Tài liệu Ứng dụng chế phẩm vi sinh xử lý nước thải cá cao nuôi tôm: 1
MÔI TRƯỜNG VÀ BỆNH THỦY SẢN
2
ỨNG DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH XỬ LÝ NƯỚC THẢI CÁC AO NUÔI TÔM
Nguyễn Thị Ngọc Thanh1, Ngô Thị Tường Châu2
1 Viện Công nghệ Sinh học & Môi trường – Trường Đại học Nha Trang
2 Khoa Sinh học – Trường Đại học Khoa học Huế
Ô nhiễm môi trường nước trong các ao nuôi ở đầm phá ven biển miền Trung
hiện nay đang ở tình trạng báo động và là mối quan tâm của các nhà Khoa học, nhà
Sản xuất, nhà Quản lý môi trường. Phương pháp sinh học, cụ thể là sử dụng chế phẩm
vi sinh được lựa chọn để xử lý loại nước thải này. Nghiên cứu đã tiến hành phân lập và
tuyển chọn được một số chủng vi khuẩn có khả năng phân giải protein, tinh bột và
cenlulo cao từ bùn đáy và nước thải từ các ao nuôi tôm. Các chủng vi khuẩn có hoạt
tính phân giải chất hữu cơ cao được chọn nhân giống và thu sinh khối rồi phối trộn với
bùn tự nhiên (bùn lấy từ đáy ao nuôi) theo tỷ lệ nhất định tạo thành bùn hoạt tính dùng
để xử lý nước thải từ các ao nuôi tôm. Thí nghiệm khảo sát ...
30 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Ứng dụng chế phẩm vi sinh xử lý nước thải cá cao nuôi tôm, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
MÔI TRƯỜNG VÀ BỆNH THỦY SẢN
2
ỨNG DỤNG CHẾ PHẨM VI SINH XỬ LÝ NƯỚC THẢI CÁC AO NUÔI TÔM
Nguyễn Thị Ngọc Thanh1, Ngô Thị Tường Châu2
1 Viện Công nghệ Sinh học & Môi trường – Trường Đại học Nha Trang
2 Khoa Sinh học – Trường Đại học Khoa học Huế
Ô nhiễm môi trường nước trong các ao nuôi ở đầm phá ven biển miền Trung
hiện nay đang ở tình trạng báo động và là mối quan tâm của các nhà Khoa học, nhà
Sản xuất, nhà Quản lý môi trường. Phương pháp sinh học, cụ thể là sử dụng chế phẩm
vi sinh được lựa chọn để xử lý loại nước thải này. Nghiên cứu đã tiến hành phân lập và
tuyển chọn được một số chủng vi khuẩn có khả năng phân giải protein, tinh bột và
cenlulo cao từ bùn đáy và nước thải từ các ao nuôi tôm. Các chủng vi khuẩn có hoạt
tính phân giải chất hữu cơ cao được chọn nhân giống và thu sinh khối rồi phối trộn với
bùn tự nhiên (bùn lấy từ đáy ao nuôi) theo tỷ lệ nhất định tạo thành bùn hoạt tính dùng
để xử lý nước thải từ các ao nuôi tôm. Thí nghiệm khảo sát khả năng xử lý các chất
hữu cơ của vi khuẩn được bố trí làm 9 lô với 1 lô đối chứng (không bổ sung bùn hoạt
tính), 8 lô còn lại được bổ sung bùn hoạt tính (bùn tự nhiên + sinh khối vi khuẩn theo
các tỷ lệ khác nhau) trong đó 4 lô có sục khí và 4 lô không sục khí. Kết quả khảo sát
bước đầu cho thấy việc bổ sung bùn hoạt tính cho hiệu quả xử lý tốt trong điều kiện có
sục khí. Lô số 9 với tỷ lệ bổ sung các chủng Pr:Tb:C là 8:4:1 cho hiệu quả cao nhất với
hiệu suất loại BOD5 là 53,4%; NH4+-N là 99,7% và loại hoàn toàn PO43—P.
3
ẢNH HƯỞNG CỦA STRESS MÔ PHỎNG QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN LÊN KHẢ
NĂNG BẮT MỒI, MẤT NƯỚC VÀ BÀI TIẾT AMONIAC CỦA VẸM TÍM
(MYTILUS EDULIS LINNAEUS, 1758) TRONG QUÁ TRÌNH BẢO QUẢN KHÔ
Vũ Trọng Đại
Đại học Nha Trang,
Email: daibmhs@yahoo.com.vn
Các thí nghiệm ảnh hưởng của stress mô phỏng quá trình vận chuyển lên khả
năng bắt mồi, mất nước và bài tiết ammoniac của vem tím được thực hiện trong 8 ngày
bảo quản khô ở nhiệt độ 10oC tại phòng thí nghiệm Sealab, trường Đại học Khoa học
và Công nghệ Na Uy.
Khả năng bắt mồi của vẹm tím đạt giá trị cao nhất (1,0 lít/gram khối lượng
khô/giờ) ở ngày thứ 0 (sau 2 giờ) của quá trình bảo quản khô và sau đó giảm dần theo
thời gian bảo quản. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa hai
nghiệm thức vẹm gây stress và đối chứng.
Khối lượng nước mà vẹm bị mất trong quá trình bảo quản khô dao động từ 0,4
gram (5,3% tổng lượng nước) ở ngày 0 tới 1,1 gram (15% tổng lượng nước) ở ngày thứ
8 cho cả hai nghiệm thức thí nghiệm nhưng sự khác biệt có ý nghĩa thống kê chỉ ghi
nhận được ở nghiệm thức vẹm bị stress. Hàm lượng amoniac do vẹm bài tiết ra được đo
sau 4 ngày bảo quản khô cho hai nghiệm thức vem gây stress và đối chứng. Có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về hàm lượng amoniac quá trình bảo quản khô của cả hai
nghiệm thức và đạt giá trị cao nhất ở ngày thứ 4 (5,5µg NH4-N/gram khối lượng khô).
4
ỨNG DỤNG SẮC KÝ LỎNG CAO ÁP (HPLC) PHÂN TÍCH ĐỘC TỐ
AFLATOXIN B1 TRONG THỨC ĂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Nguyễn Đắc Kiên
Khoa Nuôi trồng Thủy sản – Trường Đại học Nha Trang
Email: nguyendackien@gmail.com; kiennd@cb.ntu.edu.vn
Phương pháp phân tích sử dụng máy sắc ký lỏng cao áp là phương pháp hiện
đại, độ nhạy cao, có khả năng phân tích hàm lượng chất rất nhỏ có trong môi trường.
Xây dựng quy trình phân tích độc tố aflatoxin trong thức ăn nuôi trồng thủy sản nhằm
đánh giá sự hình thành và mức độ tích lũy độc tố. Do đó, nghiên cứu “ứng dụng sắc ký
lỏng cao áp (HPLC) phân tích độc tố aflatoxin trong thức ăn thủy sản” được thực hiện
sẽ giúp cho việc phân tích độc tố aflatoxin trong đối tượng thức ăn, đánh giá mức độ
tích lũy độc tố theo thời gian cũng như nghiên cứu điều kiện môi trường thích hợp cho
sự hình thành aflatoxin. Aflatoxin B1 chuẩn gốc (có nồng độ chuẩn ban đầu của AFB1
là 10,1µg/kg) được bổ sung vào nguồn thức ăn nuôi trồng thủy sản với thể tích là 20µl
ở một số thời điểm tiến hành phân tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hiệu suất thu hồi
độc tố aflatoxin ở các thời điểm tiến hành phân tích đạt mức cao là 86.27% và 82,79%.
