Tài liệu Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp từ kinh nghiệm của một số nước: Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2017 [18]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Dù không được thiên nhiên
ưu đãi
Điều kiện tự nhiên luôn đóng
vai trò quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Thế nhưng, Israel,
Hàn Quốc, Nhật Bản đều xuất
phát điểm là những nước không
có lợi thế về sản xuất nông
nghiệp, thậm chí phải hứng chịu
điều kiện tự nhiên vô cùng khắc
nghiệt.
Israel - một đất nước Do Thái
nhỏ bé ở Trung Đông (trên
20.000km2, chỉ bằng 1/16 diện
tích của Việt Nam) có trên 70%
diện tích lãnh thổ là sa mạc, còn
lại là đồi núi đá trọc, khí hậu cực
kỳ khô hạn, diện tích có thể sản
xuất nông nghiệp chỉ chiếm
20%. Không được thiên nhiên ưu
đãi và chỉ có 3,7% dân số làm
nông nghiệp, thế nhưng, ngày
nay, Israel tự sản xuất được 95%
nhu cầu thực phẩm trong nước,
đồng thời trở thành một nhà xuất
khẩu lớn của thế giới về nông
sản và đứng hàng đầu về công
nghệ trong nông nghiệp.
Nhật Bản và Hàn Quốc cũng
đều là những quốc gia khởi sự từ
nền nông nghiệp nghèo nàn, thổ
nhưỡng không m...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp từ kinh nghiệm của một số nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2017 [18]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Dù không được thiên nhiên
ưu đãi
Điều kiện tự nhiên luôn đóng
vai trò quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Thế nhưng, Israel,
Hàn Quốc, Nhật Bản đều xuất
phát điểm là những nước không
có lợi thế về sản xuất nông
nghiệp, thậm chí phải hứng chịu
điều kiện tự nhiên vô cùng khắc
nghiệt.
Israel - một đất nước Do Thái
nhỏ bé ở Trung Đông (trên
20.000km2, chỉ bằng 1/16 diện
tích của Việt Nam) có trên 70%
diện tích lãnh thổ là sa mạc, còn
lại là đồi núi đá trọc, khí hậu cực
kỳ khô hạn, diện tích có thể sản
xuất nông nghiệp chỉ chiếm
20%. Không được thiên nhiên ưu
đãi và chỉ có 3,7% dân số làm
nông nghiệp, thế nhưng, ngày
nay, Israel tự sản xuất được 95%
nhu cầu thực phẩm trong nước,
đồng thời trở thành một nhà xuất
khẩu lớn của thế giới về nông
sản và đứng hàng đầu về công
nghệ trong nông nghiệp.
Nhật Bản và Hàn Quốc cũng
đều là những quốc gia khởi sự từ
nền nông nghiệp nghèo nàn, thổ
nhưỡng không mấy màu mỡ và
thời tiết khắc nghiệt vào mùa
đông. Những năm 1970, nông
nghiệp các nước này vẫn đang
phải mày mò hướng đi với những
công nghệ thô sơ, cho sản lượng
và chất lượng nông sản thấp. Tuy
nhiên, sang những năm 1980,
nông nghiệp các nước này đã có
những bước đột phá với những
công nghệ hiện đại, dần trở thành
nước phát triển nông nghiệp
đứng nhất, nhì châu Á. Người
làm nông nghiệp của Nhật Bản,
Hàn Quốc rất giàu có và sung
túc. Chỉ với 3% dân số của Nhật
Bản làm nông nghiệp nhưng
cung cấp đầy đủ thực phẩm chất
lượng cao cho hơn 127 triệu dân
của quốc gia này, ngoài ra còn dư
thừa để xuất khẩu.
Điều gì đã giúp cho những đất
nước này tạo nên được kỳ tích
như vậy?
Nhưng trí tuệ con người có
thể làm nên kỳ tích
Với những quốc gia có nhiều
khó khăn và hạn chế như Israel,
Hàn Quốc, Nhật Bản thì vốn
liếng duy nhất mà họ sử dụng,
chính là trí tuệ con người. Điều
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TRONG NÔNG NGHIỆP
TỪ KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc áp dụng công nghệ
cao, kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp là hướng đi tất
yếu để Việt Nam thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến trên
thế giới, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và gia tăng xuất
khẩu. Việc học hỏi, tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia
hàng đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, điển
hình như Israel, Hàn Quốc, Nhật Bản, sẽ đem lại những góc nhìn
hữu ích cho vấn đề này.
