 18 cho thấy phát hiện khí ở bề mặt bằng hệ
thống lưu lượng kế tin cậy hơn so với việc phát hiện bằng
cảm biến đo mudlogging.
Hình 13. Van 1 chiều lắp trên cột cần khoan
Hình 15. Màn hình hiển thị hiện tượng mất dung dịch trong giếng khoan [6]
Hình 14. Màn hình và bàn phím điều khiển
28 DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
3.4. Kiểm soát áp suất thông qua tỷ trọng
tuần hoàn tương đương (ECD)
Các biểu hiện trạng thái dòng chảy trong
phương pháp khoan duy trì áp suất đáy không
đổi (MPD-CBHP) được mô phỏng để xác định
các thông số tuần hoàn sẽ được sử dụng trong
khi khoan. Các thông số này sẽ duy trì áp suất
đáy không đổi trong giới hạn khoan cho phép.
Điều này sẽ được xác định khi tiến hành khoan
bằng cách điều chỉnh áp phản áp bề mặt thông
qua hệ thống van tiết lưu (MPD choke).
Hình 19 và 20 là kế hoạch kiểm soát tỷ
trọng tuần hoàn tương đương/tỷ trọng tĩnh
tương đương (ECD/ESD) với việc quan trọng
nhất là đảm bảo duy trì áp suất đáy trong cả
điều kiện tĩnh và động. Để duy trì áp suất đáy
không đổi khi bơm tắt (static condition), sử
dụng bơm chuyên dụng để tạo phản áp bề
mặt thông qua hệ thống van tiết lưu (choke
manifold), do đó áp suất trong khoảng không
vành xuyến được duy trì không đổi trong suốt
chiều dài thân giếng.
Từ Hình 20, có thể thấy rằng trong quá
trình tiếp cần sẽ không duy trì được áp suất
đáy lớn hơn áp suất vỉa. Do vậy, việc tạo phản
áp bề mặt trong khi thay đổi trạng thái tuần
hoàn với việc sử dụng hệ thống van tiết lưu là
rất cần thiết.
3.5. Tăng hiệu quả, giảm thời gian kéo thả
Quy trình kéo thả được sử dụng để duy trì
áp suất đáy không đổi trong quá trình kéo cần
(POOH). Khả năng làm giảm hiệu ứng piston,
tăng hiệu quả kéo thả cho phép cột cần khoan
chuyển động hiệu quả hơn. Dưới dây là ví dụ
về việc sử dụng phản áp bề mặt trong phương
pháp CBHP để giảm hiệu ứng piston được so
sánh với phương pháp khoan truyền thống,
không sử dụng phản áp bề mặt.
Thời gian được dự báo khi kéo cần (POOH)
từ độ sâu 28.900ft không sử dụng phản áp bề
mặt là 31,3 giờ. Sử dụng phản áp bề mặt 300psi
để ngăn chặn hiện tượng piston thời gian kéo
cần là 24,2 giờ (Hình 21). Ví dụ trên đã chứng
minh việc sử dụng phản áp bề mặt giảm 7,1 giờ
hoặc 23% thời gian và luôn đảm bảo EMW ở
đáy giếng không bị giảm dưới áp suất vỉa.Hình 18. So sánh phát hiện khí lên bề mặt của lưu lượng kế và Mudlogging [6]
Hình 17. Hệ thống phát hiện khí lên bề mặt [6]
Hình 16. Phát hiện chất lưu xâm nhập trong quá trình tiếp cần [6]
Chất lưu xâm nhập
(Ballooning) trong quá
trình tiếp cần
MW giảm và
dòng chảy tăng
lên do sự giãn
nở khí
Khoan tiếp
Hệ thống phát hiện khí ở bề mặt
29DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
PETROVIETNAM
3.6. Ứng dụng thực tế của công nghệ CBHP tại bể Nam Côn Sơn
Tại một số giếng có điều kiện nhiệt độ cao, áp suất cao của bể
Nam Côn Sơn đã sử dụng công nghệ khoan duy trì áp suất đáy giếng
không đổi. Công nghệ “phát hiện chất lưu xâm nhập sớm” đã giúp
nhà điều hành phát hiện được hiện tượng mất dung dịch (loss) và
hiện tượng chất lưu xâm nhập vào giếng, tăng độ an toàn cho các
giếng khoan. Vấn đề chính của hệ thống này là cao su làm kín của
RCD dễ bị hỏng sau một thời gian ngắn sử dụng, do vậy nhà điều
hành quyết định tạm dừng sử dụng MPD cho giếng tiếp theo.
Hình 21. So sánh kéo thả khi sử dụng SBP và không sử dụng SBP [7]
Hình 20. Kế hoạch kiểm soát tỷ trọng tĩnh tương đương trong điều kiện bơm tắt [6]
Hình 19. Kế hoạch kiểm soát tỷ trọng tuần hoàn tương đương trong điều kiện bơm bật [6]
Khi không sử dụng MPD cho công đoạn
12¼’’ và 8½’’ và điều kiện địa chất phức tạp
hơn dự đoán (áp suất vỡ vỉa LOT thấp hơn
0,8ppg và áp suất vỉa cao hơn 0,2ppg so với dự
đoán) giếng khoan đã gặp rất nhiều các vấn
đề về kiểm soát giếng (gain, loss). Nhà điều
hành đã tăng một cấp ống chống dự phòng
(Expandable liner) 11¾ × 13⅝’’ do không thể
khoan tiếp công đoạn 12¼’’. Công đoạn này
mất khoảng vài tuần để thực hiện với thời gian
không sản xuất (NPT) khoảng 400 giờ.