Kết quả thể hiện độ tin cậy của quy trình phân tích tương đối cao và có thể áp dụng để
phân tích độc tố aflatoxin trong trong thức ăn nuôi trồng thủy sản và sản phẩm nông
sản khác.
Từ khóa: sắc ký, HPLC, aflatoxin B1, thức ăn thủy sản
SO SÁNH HIỆU QUẢ LỌC SINH HỌC CỦA RONG NHO (CAULERPA
SERATA) VÀ LỌC VI SINH TRONG HỆ THỐNG TUẦN HOÀN ƯƠNG NUÔI
ẤU TRÙNG TÔM HARLEQUIN (HYMENOCERA PICTA DANA, 1852)
Phạm Trung Hiếu
Khoa nuôi trồng thủy sản, Đại Học Nha Trang
Để so sánh hiệu quả của rong biển và vi sinh vật về khả năng làm sạch chất thải
nito trong hệ thống nuôi khép kín, rong Nho Caulerpa serrata và lọc vi sinh ngập
5
nước (submerged biofilter) đã được sử dụng với vai trò lọc sinh học trong hệ thống
tuần hoàn ương nuôi ấu trùng tôm cảnh biển Hymenocera picta (Dana, 1852).
Ấu trùng tôm cảnh Hymenocera picta được ương nuôi trong hai hệ thống tuần
hoàn nước với hệ thống lọc sinh học là yếu tố khác nhau duy nhất giữa hai nghiệm
thức. Đối chứng là ấu trùng tôm được nuôi trong các bể nước tĩnh, thay nước hàng
ngày với tỷ lệ 100%. Mỗi hệ thống bao gồm ba bể tương ứng với các lần lặp. Để đánh
giá hiệu quả của các hệ thống lọc sinh học đến quản lý chất lượng nước và ương nuôi
ấu trùng, các thông số chất lượng nước về nồng độ của Ammonia tổng số (TAN),
Nitrite (NO2-N), Nitrate (NO3-N), tỷ lệ sống, tốc độ phát triển của ấu trùng tôm
Harlequin (sự chuyển giai đoạn) được phân tích và so sánh.
Thí nghiệm kéo dài trong 35 ngày. Trong hệ thống tuần hoàn với lọc vi sinh,
nhìn chung, Ammonia (0.04 ppm) và Nitrite (0.017 ppm) được duy trì tương đối ổn
định ở nồng độ thấp, không gây ảnh hưởng đến vật nuôi, tuy nhiên, có sự tích lũy và
tăng cao của nồng độ Nitrate trong hệ thống theo thời gian nuôi. Trong khi đó, rong
biển có khả năng duy trì nồng độ Ammonia dao động ổn định ở mức thấp hơn so với
hệ thống sử dụng lọc vi sinh (0.02 ppm), và không có hiện tượng tích lũy Nitrate trong
hệ thống nuôi. Do đó, rong Nho có tiềm năng trong việc nâng cao hiệu quả và năng
suất của hệ thống nuôi khép kín thông qua cải thiện chất lượng môi trường nuôi.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai hệ thống về tỷ lệ chuyển giai đoạn
và tỷ lệ sống (p>0.05)
6
TÌM HIỂU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ QUAN SÁT CƠ QUAN SINH
SẢN CỦA RONG MƠ (SARGASSUM POLYCYSTUM C.A.AGARDH, 1824)
TẠI VÙNG TRIỀU BẢO ĐẠI – NHA TRANG
Nguyễn Thị Thanh Xuân
Lớp CHNT – 10, Trường Đại học Nha Trang
Email: thanhxuan48ntu@gmail.com
Rong mơ Sargassum polycystum thuộc họ Sargassaceae ngành Phaeophyta,
đóng vai trò quan trọng đối với tự nhiên và con người. Sự suy giảm nghiêm trọng
nguồn lợi rong mơ đòi hỏi phải tiến hành các nghiên cứu, làm cơ sở dữ liệu cho các đề
án bảo tồn và phát triển nguồn lợi này. Rong mơ S. polycystum chiếm tỷ lệ sinh lượng
cao trong các khu hệ rong, có chất lượng tốt, và là đối tượng rong biển kinh tế. Trên
cơ sở đó, đề tài “Tìm hiểu một số đặc điểm sinh học và quan sát cơ quan sinh sản
của rong mơ ( Sargassum polycystum C.A.Agardh, 1824) tại vùng triều Bảo Đại-
Nha Trang” được thực hiện với các nội dung: Tìm hiểu đặc điểm phân bố, đặc điểm
sinh trưởng, và quan sát cơ quan sinh sản của rong mơ S. polycystum tại vùng triều
Bảo Đại-Nha Trang.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng là: phương pháp trực quan; phương
pháp sinh vật chỉ thị; phương pháp chiều dài, khối lượng dùng trong nghiên cứu đặc
điểm sinh trưởng; phương pháp cắt cúp tiêu bản tế bào; và quan sát dưới kính hiển vi.
Số liệu được thống kê và xử lý trên phần mềm SPSS 15.0.
Kết quả thu được sau quá trình nghiên cứu cho thấy:
S. polycystum phân bố ở trung triều cho đến giới hạn trên của hạ triều. Chúng
mọc trên nền đáy cứng là các đá tảng, sinh trưởng trong vực nước có nhiệt độ và độ
mặn tương đối cao (nhiệt độ: 29,3 ± 2,23°C và độ mặn 34 ± 1,1ppt).
Trong thời gian nghiên cứu, S. polycystum sinh trưởng nhanh từ giữa tháng 3
đến giữa tháng 5 thì dừng lại. Tốc độ tăng trưởng của S. polycystum không đều trong
quá trình phát triển. Giữa khối lượng và chiều dài cơ thể có sự tương quan chặt chẽ
theo chiều thuận (hệ số tương quan R=0.948).
7
S. polycystum bước vào mùa sinh sản từ khoảng cuối tháng 3 cho đến cuối
tháng 5. S. polycystum là loài thuộc nhóm cây khác gốc. Đế đực dạng trụ tròn, chia
nhánh hoặc không, dài 14 mm, đường kính 1 mm. Đế cái dẹp hoặc có dạng tam lăng,
dài 4 mm, đường kính 1 mm, chia nhánh. Cấu tạo trong đế đực gồm các ổ sinh sản
hình tứ diện, bên trong chứa các giao tử phòng đực sinh giao tử đực. Đế cái gồm các ổ
sinh sản, mỗi ổ chỉ chứa một noãn bào hình cầu.
Quá trình phát triển của S. polycystum có liên quan chặt chẽ vào vị trí phân bố
của nó trên vùng triều. Cần có các nghiên cứu bổ sung ở các khu vực khác, so sánh đối
chiếu với các kết quả đã đạt được, đồng thời nghiên cứu sản xuất giống bào tử trong
phòng thí nghiệm, tiến tới sản xuất ngoài thực địa để bảo tồn và phát triển loài S.
polycystum nói riêng và cả giống rong mơ nói chung.
BỆNH KÝ SINH TRÙNG TRÊN CÁ CHẼM (Lates calcarifer Bloch 1790)
NUÔI TẠI KHÁNH HÒA
Phan Văn Út, Nguyễn Thị Thanh Nga, Lê Phước Thuần.