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2017 [19]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
đó thể hiện qua cách làm nông
nghiệp bền vững của các quốc
gia này.
Khoa học là chìa khóa phát
triển
Trong lần Tổng thống Israel -
Shimon Peres thăm chính thức
Việt Nam (2011), lời khuyên
được các chuyên gia Israel nhắc
đi nhắc lại, cũng như kinh
nghiệm quan trọng nhất của Is-
rael để xây dựng được một nền
nông nghiệp hiện đại là: hãy đầu
tư cho khoa học kỹ thuật. Điều
này không mới, nhưng nếu
không có những quyết sách táo
bạo, sự hỗ trợ của chính phủ thì
rất dễ rơi vào cảnh “đánh trống
bỏ dùi”.
Vì nghèo nàn về tài nguyên
nên Israel chủ trương tiết kiệm
tối đa từ tài nguyên đất, nước đến
vật tư nông nghiệp. Muốn làm
được điều đó, tất cả các khâu sản
xuất nông nghiệp của Israel đều
được tổ chức dựa trên nền tảng
khoa học kỹ thuật tiên tiến, từ
khâu đầu vào đến tổ chức sản
xuất, thu hoạch, chế biến và tiêu
thụ sản phẩm. Một con số dễ
hình dung về năng lực của “cây
đũa thần” khoa học: năm 1950,
một nông dân Israel cung cấp
thực phẩm đủ cho 17 người, hiện
con số đó đã là 90 người; 1ha đất
hiện cho 3 triệu bông hồng, hay
500 tấn cà chua/vụ; 1 con bò cho
tới 11 tấn sữa/năm - mức năng
suất mà không một nước nào trên
thế giới có được.
Ở Israel, nông nghiệp là lĩnh
vực mà 95% là khoa học và chỉ
5% là lao động. Trong phát triển
nông nghiệp, họ xây dựng những
chính sách đồng bộ, gắn kết chặt
chẽ nghiên cứu với triển khai
ứng dụng thực tế. Các nhà
nghiên cứu nông nghiệp Israel
rất gần gũi với đồng ruộng. Từ
viện nghiên cứu hay trường đại
học, họ có thể “đi thẳng” tới các
cánh đồng. Do gần gũi với nông
dân, hoặc chính gia đình mình là
nông dân, nên các nhà nghiên
cứu nông nghiệp giải quyết các
vấn đề của đồng ruộng với tư
cách người thân. Trình độ nông
dân của Israel cũng rất cao: tất cả
đều đã học xong trung học.
Nhiều người sau khi học xong
đại học đã quay lại đồng ruộng,
sau đó lại mang kinh nghiệm
đồng áng của mình tới trường đại
học. Người nông dân Israel rất
biết thích nghi, sẵn sàng ứng
dụng những đổi mới, bí quyết và
chuyển giao công nghệ.
Tại Israel, phần lớn các nhà
khoa học nông nghiệp làm cho
Chính phủ. Israel cũng là nước
có mức đầu tư cho nghiên cứu
thuộc loại lớn nhất thế giới với
gần 100 triệu USD mỗi năm,
chiếm khoảng 3% tổng sản
lượng nông nghiệp quốc gia.
Nguồn lực này được cung cấp
trực tiếp cho việc nghiên cứu,
phát triển các sản phẩm ứng
dụng và các nhà đầu tư giữ bản
quyền sáng chế. Sự phối hợp
giữa kinh doanh và nghiên cứu
đảm bảo cho các nhà khoa học
một mức ưu đãi đủ để phát huy
tối đa năng lực hoạt động
chuyên môn. Thậm chí, các
chuyên gia nông nghiệp đi tư
vấn trực tiếp cho các nông trại
là điều không hiếm.