Sau khi nhà thầu cung cấp dịch vụ MPD
thay cao su làm kín của hệ thống thiết bị kiểm
soát quay bằng một loại cao su tự nhiên mới
hiệu quả hơn, nhà điều hành áp dụng hệ thống
MPD - với ứng dụng phản áp bề mặt cho các
giếng HTHP tiếp theo.
Việc sử dụng công nghệ khoan duy trì áp
suất đáy không đổi cho phép lựa chọn tỷ trọng
dung dịch hợp lý khi khoan qua các khoảng
khoan khó khăn nhất của giếng, nơi có giới hạn
khoan rất nhỏ (chỉ 0,8 - 1ppg EMW) nên đã hạn
chế được các phức tạp xảy ra, đồng thời tránh
được việc sử dụng thêm ống chống lửng.
Từ ứng dụng thực tế trên cho thấy với sự
tiến bộ của công nghệ chế tạo, cao su bịt kín
của thiết bị RCD đã hoạt động hiệu quả hơn,
cho phép hệ thống CBHP hoạt động an toàn
và trong thời gian dài đảm bảo cho các giếng
khoan tiếp theo được thi công an toàn và hiệu
quả.
4. Kết luận
Công nghệ khoan kiểm soát áp suất với
phương pháp khoan duy trì áp suất đáy không
đổi được đánh giá, lựa chọn là giải pháp phù
hợp nhất cho giếng khoan có nhiệt độ cao,
áp suất cao nhằm ổn định thành giếng, tăng
cường khả năng kiểm soát giếng, ngăn ngừa
và hạn chế mất dung dịch, giảm thiểu thời gian
phi sản xuất, giảm nhiễm bẩn thành hệ, tạo
điều kiện tốt nhất cho công tác thử vỉa và gọi
dòng sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ này còn
giúp tăng tốc độ cơ học khoan nhờ sử dụng
dung dịch có tỷ trọng nhỏ, giảm chi phí khoan.
Công nghệ này đã được áp dụng thành
công tại một số giếng khoan ở bể Nam Côn
30 DẦU KHÍ - SỐ 12/2018
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ
Sơn. Trong bối cảnh sản lượng khai thác dầu khí trong
nước suy giảm, việc gia tăng tìm kiếm thăm dò ở các khu
vực có điều kiện địa chất phức tạp (nhiệt độ cao, áp suất
cao, nước sâu xa bờ) bằng cách sử dụng công nghệ mới
là giải pháp hiệu quả giúp thi công khoan an toàn, tiết
kiệm chi phí, đồng thời bảo vệ thành giếng và các vỉa
sản phẩm.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Minh Quý và nnk. Báo cáo tổng kết nhiệm
vụ khoa học cấp ngành "Tổng kết công tác thi công khoan tại
bể Nam Côn Sơn". 2012.
2. Drilling program well X, block Y, Nam Con Son
basin. 2011.
3. Erdem Tercan. Managed pressure drilling techniques,
equipment & applications. 2010.
4. Tran Dang Tu & et al. Building and applying surface
back pressure calculation model using constant bottom
hole pressure technique in managed pressure drilling
for exploration well in Cuu Long basin. 2nd International
Conference on Integrated Petroleum Engineering for
Unconventional Resources (IPE-2017, HUMG). 19/10/2017.
5. Deepak M.Gala, Julmar Shaun Toralde. Managed
pressure drilling 101: Moving beyond “It’s always been done
that way”. www.spe.org. 15/1/2011.
6. Benjamin Gedge & et al. The deployment of
managed pressure drilling technology, to assist in the
development of offshore HPHT gas condensate fields in
Vietnam - Planning, engineering, and implementation. SPE
Asia Pacific Oil & Gas Conference and Exhibition, Adelaide,
Australia. 14 - 16 October, 2014.
7. Craig Starkey, Travis Webre, Mike Rafferty, Paul
Fredericks, John Hobin.
8. Bill Rehm, Jerome Schubert, Arash Haghshenas,
Amir Saman Paknejad, Jim Huges. Managed pressure
drilling. 2008.
9. SPE. Workshop “Improve well control and drilling
performance with the advances in managed pressre drilling
technology”. 20 - 21 February, 2017.
Summary
Nowadays, new oil and gas prospects in the continental shelf of Vietnam are discovered in deep water, offshore areas where there are
complex geological conditions, pressure and temperature anomalies, etc. Among which, the change of bottom hole pressure is the main
cause of incidents during drilling such as instability of wellbore, collapses, loss of circulation, and influx of reservoir fluids, etc.
The paper presents the Managed Pressure Drilling (MPD) technology and the results of application of the Constant Bottom Hole
Pressure (CBHP) method in the Nam Con Son basin. This is an effective solution that helps stabilise wellbore, improve well control, prevent
and limit the loss of circulation, minimise non-production time, reduce contamination of formation, and create the best conditions for
well testing.
Key words: Managed Pressure Drilling (MPD), Constant Bottom Hole Pressure (CBHP), High Temperature, High Pressure (HTHP).
APPLICATION OF MANAGED PRESSURE DRILLING TECHNIQUE FOR HIGH
TEMPERATURE HIGH PRESSURE WELLS IN NAM CON SON BASIN
Nguyen Anh Tuan, Nguyen Thanh Tung, Le Vu Quan, Le Quoc Trung, Tran Dang Tu
Vietnam Petroleum Institute
Email: tuananguyen@vpi.pvn.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- b9_8853_2169584.pdf