Đại Học Nha Trang
Kiểm tra 375 mẫu cá chẽm (Lates calcarifer) giai đoạn nhỏ (chiều dài <15cm)
từ 32 đàn cá nuôi trong khu vực Khánh Hòa đã phát hiện 14 loài ký sinh trùng, cả
ngoại ký sinh và nội ký sinh. Quá trình nghiên cứu đã bắt gặp 2 bệnh do trùng bánh xe
(giống Trichodina) và do sán lá đơn chủ (Monogenea) thường xuyên xuất hiện ở cá
chẽm nuôi. Kết quả thử nghiệm trị bệnh đạt hiệu quả cao, bệnh do trùng bánh xe ký
sinh có thể tắm với CuSO4 từ 5-9ppm; hoặc Formalin từ 150-250ppm hoặc chiết xuất
tỏi 700-900ppm. Trong khi đó cá bị bệnh sán lá đơn chủ có thể tắm với formalin 200-
250ppm hoặc chiết xuất tỏi 800 – 900ppm.
Từ khóa: cá chẽm, Lates calcarifer, ký sinh trùng, Trùng bánh xe, sán lá đơn chủ.
8
ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦNG LOẠI VÀ ĐỘ MẶN LÊN SINH TRƯỞNG CỦA
NẤM MEN (SACCHAROMYCES CEREVISIAE)
Hồ Mạnh Tuấn
Khoa Nuôi trồng Thủy sản, Đại học Nha Trang
Nấm men với thành phần cơ bản trong màng tế bào là beta-glucan, chitin,
mannan được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm và gần đây là trong nuôi
trồng thủy sản. Nghiên cứu của tác giả có mục đích làm sang tỏ ảnh hưởng của chủng
loại và độ mặn lên sinh trưởng của nấm men S.cerevisiae. Trong thí nghiệm này hai
chủng nấm men WT (dạng tự nhiên) và Mnn9 (gây đột biến gen dẫn đến ức chế quá
trình kéo dài chuỗi mannose và đồng thời tăng hàm lượng beta glucan) được nuôi cấy
trong môi trường đầy đủ gồm có đường D-glucose, peptone và cao nấm men (YEPD)
với 2 mức độ mặn là 0‰ và 35‰. Kết quả thí nghiệm cho thấy Mnn9 và WT đều đạt
đến giai đoạn sinh trưởng nhanh sau 24 giờ nuôi cấy và chủng Mnn9 đạt sinh trưởng
cực đại sau 33 giờ còn WT thì chỉ sau 28 giờ, rồi sau đó đi vào giai đoạn sinh trưởng
ổn định đối với nghiệm thức độ mặn 0‰. Còn trong môi trường có độ mặn 35‰, WT
và Mnn9 đều sinh trưởng chậm hơn 14 giờ so với môi trường nước ngọt. Trong đó,
Mnn9 có thể đạt sinh trưởng cực đại sau 43 giờ và sau 42 giờ đôi với WT. Sinh khối
của Mnn9 trong môi trường nước biển cao hơn 10 lần so với nước ngọt. Trong nghiên
cứu này, tương quan giữa mật độ và trọng lượng khô của các chủng nấm men ở các độ
mặn khác nhau cũng được thiết lập.
9
NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG HỢP CHẤT CÓ NGUỒN GỐC TỰ NHIÊN
(LÁ TRẦU KHÔNG (PIPER BETLE L.)) ĐỂ PHÒNG TRỊ BỆNH VI KHUẨN
TRÊN ĐỘNG VẬT THỦY SẢN
Nguyễn Nam Quang , Nguyễn Ngọc Phước,
Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Đức Quỳnh Anh
Khoa Thủy sản, đại học Nông Lâm Huế
Email: namquang2211@gmail.com
Bằng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước đã thu được hàm lượng tinh
dầu trong ba loại lá trầu từ 1,70-1,88%. Kết quả phân tích hàm lượng các hoạt chất
trong tinh dầu trầu sa lẹt bằng phương pháp sắc ký khí cho kết quả là: α-Cadinen:
14,1%; β-Caryophylen: 1,4%; Eugenol: 45,7%; Chavicol: 0,2%; Estragol: vết và
Benzoic acid 2,4-dimethyl: 36,6%. Hàm lượng các hoạt chất trong tinh dầu lá trầu
hương là:α-Cadinen: 14,8%; β-Caryophylen: 4,7%; Eugenol: 57,1%; Chavicol: 1,2%;
Estragol: vết và Benzoic acid 2,4-dimethyl: 39,3%. Trong tinh dầu lá trầu quế là:α-
Cadinen: vết; β-Caryophylen: vết; Eugenol: 69,9%; Chavicol: 0,3%; Estragol: vết và
Benzoic acid 2,4-dimethyl: 47,7%.
Hàm lượng cao nhất các hoạt chất trong Bokashi trầu sa lẹt bằng phương pháp
sắc ký khí xác định hàm lượng các hoạt chất là: α -cadinen : 16,5%, Eugenol: 46,1; β-
Caryophylen: 1,4%; Chavicol: 0,2%; Estragol: vết và Benzoic acid 2,4-dimethyl:
46,1%. Bokashi trầu hương: α-Cadinen: vết; β-Caryophylen: 2,1%; Eugenol: 44%;
Chavicol: 2,6%; Estragol: vết và Benzoic acid 2,4-dimethyl: 51,1%. Bokashi trầu: α-
Cadinen: 3%; β-Caryophylen: vết; Eugenol: 46,2%; Chavicol: 0,2%; Estragol: vết và
Benzoic acid 2,4-dimethyl: 64,1%.
Nồng độ ức chế tối thiểu của tinh dầu trầu sa lẹt, trầu quế và trầu hương là
2,5ppm. Nồng độ tiêu diệt vi khuẩn tối thiểu của tinh dầu ba loại trầu là 5ppm. Nồng
độ ức chế tối thiểu của Bokashi trầu sa lẹt đối với vi khuẩn A. hydrophila và V.
parahaemolyticus là 7,5ppm, của Bokashi trầu hương và trầu quế là 5ppm.Nồng độ
tiêu diệt tối thiểu của Bokashi trầu sa lẹt, trầu quế và trầu hương đối với vi khuẩn A.
hydrophila và V. parahaemolyticus là 10ppm và 7,5ppm.