Biểu tượng cho ứng dụng
khoa học trong nông nghiệp ở Is-
rael là thung lũng Arava - niềm
tự hào của mọi người dân Israel,
nơi mà cựu Tổng thống Israel -
Shimon Peres đã phải thốt lên
khi đến thăm nơi này vào năm
2009: “Hãy đến để thấy rằng,
chính con người cũng có thể tạo
nên vườn địa đàng”. Arava là
một trong những vùng đất khô
cằn nhất thế giới, nằm ở khu vực
khô hạn nhất của hoang mạc
Negev. Mùa hè, nhiệt độ ban
ngày bình quân lên tới 400C và
ban đêm là 250C. Còn mùa đông,
nhiệt độ ban ngày là 210C và ban
đêm chỉ trên dưới 30C. Thiên
nhiên khắc nghiệt, nhưng có đến
90% dân số tại Arava làm nông
nghiệp. Trải dài khắp thung lũng
là những cánh đồng ô liu, cam,
lựu, vải thiều, nho, chuối xanh
tươi mơn mởn, những khu nhà
kính ngập tràn hoa, rau sạch, cà
chua bi, cà chua nhót, dưa chuột,
cà tím Tất cả đều được áp
dụng công nghệ hiện đại nhất để
đảm bảo chất lượng tốt nhất cho
sản phẩm. Không chỉ sản xuất
lương thực cho riêng mình,
người nông dân Arava còn đem
sản phẩm của mình xuất khẩu ra
khắp thế giới. Không thể ngờ
rằng, một trong những nơi khô
cằn nhất thế giới lại chiếm tới
trên 60% tổng sản lượng rau và
10% tổng sản lượng hoa xuất
khẩu của Israel.
Nhật Bản cũng là một trong
những nước ứng dụng hiệu quả
các tiến bộ KH&CN trong nông
nghiệp. Sau Chiến tranh thế giới
II, kinh tế Nhật Bản bị tàn phá
nặng nề, không chỉ sản xuất công
nghiệp mà nông nghiệp cũng đạt
ở mức rất thấp, nguyên liệu và
lương thực trong nước thiếu thốn
trầm trọng. Do vậy, trong điều
kiện đất chật người đông, để
phát triển nông nghiệp, Nhật
Bản coi phát triển khoa học kỹ
thuật nông nghiệp là biện pháp
hàng đầu. Nhật Bản tập trung
vào các công nghệ tiết kiệm đất
như: tăng cường sử dụng phân
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2017 [20]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
hóa học; hoàn thiện công tác quản lý và kỹ
thuật tưới tiêu nước cho ruộng lúa; lai tạo và
đưa vào sử dụng đại trà những giống kháng
bệnh, sâu rầy và chịu rét; nhanh chóng đưa
sản xuất nông nghiệp sang kỹ thuật thâm
canh, tăng năng suất...
Để phát triển khoa học - kỹ thuật nông
nghiệp, Nhật Bản chủ yếu dựa vào các viện
nghiên cứu nông nghiệp của Nhà nước và
chính quyền các địa phương. Viện quốc gia
về khoa học nông nghiệp được thành lập ở
cấp Nhà nước là cơ quan có trách nhiệm
tổng hợp gắn kết toàn bộ các viện nghiên
cứu cấp ngành thành một khối. Bên cạnh đó,
các viện nghiên cứu nông nghiệp cũng tăng
cường liên kết nghiên cứu với các trường đại
học, xí nghiệp tư nhân và hội khuyến nông;
liên kết với các tổ chức của nông dân để giúp
nông dân tiếp cận công nghệ, trang thiết bị
tiên tiến, giúp tăng năng suất, chất lượng,
đảm bảo nông nghiệp tăng trưởng ổn định.
Người nông dân được Chính phủ khuyến
khích khởi nghiệp nhằm tạo ra những nông
sản tốt hơn cho sức khỏe cộng đồng và môi
trường. Các ý tưởng nhận được sự hỗ trợ
mạnh mẽ về vốn từ các quỹ đầu tư, ngân
hàng. Những ý tưởng sản xuất nông sản hữu
cơ, sản xuất gạo lứt có hương vị thịt cá đã
và đang thành công ngoài mong đợi. Thống
kê hiện nay có khoảng 3 triệu trong tổng số
127 triệu người dân Nhật Bản tham gia phát
triển nông nghiệp. Điều này giúp cho Nhật
Bản - dù không giàu có về tài nguyên thiên
nhiên, đất đai không trù phú nhưng vẫn đủ
khả năng cung cấp nguồn lương thực chất
lượng cho nhu cầu người dân cả nước.