10
NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG CỦA BOKASHI TRẦU VÀ CÁC CHẤT KHÁNG
KHUẨN ĐỐI VỚI KÝ SINH TRÙNG GÂY BỆNH TRÊN CÁ CHÌNH HOA
(ANGUILLIA MARMORATA) GIAI ĐOẠN CÁ GIỐNG (0,1 – 5,0G/CON)
Nguyễn Thị Huyền Trang
Sinh viên cao học K.15, Khoa Thủy sản,
Trường đại học Nông Lâm Huế
Nghiên cứu tiến hành xem xét sự có mặt của các ký sinh trùng gây bệnh ở cá
chình hoa (Anguilla marmorata) giai đoạn giống từ 01, đến 5 gam/con. Kết quả cho
thấy có các loài ký sinh trùng gây bệnh khác nhau như Trichodina,
Ichthyophthyrius và Dactylogyrus với tỷ lệ nhiễm 77; 53 và 32%. Cường độ nhiễm
của 3 loài trên 30,7; 27,0 và 7,6 trùng/vi trường . Kết quả thử nghiệm các chất
kháng khuẩn khác nhau lên ký sinh trùng gây nhiễm Bokashi – trầu ở liều 200ppm,
300ppm, 500ppm; Formol: 100 ppm, 150 ppm, 200 ppm; CuSO4: 3ppm, 5ppm,
7ppm; Xanhmethylen: 3ppm, 5ppm, 7ppm và nước muối: 20‰, 30‰, 40‰. Liều
gây chết 50% (LC50) của các chất kháng khuẩn đối với cá chình giống và nồng độ
dùng trong thí nghiệm: Bokashi trầu 901 ppm; Formol, 511 ppm; CuSO4, 106 ppm;
Xanhmethylen, 154ppm và nước muối 49‰. Đối với trùng bánh xe (Trichodina)
nồng độ Bokashi tăng từ 200 – 500ppm sẽ làm giảm tỷ lệ nhiễm 35 xuống 12% và
cường độ nhiễm giảm từ 8,2 ± 0,4 xuống 1,2 ± 0,8 trùng/vi trường; Formol có tác
dụng tương tự từ 100 – 200 ppm, giảm từ 14 đến 0 và 9,3 ± 0,5 đến 0; CuSO4 3 đến
7 ppm có tác dụng giảm từ 23 đến 12% và 7,9 ± 0,6 đến 1 ± 0,0; Xanhmêthylen với
liều 3 – 7ppm sẽ có tác dụng giảm từ 9 xuống 1% và 2,3 ± 0,9 xuống 1,0 ± 0,0;
nước muối từ 20 – 49% có tác dụng 31 – 13% và giảm từ 7,8 ± 1,6 xuống 2,2 ± 0,2.
Tương tự với trùng quả dưa (Ichthyophthyrius), kết quả cho thấy các liều như trên
Formol là kháng chất có tác dụng tốt, còn đối với sán 16 móc (Dactylogyrus), hầu
như cả 5 loại kháng chất đều không có tác dụng mà có duy nhất với 2 loại thuốc
giun sán Albendazole và Dipterex là có tác dụng, còn 5 loại trên đều gây ra tỷ lệ cá
chết cao nếu tăng nồng độ xử lý trên ngưỡng đã xác định nồng độ thử nghiệm.
11
NGHIÊN CỨU QUÁ TRÌNH TÁCH CHIẾT TINH DẦU, SỰ THÍCH ỨNG CỦA
VI KHUẨN LACLOBACILLUS TRONG MÔI TRƯỜNG DỊCH CHIẾT
VÀ TINH DẦU LÁ TRẦU
Nguyễn Thị Bích Đào
Sinh viên khóa 41 Ngư y – Khoa Thủy sản,
Trường đại học Nông Lâm Huế
Bokashi trầu được sản xuất bởi Dự án SXTN cấp NN độc lập 2009-2010 tại
Khoa Thủy sản, Trường đại học Nông Lâm Huế, bước đầu sử dụng rộng rãi và cho kết
quả tốt trong việc phòng trị các bệnh do vi khuẩn và ký sinh trùng gây ra cho động vật
thủy sản. Việc xác định vai trò của nhóm vi sinh vật Lactobacillus trong môi trường
tinh dầu lá trầu có ý nghĩa rất quan trọng cho việc kết hợp EM gốc với các chất kháng
khuẩn trong chất chiết lá trầu của chế phẩm Bokashi. Hàm lượng tinh dầu lá trầu được
phân tích bằng phương pháp chưng cất và kết quả có hàm lượng 1,02% trong vật chất
tươi (FM), chiếm 5,52% trong vật chất khô (DM). Kết quả phân tích qua GCMS cho
thấy hàm lượng eugenol chiếm tỉ lệ cao nhất 38,17%; chavicol 0,84%; Estradiol
0,02%; Chavicol acetate, 2,39%; Phenol, 3-allyl -2-methoxy, 14,65%; trans-
caryophyllene, 1,74% và Eugenyl acetate, 22,0%; 2-(Acetyloxy) -4-allylphenyl
acetate, 20,12%. Trong môi trường tinh dầu lá trầu, các loài Lactobacillus đã có sự
thích ứng nhất định để tồn tại hỗ trợ cho các chất kháng khuẩn như Eugenol, chavicol
và Estradiol. Thí nghiệm được tiến hành lặp lại 3 lần ở cả tinh dầu lá trầu và eugenol
tinh khiết, kết quả cho thấy sau 3 lần lặp lại trong môi trường tinh dầu nguyên chất và
môi trường eugenol tinh khiết, các vi khuẩn nhóm Lactobacillus vẫn phát triển, chúng
thay đổi về màu sắc, kích thước của khuẩn lạc trong thời gian nuôi cấy ở 24h, 36h và
48h, tốc độ mọc các khuẩn lạc không đổi kể từ 72h nuôi cấy trở đi, các loài
Lactobacillus casei và Lc. Plantarum được xác định tồn tại và thích ứng.
12
TÌM HIỂU TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC CÁT SẠN Ở SÔNG
HƯƠNG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Dược,
Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Thị Thúy Hải,
Lê Thị Mỹ Khanh, Lê Công Tuấn
Khoa Thủy Sản, Trường đại học Nông Lâm Huế,
102 Phùng Hưng thành phố Huế
Cát sạn là một trong những nguyên liệu quan trọng trong nhu cầu xây dựng của
con người, khai thác cát hiện nay đang là một nghề hái ra tiền đối với các chủ phương
tiện cũng như các chủ bến bãi. Bởi lợi nhuận lớn mà nó đem lại nên các hộ dân đã bất
chấp tất cả để tiếp tục tiến hành hoạt động này cho dù bị ngăn cấm và xử phạt hành
chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy gần 70% khu vực khai thác không có giấy phép,
tổng sản lượng khai thác ước tính hơn 35.000.000 m3 /1 năm. Trong số hàng trăm bến
bãi, địa điểm khai thác cát, sạn trái phép thì khu vực thượng nguồn sông Hương thuộc
xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy có quy mô lớn nhất (chiếm gần 50% sản lượng).
Thời gian hoạt động cao điểm vào mùa xây dựng tháng 4 đến tháng 7. Hoạt động khai
thác diển ra ồ ạt, thiếu kiểm soát ở vùng thượng nguồn sông Hương đã dẫn đến các tác
động tiêu cực đến dòng sông hương:
1) Việc khai thác cát, sạn đã làm đổi dòng chảy của sông, là một trong những
nguyên nhân chính làm sạt lỡ nhiều vùng bờ sông từ 5 - 10m, gần 40 căn nhà dân và
đe doạ nhiều ha đất nông nghiệp va một số đền, đài, thành quách ven sông đã được
UNESCO công nhận di tích lịch sử văn hóa.
2) Một lượng dầu lớn bắt nguồn từ các động cơ khai thác phóng thích vào môi
trường nước sông Hương, ngăn cản quá trình trao đổi khí của nước từ đó làm giảm
chất lượng nước, đe doạ trực tiếp đến đời sống thuỷ sinh vật.
3) Khai thác cát bằng máy hút sẽ cày xới nền đáy, tạo nên sự xáo trộn mạnh các
tầng nước, tăng độ đục, phá huỷ môi trường sống, nơi sinh sống của nhóm sinh vật đặc
13
hữu có tính năng duy trì sự trong sạch của sông Hương là các loài rong, động vật 2
mảnh vỏ.