Những mô hình sản xuất nông nghiệp
với cơ chế tổ chức, hợp tác độc đáo
Israel là nơi khai sinh ra hai loại hình cộng
đồng nông nghiệp độc đáo: cộng đồng hợp tác
xã Kibbutz và Moshav. Hầu hết ngành nông
nghiệp Israel dựa trên các nguyên tắc về hợp
tác của hai loại hình này. Cả hai loại hình
cộng đồng đều nhằm giúp hiện thực hóa giấc
mơ của những người tiên phong muốn có
những cộng đồng công bằng, hợp tác và
tương trợ lẫn nhau nhưng cũng đồng thời tạo
Trang trại tại sa mạc Arava
Nông dân Arava đang kiểm tra sản phẩm
Triển lãm nông sản được tổ chức hàng năm tại Arava
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2017 [21]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ra lợi thế về năng suất. Ngày nay,
76% nông sản Israel là sản phẩm
từ các Kibbutz và Moshav. Cả
hai hình thức này có điểm chung
là sản xuất quy mô lớn, có điều
kiện áp dụng cơ giới hóa, kỹ
thuật tưới tiêu, phòng trừ dịch
hại.
“Kibbutz” theo tiếng Do Thái
có nghĩa là “tổ hợp” hay là “hợp
tác xã (HTX)”, một hình thức tổ
chức kinh tế nông - công nghiệp
nông thôn độc nhất vô nhị trên
thế giới đang tồn tại ở Israel. Về
kinh tế, Kibbutz tổ chức hoàn
toàn theo kinh tế thị trường, thực
hiện phương châm “làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu”
đối với các xã viên, trong đó tài
sản và các phương tiện sản xuất
được sở hữu chung và mọi quyết
định được hội đồng các thành
viên bỏ phiếu tán thành. Trong
Kibbutz, các thành viên có trách
nhiệm và tận tụy với cộng đồng,
mặt khác họ được đáp ứng mọi
nhu cầu từ lúc sơ sinh đến khi về
già. Hiện nay, trên toàn đất nước
Israel có khoảng 270 Kibbutz,
trung bình mỗi Kibbutz có trên
dưới 300 xã viên, hoạt động
tương tự như nhau, sở hữu những
cánh đồng trồng cây nông
nghiệp, trại chăn nuôi gia súc,
các nhà máy chế biến sản phẩm
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ
như sản xuất bột giặt, đồng hồ đo
nước xuất khẩu, van và khớp nối
ống nước Trong các Kibbutz,
động cơ để người lao động cống
hiến hết mình là danh dự, sự
tuyên dương, động viên kịp thời
của ban lãnh đạo và sự tôn vinh
của cộng đồng. Tên và thành tích
của người có công được công bố
kịp thời, công khai trên bản tin
địa phương. Để tránh tham
nhũng, mọi khoản thu nhập và
chi phí của Kibbutz được công
khai dán trên bảng thông tin của
cộng đồng. Ban lãnh đạo được
đại hội xã viên bầu ra, chịu trách
nhiệm giám sát của một cơ chế
công khai hoàn toàn mọi quyết
định và chính sách của Kibbutz.
“Moshav” lại là một dạng tổ
chức HTX phức hợp kiểu mới.
Đây là một làng nông nghiệp,
trong đó mỗi một gia đình đều
duy trì trang trại của mình. Hợp
tác giữa các thành viên trong
Moshav được áp dụng trong việc
mua bán, tiếp thị và cung cấp các
dịch vụ cho cộng đồng, chính họ
cung cấp phần lớn lượng nông
sản cho đất nước. Các Moshav
được điều hành bởi những cộng
đồng được cư dân bầu lên. Các
dịch vụ hỗ trợ cộng đồng dùng
một nguồn thuế đặc biệt. Loại
thuế này thu bình đẳng trên mỗi
hộ gia đình, tạo ra một hệ thống
sản xuất, trong đó người nông
dân giỏi sẽ được lợi hơn người
kém, không như trong các Kib-
butz - nơi (ít nhất là trên lý
thuyết) mọi thành viên hưởng
chất lượng đời sống như nhau.