TÌNH HÌNH DI NHẬP VÀ PHÁT TÁN RÙA TAI ĐỎ (TRACHEMYS
SCRIPTA ELEGANS) Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Phạm Thị Tuyết Mai, Lê Công Tuấn,
Phạm Anh Quốc, Phan Hữu Hợp
Khoa Thủy Sản, Trường đại học Nông Lâm Huế,
102 Phùng Hưng thành phố Huế.
Nghiên cứu sự di nhập và phát tán của rùa tai đỏ ở tỉnh Thừa Thiên Huế được
thực hiện trong năm 2011, kết quả đề tài cho thấy: Rùa tai đỏ được di nhập từ thành
phố Hồ Chí Minh vào tỉnh Thừa Thiên Huế vào khoảng năm 2007 với mục đích di
nhập rùa tai đỏ về là để nuôi làm cảnh 98% và một số trại nuôi nhằm nuôi thương
phẩm và sản xuất giống 2%. Số lượng rùa tai đỏ di nhập vào tỉnh Thừa Thiên Huế ước
tính hơn 200 con, tập trung chủ yếu ở địa bàn thành phố Huế nhưng đã ghi nhận sự di
nhập vào hầu như tất cả các vùng của tỉnh như Phú Thuận, Thuận An (vùng ven biển)
và A Lưới (vùng núi). Điều kiện nuôi rùa tai đỏ tại tỉnh Thừa Thiên Huế là các bể xi
măng với độ sâu <1m và 0,5m cao so với mặt bằng sân nền nhà (98%) và nuôi trong
hệ thống bể kính (2%), với đặc thù là vùng thường xuyên xảy ra lũ lụt nên rùa tai đỏ
nuôi ở tỉnh Thừa Thiên Huế có nguy cơ cao phát tán ra ngoài tự nhiên qua việc ghi
nhận sự xuất hiện rùa tai đỏ ở các thủy vực sông (chiếm 53,3 %), hồ tự nhiên (chiếm
13,3% ), hồ nhân tạo trong các công viên (chiếm 33,4%). Hiện nay, sau khi biết về tác
hại của rùa tai đỏ nhiều hộ có xu hướng không nuôi nữa mà thả rùa ra các thủy vực
(13,7%). Số hộ vẫn tiếp tục nuôi (82,2%), số hộ bị thất thoát rùa theo con đường tự
nhiên, lụt..(4,1%). Bên cạnh đó ở tỉnh Thừa Thiên Huế còn có tục lệ phóng sinh thủy
động vật vào những ngày rằm và trong đó rùa tai đỏ củng là một đối tượng được
phóng sinh nên nguy cơ rùa ta đỏ bị thất thoát ra ngoài tự nhiên là rất cao. Nhận thức
của người dân về tác hại của rùa tai đỏ, đa số người dân đều biết về tác hại của chúng
qua các phương tiện thông tin đại chúng sau khi có cảnh báo toàn quốc (96%). Tuy
nhiên một số người dân vẫn chưa biết đó là loài rùa gì và chưa biết tác hại của chúng
14
ra sao (4%). Những nơi buôn bán rùa tai đỏ trước đây đã không nhận và bán đối tượng
này nữa (100%), các hộ nuôi rùa tai đỏ làm cảnh cũng đang lo ngại trước tác hại của
chúng nhưng đang rất lúng túng trong phương án xử lý(100%). Tình hình di nhập rùa
tai đỏ vào tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay không còn đáng lo ngại nhưng nguy cơ số
lượng rùa đã di nhập về và đang được nuôi rải rác ở các hộ dân thoát ra ngoài tự nhiên
là rất cao. Cần tuyên truyền vận động người dân không phóng sinh, không thả rùa ra
ngoài tự nhiên. Các cơ quan quản lý liên quan ở tỉnh cần có phương án cụ thể trong
quản lý và tốt nhất là thu mua rùa và tiêu hủy.
TÌM HIỂU KHẢ NĂNG GÂY BỆNH CỦA VIRUS GÂY HỘI CHỨNG ĐỐM TRẮNG
(WSSV) TRÊN TÔM CÀNG XANH (MACROBRACHIUM ROSENBERGII)
Võ Văn Tuấn, Mathias Corteel,
Patrick Sorgeloos, Hans Nauwynck
Khoa Thủy sản, trường Đại học Nông Lâm Tp. HCM
Thí nghiệm gây nhiễm thực nghiệm trên tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) với hai chủng WSSV Thai-1 được cung cấp từ trường đại học Uppsala,
Thụy Điển và chủng WSSVViệt được cung cấp từ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy
sản II (Việt Nam) thông qua phương pháp tiêm vào cơ. Mức độ nhiễm bệnh được xác
định bằng phương pháp IIF (miễn dịch huỳnh quang). Triệu chứng bệnh lý bắt đầu
xuất hiện sau 24h gây nhiễm với chủng WSSV Thai-1 và sau 36h với chủng WSSVViệt.
Tỷ lệ tử vong trên động vật thí nghiệm bắt đầu xuất hiện sau 48h gây nhiễm với cả hai
dòng virus. Tuy nhiên, 85% tử vong khi gây nhiễm bởi chủng WSSV Thai-1 trong khi có
45% tử vong bởi chủng WSSVViệt (cùng pha loãng ở nồng độ thấp). Nồng độ gây
nhiễm của chủng WSSV Thai-1 và chủng WSSVViệt trên tôm càng xanh là 105.5 và 103.15
PID50 ml-1.
Từ khóa: tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii), virus gây hội chứng đốm trắng
(WSSV), miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IIF)
15
KHẢO SÁT KHẢ NĂNG LỌC NƯỚC THẢI TỪ AO NUÔI TÔM SÚ CỦA
HÀU (CRASSOSTREA ARIAKENSIS) TRONG BỂ NUÔI TẠI CẦN GIỜ
Mai Ngọc Trang, Nguyễn Văn Trai
Đại Học Nông Lâm Tp HCM
Nuôi tôm sú mang lại lợi ích kinh tế to lớn nhưng cũng là gánh nặng cho môi
trường do chất thải trong quá trình nuôi có khả năng gây hại vùng nước xung quanh.
Việc tìm kiếm các biện pháp giảm thiểu chất thải từ các hệ thống nuôi một cách hiệu
quả và dễ thực hiện là hết sức cần thiết. Sử dụng các sinh vật ăn lọc để xử lý nước thải
là một trong những biện pháp đầy hứa hẹn. Nghiên cứu này sử dụng hàu để khảo sát
khả năng làm sạch nước thải từ ao nuôi tôm sú ở huyện Cần Giờ, TP.HCM.
Hàu có chiều dài vỏ từ 5-7 cm được nuôi trong các bể chứa có thể tích 500 L. Sử
dụng nước từ ao nuôi tôm sú thâm canh để cấp cho các bể nuôi hàu. Thí nghiệm được
bố trí kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức ở các mật độ hàu thả nuôi khác
nhau, gồm nghiệm thức đối chứng (không thả hàu), 10 con/bể, 20 con/bể, 30 con/bể và
40 con/bể. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần. Hàu được đặt trong các lồng nhựa và treo ở
tầng nước giữa; các bể được sục khí liên tục nhằm khấy đảo nước, giúp cho các chất hữu
cơ lơ lửng trong tầng nước cung cấp thức ăn cho hàu Một số chỉ tiêu chất lượng nước
quan trọng (COD, TP, TN và TSS) được đo ở các thời điểm 0, 3, 6, và 9 giờ sau khi thả
nhằm so sánh tốc độ lọc ở các mật độ khác nhau tại các thời điểm khác nhau.