Moshav gồm 5 thành
tố: (1) Đây là một tập thể hợp tác
toàn diện trên 15 phương diện:
tín dụng và tiết kiệm, kế toán,
hưu trí, bảo hiểm, cung cấp
nguyên liệu đầu vào, sản xuất,
tưới tiêu, tích trữ hàng, xử lý sản
phẩm, tiếp thị, tiêu thụ, xây
dựng, nhà ở, vận tải và các dịch
vụ kỹ thuật; (2) Mỗi Moshav gắn
liền với một làng mạc nào đó và
mọi dân làng đều là thành viên.
Vì vậy, danh tính của Moshav
cũng chính là danh tính của một
làng cùng toàn thể cộng đồng cư
dân; (3) Moshav cung cấp toàn
diện những dịch vụ cần thiết cho
cộng đồng, gồm giáo dục, tôn
giáo, văn hóa, hoạt động xã hội,
phong trào thanh thiếu niên, thể
thao, y tế, công viên, xử lý rác
thải, ánh sáng công cộng, đường
sá, và các tiện ích cho người cao
tuổi. Trưởng làng là người chịu
trách nhiệm trong cung cấp các
dịch vụ cộng đồng này, đồng thời
là chủ nhiệm hợp tác xã; (4) Các
thành viên trong cộng đồng đều
phải tự nguyện sống trong
Moshav và tham gia các hoạt
động của nó. Tuy nhiên, mỗi cá
Làng Nahalal theo mô hình Moshav ở thung lũng Jezreel
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2017 [22]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
nhân tự lựa chọn cách thức làm
việc, làm những gì họ thấy là hợp
lý và phù hợp nhất cho khả năng
của mình; (5) Các thành viên
trong Moshav chia sẻ trách
nhiệm và hỗ trợ lẫn nhau, đặc
biệt là khi có khó khăn. Sự chia
sẻ trách nhiệm giữa các thành
viên cho phép vận hành một cơ
chế tín dụng hợp tác, trong đó
các thành viên cùng tham gia vay
các khoản tín dụng và cùng chia
sẻ nghĩa vụ thanh toán.
Kinh nghiệm từ việc tổ chức
các Moshav ở Israel có thể là
những bài học hữu ích cho việc
tổ chức các làng truyền thống ở
những nước thuộc thế giới thứ
ba. Nhìn vào cả Kibbutz và
Moshav, chúng ta thấy rằng
nguyên tắc cơ bản là một HTX
chỉ có thể thành công nếu các
thành viên cần dịch vụ của nó.
Nếu các dịch vụ này có thể được
cung cấp theo cách khác và thỏa
mãn được nhu cầu của nông
dân, thì mô hình HTX là không
cần thiết.
Với Nhật Bản, các HTX và
các tổ chức kinh tế HTX dịch vụ
có vị trí rất quan trọng trong phát
triển nông nghiệp. Hầu hết
những người nông dân đều là xã
viên của HTX nông nghiệp.
Chính phủ rất coi trọng thể chế
vận hành các HTX nông nghiệp
và đã ban hành, thực hiện nhiều
chính sách giúp đỡ phát triển,
không ngừng mở rộng quy mô
sản xuất nhằm giúp người nông
dân thoát khỏi cảnh đói nghèo và
cùng hội nhập vào nền kinh tế
thế giới. Theo Luật HTX nông
nghiệp, năm 1972, Liên hiệp các
HTX nông nghiệp quốc gia Nhật
Bản chính thức được thành lập
và được Chính phủ giao thực
hiện các mục tiêu về phát triển
nông nghiệp và nông thôn. Hệ
thống HTX nông nghiệp Nhật
Bản được phân làm 3 cấp, hoạt
động với tôn chỉ dựa vào sự nỗ
lực hợp tác giữa các HTX nông
nghiệp cấp cơ sở, các liên đoàn
cấp tỉnh và cấp trung ương tạo
thành một bộ máy thống nhất
hoàn chỉnh từ trung ương đến
địa phương. Vai trò của các HTX
và tổ chức kinh tế HTX dịch vụ
đã thúc đẩy quá trình tích tụ, tập
trung ruộng đất, chuyên môn
hóa sâu theo hướng thương mại
hóa trong nông nghiệp nước này.
Chính sách quản lý nông
nghiệp hiệu quả
Sự thành công của Israel hiện
nay còn là nhờ chủ trương thay
đổi cơ cấu nền nông nghiệp từ
cách đây hơn 2 thập niên, giúp
giảm mạnh số lượng nông trại và
nông dân cá thể trong khi tăng
quy mô và tính hiệu quả của các
nông trại. Người nông dân Is-
rael còn được trang bị các kỹ
năng kinh doanh rất phát triển
cũng như khả năng quản trị cần
thiết để đương đầu với sự thay
đổi nhanh chóng và năng động
của nền nông nghiệp hiện
đại. Việc tái cơ cấu nền nông
nghiệp của Israel còn nhằm một
mục đích rộng hơn. Đó là chấp
nhận một hướng đi toàn diện
hơn cho phát triển nông thôn,
trong đó sản xuất lương thực,
thực phẩm - xương sống của đời
sống nông thôn - tác động tới
một loạt những hoạt động kinh
tế rộng lớn hơn, từ các ngành
chế biến thực phẩm và đóng gói
bao bì tới những dự án công
nghiệp khác, các ngành dịch vụ
và thậm chí phát triển du lịch
sinh thái. Israel ưu tiên phát
triển nông nghiệp thân thiện với
môi trường, phát triển nông
thôn và sản xuất lương thực.
Cùng với đó là các chính sách
gắn liền với người dân ở khu
vực nông thôn, bao gồm hỗ trợ
nghề và các sáng kiến đem lại
lợi ích nhằm phát triển hạ tầng
và dịch vụ. Về quản lý nhà nước
về nông nghiệp, gần như không
còn tình trạng sản xuất thừa ở
Israel. Mỗi đơn vị được cấp hạn
ngạch nông sản và hạn ngạch
nước cho mỗi vụ, điều này giúp
giá cả luôn ổn định. Nhà nước
Israel cũng thúc đẩy việc giảm
chi phí nông nghiệp bằng cách
khuyến khích chuyên canh và
dừng việc sản xuất các loại
nông sản lợi nhuận thấp. Bộ
nông nghiệp quản lý các lĩnh
vực nông nghiệp bao gồm việc
duy trì các tiêu chuẩn về cây
trồng và sức khỏe vật nuôi,
hoạch định nông nghiệp, nghiên
cứu và tiếp thị sản phẩm.
Những chính sách của Nhật
Bản lại tập trung ở cải cách
ruộng đất; phát triển sản xuất có
chọn lọc, chú trọng chất lượng
nông sản; những chính sách hỗ
trợ nông nghiệp tích cực. Nhật
Bản thực hiện chính sách phát
triển nông nghiệp toàn diện, bao
gồm: đảm bảo an toàn lương
thực; xem xét lại chính sách giá
cả; hoàn thiện cơ cấu sản xuất,
đẩy mạnh các công trình phúc
lợi trong các làng xã. Đồng thời,
chương trình “Đẩy mạnh sử
dụng đất nông nghiệp” được
triển khai. Từng hộ sản xuất
riêng lẻ, với quy mô quá nhỏ thì
không thể có đủ điều kiện kinh
tế và kỹ thuật để hiện đại hóa
quá trình sản xuất nông nghiệp
hàng hóa lớn. Năm 1995, số
lượng nông trại giảm 791 nghìn
cái (giảm 18,7%) so với năm
1985. Quy mô ruộng đất bình
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 3/2017 [23]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
quân của một nông trại có sự
thay đổi theo hướng tích tụ
ruộng đất vào các trang trại lớn
để tăng hiệu quả sản xuất. Xu
hướng này thể hiện rõ nhất trong
giai đoạn 1990-1995, quy mô
đất lúa bình quân/hộ tăng từ
7180m2 lên 8120m2. Khi sản
xuất hàng hóa lớn phát triển,
Nhật Bản tập trung đất đai, mở
rộng quy mô sản xuất, phát triển
nông hộ lớn hoặc trang trại để
tạo điều kiện cơ giới hóa, tăng
năng suất lao động, tăng khả
năng cạnh tranh. Về chính sách
giá cả, đặc biệt chính sách trợ
giá cho lúa gạo khá lớn của
Chính phủ đã kích thích sản
xuất và dẫn đến sản xuất thừa
gạo. Theo quan điểm an ninh
lương thực là mục tiêu số một
nên ngành nông nghiệp Nhật
Bản được bảo hộ rất cao. Nhật
Bản cũng luôn có chính sách hỗ
trợ kịp thời để khuyến khích
phát triển nông nghiệp như: hỗ
trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, cung
cấp các trang thiết bị, vật tư cho
nông nghiệp, cung cấp thông
tin, xúc tiến thương mại, cho
vay vốn tín dụng...