Kết quả phân tích chất lượng nước cho thấy ở mật độ nuôi 30 con/bể thì hiệu
quả lọc tốt nhất. Sau 9 giờ nuôi, các chỉ số COD, TP, TN và TSS giảm lần lượt là
37.2%, 66.24%, 30.17% và 31.34%. Ở mật độ nuôi 40 con/bể, tốc độ lọc nước nhanh
hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê so với mật độ 30 con/bể (p>0.05). Như vậy
trong điều kiện thí nghiệm, hàu làm sạch nước thải từ ao nuôi tôm sú với tốc độ tốt
nhất ở mật độ nuôi 60 con/m3.
16
HIỆN TRẠNG THÀNH PHẦN LOÀI CÁ NĂM 2010 VÀ MỘT SỐ Ý KIẾN
CẢNH BÁO VỀ CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI CÁ Ở
HỒ BA BỂ
Ngô Sỹ Vân1, Nguyễn Xuân Huấn 2
1 Research Institute for Aquaculture No.1,
Email: nsvan@ria1.org
2 University of Natural Science study, National University.
Email: nxhuan.sh@gmail.com
Hồ tự nhiên Ba Bể có diện tích 450ha nằm trên vùng núi đá vôi thuộc Vườn
Quốc gia Ba Bể. Là một trong 20 hồ tự nhiên đẹp nhất thế giới và là di sản thiên nhiên,
là danh lam thắng cảnh độc đáo. Nơi đây phong phú đa dạng về thành phần loài cá và
là nơi lưu giữ và bảo tồn nhiều nguồn gen cá quý hiếm. Và còn là nơi có nhiều công
trình nghiên cứu của các nhà khoa học như: Pellegrin và Chevey (1936); Chevey và
Lemasson (1937); Đào Văn Tiến (1963), Mai Đình Yên và Bùi Lai (1969); Nguyễn
Văn Hảo (1975); Mai Đình Yên, Trần Mai Thiên, Nguyễn Văn Hảo (1992); Nguyễn
Văn Hảo (1999); Ngô Sỹ Vân (2005)....Trong quá trình thực hiện luận án tiến sĩ ở hồ
Ba Bể, chúng tôi thu được kết quả: Nguồn lợi thuỷ sản ở hồ Ba Bể và sông Năng thuộc
Vườn Quốc gia Ba Bể rất phong phú, đa dạng và độc đáo gồm 108 loài cá thuộc 66
giống, 19 họ, 6 bộ. Hiện tại thu được 93 loài thuộc 61 giống 19 họ và 6 bộ. So với
nghiên cứu năm 2005 thì thành phần loài cá ở hồ Ba Bể và sông Năng có biến động, số
loài tăng thêm 3 loài: cá Trôi nam mỹ Prochilopodus linaeatus, cá Sặc bướm
Trichogaster trichopterus và cá Rô mó Siniperca chuatsi. Nguyên nhân của sự biến
động là do tác động của sự biến đổi khí hậu toàn cầu cũng như nhân dân di nhập một
số loài cá vào nuôi xung quanh hồ. Mặt khác có thể do mức nước hồ thủy điện Nang
Hang ngập tăng cao vào mùa lũ làm cho hệ sinh thái sông Năng gần hồ Ba Bể thay
đổi, một số loài di chuyển đi nơi khác hoặc một số loài di nhập đến. Để bảo tồn nguồn
gen quý hiếm và phát triển nguồn lợi ở hồ Ba Bể cần nghiêm cấm di nhập các loài cá
lạ vào nuôi, phát triển nuôi và bổ sung các loài quý hiếm bản địa sống tại hồ, tổ chức
lại hình thức quản lý và khai thác trên hồ, quan tâm hơn nữa công tác bảo tồn và phát
triển nguồn lợi.
Từ khóa: Bảo tồn, hiện trạng, hồ tự nhiên, phong phú
17
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA STREPTOCOCCUS AGALACTIAE- TÁC NHÂN
GÂY BỆNH STREPTOCOCCOSIS TRÊN CÁ RÔ PHI Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM
Đồng Thanh Hà, Nguyễn Viết Khuê, Nguyễn Thị Hạnh
Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1
Năm 2009-2010, hiện tượng cá Rô Phi thương phẩm bị chết hàng loạt ở các tỉnh
miền Bắc đã được xác định là do vi khuẩn Streptoccocus sp.Dựa vào các đặc điểm
chính vềhình thái (hiển vi và siêu hiển vi), các đặc điểm sinh hóa và sinh thái,
Streptoccocus sp được phân loại làStreptococcus agalactiae. Nghiên cứu về sinh thái
học cho thấy S. agalactiaelà vi khuẩn phát triển tốt ở nhiệt độ cao, nhiệt độ thích hợp
là 30-370C. Vi khuẩn có khả năng phát triển ở độ mặn 0-35‰, có thể tồn lưu tự do
trong nước ao và bùn đáy từ 3-7 ngày, pH =12 của nước vôi có thể ức chế và tiêu diệt
vi khuẩn này. Bài báo cũng thảo luận về khả năng phát triển của vi khuẩn ở 370C và độ
mặn 35‰ được xem là yếu tố nguy cơ lây nhiễm bệnh cho cá nước lợ và nước mặn
hoặc gây bệnh cho động vật có vú và con người.
Từ khóa: Streptococcus sp., Streptococcus agalactiae, Rô Phi
18
ĐẶC TÍNH PROBIOTIC CỦA MỘT SỐ HỖN HỢP VI KHUẨN PHÂN HỦY
QUORUM SENSING ĐỐI VỚI ẤU TRÙNG CÁ CHẼM VÀ TÔM SÚ
Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh1, Hoàng Thanh Lịch2,
Vũ Hồng Như Yến3, Nguyễn Văn Vũ3, Nguyễn Thảo Sương1,*
1 Phòng Sinh học Thực nghiệm, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
2 Trung tâm Quốc gia giống hải sản Nam Bộ
3 Phân viện Nghiên cứu Thủy sản Minh Hải
* Email: thaosuong_86@yahoo.com.vn
Bốn hỗn hợp vi khuẩn thể hiện đặc tính phân hủy quorum sensing và đối kháng
Vibrio spp. ở điều kiện in vitro đã được thử nghiệm ở qui mô pilot trên ấu trùng tôm sú
và cá chẽm. Kết quả các thí nghiệm trên ấu trùng cá chẽm cho thấy hỗn hợp của hai
chủng vi khuẩn Ch102 và Ch104 thể hiện khả năng nâng cao tỉ lệ sống của ấu trùng cá
chẽm 30 ngày tuổi so với nghiệm thức không bổ sung vi khuẩn (tỉ lệ sống ấu trùng cá
chẽm ở nghiệm thức bổ sung hỗn hợp Ch102 và Ch104 và nghiệm thức không bổ sung
vi khuẩn tương ứng là 30,2% và 16%) (p < 0,05, Tukey test). Tuy nhiên không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về mật độ Vibrio tổng số trong nước giữa các nghiệm
thức. Kết quả các thí nghiệm trên ấu trùng tôm sú cho thấy hỗn hợp của hai chủng vi
khuẩn T303 và T402 thể hiện khả năng nâng cao tỉ lệ sống của ấu trùng giai đoạn
PL13 so với nghiệm thức không bổ sung vi khuẩn (tỉ lệ sống ấu trùng tôm sú ở nghiệm
thức bổ sung hỗn hợp T303 và T402 và nghiệm thức không bổ sung vi khuẩn tương
ứng là 61,9% và 45,8%) (p < 0,05, Duncan test). Ngoài ra ở nghiệm thức bổ sung hỗn
hợp T303 và T402, nhận thấy sự suy giảm một cách rõ rệt mật độ Vibrio tổng số từ
ngày thứ 10 trở đi. Hai hỗn hợp (Ch102, Ch104) và (T303, T402) có thể được tuyển
chọn và thử nghiệm lại ở điều kiện sản xuất trước khi tiến đến thương mại hóa các hỗn
hợp này.