Kinh nghiệm của Hàn Quốc
là thiết lập hệ thống quản lý
nông nghiệp bền vững. Nông
nghiệp bền vững đã bắt đầu
được chú ý ở Hàn Quốc vào
cuối những năm 1970. Bộ Nông
lâm và Thủy sản đã thành lập
một ủy ban phát triển nghề nông
trại hữu cơ từ năm 1991 và đã
sắp đặt các quy định quản lý
nghề nông trại hữu cơ. Từ đó,
nhiều chương trình hỗ trợ đối
với các trang trại cỡ vừa và nhỏ
để sản xuất ra các sản phẩm có
chất lượng cao ra đời. Bộ Nông
lâm và Thủy sản Hàn Quốc
cũng đã thành lập một ủy ban
công tác về vấn đề hoạch định
chính sách nông nghiệp bền
vững để phát triển kế hoạch hỗn
hợp và các hệ thống thích hợp
đối với nông nghiệp bền vững.
Trên cơ sở kết quả của ủy ban
công tác này, Chính phủ Hàn
Quốc đã lập nên các kế hoạch
trung và dài hạn cho nông
nghiệp bền vững. Mục tiêu của
Hàn Quốc là theo đuổi một nền
nông nghiệp bền vững thân
thiện với môi trường bằng cách
giảm ô nhiễm môi trường do sản
xuất nông nghiệp gây ra, trong
đó quy định rõ vai trò của Chính
phủ trung ương, chính phủ địa
phương, chủ trang trại, và các tổ
chức tư nhân. Các chương trình
trợ giúp các trang trại cỡ vừa và
nhỏ trong việc sản xuất các sản
phẩm nông nghiệp có chất
lượng cao đã được khởi xướng
từ năm 1995. Mục tiêu của việc
trợ giúp bao gồm cả sản xuất và
tiếp thị các phương tiện, thiết bị
cho nông nghiệp bền vững, như
các thiết bị sản xuất vi sinh tự
nhiên, kho thóc, nhà kính, thiết
bị làm lạnh và các loại xe làm
lạnh. Từ năm 1995 đến nay, dự
án khuyến khích nông nghiệp
bền vững đã được thực hiện ở
nhiều vùng. Dự án này hỗ trợ
sản xuất, tiếp thị và bán sản
phẩm của nông nghiệp bền vững
với mục đích cung cấp nước
sạch và các sản phẩm nông trại
tươi sống cho người tiêu dùng
trong vùng.
Lời kết
Nông nghiệp Việt Nam có
nhiều lợi thế về vị trí địa lý, khí
hậu đa dạng, nhân lực dồi dào
và có truyền thống nông nghiệp
lâu đời nhưng chủ yếu vẫn là
những yếu tố lợi thế “tĩnh”. Bài
học kinh nghiệm của các nước
có nền nông nghiệp phát triển
như Israel, Hàn Quốc, Nhật Bản
cho thấy rằng, chúng ta cần khai
thác những yếu tố “động” quan
trọng như: cơ chế chính sách,
ứng dụng công nghệ cao, học
hỏi cách làm của các nước tiên
tiến Hiện nay, Chính phủ
đang có nhiều chính sách ưu đãi
đầu tư, hợp tác chuyển giao
công nghệ và nông nghiệp
Việt Nam đã có những chuyển
biến tích cực. Tin rằng, trong
thời gian tới, nông nghiệp nước
ta sẽ có nhiều khởi sắc, thực sự
thành công trong việc “bắt đất
hóa tiền”./.
Minh Ngọc (Tổng hợp)
Ứng dụng công nghệ trong thu hoạch nông sản tại Nhật Bản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2_nctd_02_4267_2224611.pdf