Từ khóa: đối kháng Vibrio; mật độ Vibrio tổng số; phân hủy quorum sensing; qui mô pilot.
19
PERKINSUS SP. VÀ HIỆN TƯỢNG NGHÊU (MERETRIX LYRATA) CHẾT
HÀNG LOẠT TẠI CẦN GIỜ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Hoàng Thị Hiền1, Ngô Thị Ngọc Thủy1,
Nguyễn Văn Hảo1, Tiêu Thanh Tươi1, Nguyễn Vy Vân2
1 Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 2
2 Chi Cục Thú Y Thành Phố Hồ Chí Minh
Từ năm 2007 đến nay, hiện tượng nghêu Meretrix lyrata chết hàng loạt tại Cần
Giờ đã xảy ra liên tục, thường vào mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 5 dương lịch) hàng
năm; tỷ lệ chết đặc biệt cao (70-80%) vào tháng 3-4 dương lịch. Một số nghiên cứu về
nguyên nhân gây chết nghêu Cần Giờ đã được tiến hành và xác định, tuy nhiên,
nguyên nhân chính gây chết nghêu vẫn còn là câu hỏi lớn đối với người nuôi, các nhà
quản lý và các nhà khoa học. Mục tiêu của nghiên cứu này sẽ tìm hiểu về hiện trạng
nuôi và dịch bệnh nghêu; cũng như phân tích, xác định sự hiện diện của ký sinh trùng
Perkinsus sp. trên nghêu nuôi để xác định nguyên nhân gây nên hiện tượng nghêu chết
ở Cần Giờ trong thời gian qua.
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2009 đến tháng 7/2010, thu mẫu định
kỳ 2 đợt/tháng (vào kỳ nước kém) tại 6 điểm nuôi đặc trưng cho vùng nuôi nghêu Cần
Giờ. Tại mỗi điểm thu mẫu sẽ thu mẫu nghêu để phân tích sự hiện diện của Perkinsus
sp.bằng phương pháp nuôi cấy và kỹ thuật mô bệnh học theo hướng dẫn của OIE,
2009 và mẫu nước để đo và phân tích các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ mặn, pH,
mức tiêu hóa oxy hóa học COD và ammonia tổng).
Kết quả phân tích sự hiện diện của Perkinsus sp. đã được xác định trên hơn 4000
con nghêu Meretrix lyrata. và tần suất bắt gặp là 48,3%. Loại ký sinh trùng này xuất hiện
nhiều hơn trên các mẫu nghêu yếu, bệnh (52,9%) và được tìm thấy nhiều hơn ở nghêu
thương phẩm. Chúng ký sinh trên mang, và trên các mô liên kết của nghêu bệnh. Phần lớn
nghêu nhiễm ký sinh trùng Perkinsus sp. không thể hiện dấu hiệu bệnh lý điển hình
(89,4%); ngoài ra một số nhỏ nghêu nhiễm bệnh thể hiện một hoặc một vài dấu hiệu
như: nghêu gầy (1,3%); màng áo có nhiều đốm trắng (4,3%); thịt nghêu biến đổi màu
(màu nâu hoặc màu vàng sẫm) (2,6%); thịt nghêu có nhiều nước (1,3%), vỏ nghêu bị
vôi hóa (1,3%). Những phân tích sâu về mối tương quan giữa sự hiện diện của
20
Perkinsus sp. trên nghêu với các yếu tố môi trường cho thấy chúng có liên quan tới độ
muối cao của môi trường (ANOVA, P<0,05). Cụ thể, chúng xuất hiện nhiều hơn trên
nghêu trong môi trường có độ mặn cao 29,03±4,55‰ và xuất hiện ít ở độ mặn thấp
hơn 27,63±3,68‰. Những nghiên cứu trong báo cáo này cho thấy, ký sinh trùng đơn
bào nội ký sinh Perkinsus sp. lần đầu tiên được xác định có hiện diện trên nghêu
Meretrix lyrata nuôi tại Cần Giờ và chúng là tác nhân gây chết nghêu nuôi tại Cần Giờ
trong điều kiện thời tiết nắng nóng kéo dài (nhiệt độ cao, độ mặn cao).
Từ khóa: Nghêu Meretrix lyrata, Perkinsus, tỷ lệ chết
MỐI QUAN HỆ GIỮA RONG VỚI MỘT SỐ YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG TRONG
AO NUÔI TÔM SÚ QUẢNG CANH TẠI HUYỆN GIANG THÀNH VÀ THỊ XÃ
HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
Trần Tuấn Kiệt, Trịnh Thị Lan
Trường Đại Học An Giang
Nghiên cứu được thực hiện tại thị xã Hà Tiên và huyện Giang Thành tỉnh Kiên
Giang gồm hai phần: phỏng vấn nông hộ và khảo sát sự biến động các yếu tố môi
trường trong ao nuôi tôm quảng canh. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Phần lớn nông hộ
có trình độ học vấn không cao, có 3.3% trình độ trung cấp, 63.3% trình độ cấp 2 và
33.3% trình độ cấp 1. Bên cạnh đó chỉ có 30% số hộ được tập huấn kỹ thuật nuôi, còn
lại 70% số hộ không được tập huấn. Có 3.3% hộ nuôi đạt hiệu quả cao; 80% đạt hiệu
quả trung bình và 16.7% đạt hiệu quả thấp. Đã định danh được 3 loài rong xuất hiện
trong ao nuôi tôm sú là rong Chara sp.; rong Zannichellia palustris L và rong
Caulerpa vertieillata hay rong Cầu lục luân sinh. Khối lượng rong trung bình thu được
là 0.082 kg/m2. Giá trị trung bình của các yếu tố môi trường nước là : pH ( 8.08 ), DO
( 3.1 mg/l); nhiệt độ (29.2 oC); độ trong (49.5 cm); độ sâu (101.7 cm ); độ mặn
(15.5‰); độ kiềm (80.7 mg/l); H2S ( 0.89 mg/l); NH3 ( 0.35 mg/l). Khi phân tích mối
quan hệ giữa các yếu tố môi trường với khối lượng rong chỉ có pH, nhiệt độ, độ kiềm,
NH3 có quan hệ tuyến tính với khối lượng rong.
21
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT THEO CHỈ SỐ WQI
Ở RẠCH CÁI SAO, TỈNH AN GIANG
Trịnh Thị Lan
Trường Đại Học An Giang
Email: ttlan@agu.edu.vn
Nhằm cung cấp cơ sở dữ liệu cho việc quy hoạch, quản lý chất lượng nước các
lưu vực trên địa bàn tỉnh An Giang, đặc biệt là khu vực rạch cái Sao, phục vụ cho các
mục tiêu sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và bảo vệ môi trường, đề tài đánh
giá chất lượng nước mặt theo chỉ số WQI ở rạch Cái Sao, tỉnh An Giang đã được thực
hiện. Đề tài được thực hiện từ tháng 01/2009 đến 12/2009 tại 8 vị trí khảo sát khác
nhau dọc theo tuyến rạch Cái Sao qua 12 đợt thu mẫu. Kết quả nghiên cứu cho thấy
theo cách đánh giá bằng WQI thì tất cả các điểm khảo sát (8 điểm) chất lượng nước
đều đã bị ô nhiễm. Không có điểm nào là chất lượng nước tốt. Điều này cũng phù hợp
với việc đánh giá theo từng thông số (theo cách truyền thống). Đánh giá chất lượng
nước theo không gian thì chỉ số WQI có giá trị từ 15 - 25, giảm dần từ vị trí D1 đến
D8 và đều thuộc phân loại V cho thấy chất lượng nước bị ô nhiễm. Đánh giá chất
lượng nước theo thời gian thì chỉ số WQI có giá trị từ 15 – 23 thì chất lượng nước ở
rạch Cái Sao đều thuộc phân loại nhóm V ở mức đã bị ô nhiễm.
ẢNH HƯỞNG CỦA VACCINE PHÒNG BỆNH GẠN THẬN MỦ (DO
EDWARDSIELLA ICTALURI) LÊN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẠI THỰC BÀO VÀ
SỰ THAY ĐỔI MÔ HỌC TRÊN CÁ TRA PANGASIANODON
HYPOPHTHALMUS
Hồ Phương Phạm Duy Phong, Từ Thanh Dung
Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ
Đề tài được thực hiện nhằm đánh giá tác động của vaccine lên vai trò của đại
thực bào trong đáp ứng miễn dịch và quá trình biến đổi mô học ở cá tra sau khi tiêm
vaccine. Ao thí nghiệm được bố trí tại thành phố Cần Thơ. Ao được ngăn lưới tương
22
ứng với 2 ô chứa cá tiêm vaccine và 2 ô đối chứng. Cá thí nghiệm có trọng lượng từ
28-58g được tiêm vaccine vào xoang bụng với liều lượng nhất định. Mẫu được thu
định kỳ từ tháng 12/2009 đến 4/2010 với tổng số mẫu là 130. Trong đó, có tổng cộng
50 mẫu mô được thu vào thời điểm trước khi tiêm và tháng thứ 2 và 4 sau khi tiêm
vaccine. Tổng số mẫu thận trước được thu là 80 mẫu, định kỳ vào tháng thứ 1, 2, 3 và
4 sau khi tiêm vaccine.
Kết quả phân lập đại thực bào từ thận trước cho thấy qua các tháng tỷ lệ đại
thực bào của cá ở lô tiêm vaccine cao hơn so với lô đối chứng nhưng khác biệt không
có ý nghĩa (P>0,05). Tỷ lệ đại thực bào của cá tại thời điểm xuất hiện bệnh gan, thận
mủ tăng nhanh với tỷ lệ 29,38% ở lô tiêm vaccine và 27,81% ở lô đối chứng và khác
biệt có ý nghĩa so với các tháng còn lại (P<0,05). Tương tự, tỷ lệ đại thực bào mang vi
khuẩn trên cá ở lô tiêm vaccine và lô đối chứng khác biệt không có ý nghĩa (P>0,05).
Tỷ lệ đại thực bào mang vi khuẩn tăng nhanh tại thời điểm cá xuất hiện bệnh gan, thận
mủ với tỷ lệ 4.31% đối với lô tiêm vaccine và 3.56% đối với lô đối chứng, khác biệt có
ý nghĩa thống kê so với các tháng thứ 1, 3 và 4 (P<0,05).
Qua phân tích mô học có thể thấy được gan, thận, tỳ tạng của cá được tiêm
vaccine không bị thay đổi về cấu trúc qua các tháng 0, 2 và 4. Tuy nhiên, tại thời điểm
xuất hiện bệnh gan, thận mủ, cấu trúc của các cơ quan này bị biến đổi như sung huyết,
xuất huyết hay bị hoại tử do sự xâm nhập và tấn công của vi khuẩn gây bệnh. Bên
cạnh đó, ở một số mẫu thành bụng và ruột có chứa vaccine có thể quan sát được hiện
tượng sung huyết và hoại tử.
23
BỘT RONG NÂU SARGASSUM HEMIPHYLUM VAR. CHINENSE TĂNG
CƯỜNG SỨC ĐỀ KHÁNG TRÊN TÔM THẺ CHÂN TRẮNG (LITOPENAEUS
VANANAMEI) CHỐNG LẠI VI KHUẨN VIBRIO ALGINOLYTICUS
Huỳnh Trường Giang1 và Jiann-Chu Chen2
1Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học Cần Thơ (Email: htgiang@ctu.edu.vn)
2Khoa Thuỷ sản, Trường Đại học Hải Dương Quốc gia Đài Loan, Đài Loan.
Ảnh hưởng của các hợp chất polysaccharide ly trích từ rong nâu (Phaeophyta)
lên sự tăng cường miễn dịch trên giáp xác đã được chứng minh. Mục đích của nghiên
cứu này nhằm đánh giá sự khả năng ảnh hưởng của bột rong nâu Sargassum
hemiphylum var. chinense lên sự tăng cường sức đề kháng của tôm thẻ chân trắng
Litopenaeus vannamei chống lại Vibrio alginolyticus. Đối với các chỉ tiêu miễn dịch,
tổng số lượng bạch cầu (THC), số lượng bạch cầu có hạt (HC), hoạt tính enzyme
glutathione peroxidase (GPx), chỉ số thực bào (Phagocytosis activity, PA) được kiểm
tra. Đối với thí nghiệm cảm nhiễm, tôm được ngâm trong nước biển 34 ‰ có chứa bột
rong nâu S. hemiphylum var. chinense ở các nồng độ 0, 100, 300, và 500 mg/L, sau đó
được tôm được tiêm V. alginolyticus ở liều 1,0 × 106 CFU/ tôm. Kết quả cho thấy rằng
các chỉ tiêu miễn dịch chỉ số thực bào PA, hoạt tính enzyme glutathione peroxidase
GPx của tôm khi được ngâm trong nước biển có chứa bột rong biển S. hemiphylum
var. chinense ở nồng độ 500 mg/L gia tăng. Từ đó, làm tăng sức đề kháng và tỉ lệ sống
khi tôm được gây cảm nhiễm với V. alginolyticus trong 120 giờ.
Từ khóa: Litopenaeus vannamei, Sargassum hemiphyllum var. chinense, Vibrio
alginolyticus, glutathione peroxidase.
24
NGHIÊN CỨU VI NẤM NHIỄM TRÊN CÁ LÓC (CHANNA STRIATA)
GIAI ĐOẠN ƯƠNG GIỐNG
Nguyễn Thị Thúy Hằng1, Phạm Minh Đức2
1Học viên ngành Nuôi trồng thủy sản K16
2BM Sinh học và Bệnh thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần thơ
Email: pmduc@ctu.edu.vn
Hiện nay nghề nuôi cá lóc (Channa striata) thâm canh trong ao ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long đang phát triển mạnh cả về diện tích và mức độ thâm canh nên nhu
cầu về cá giống thả nuôi lớn, nhưng trong quá trình ương nuôi cá lóc giống thường gặp
trở ngại về bệnh như nhiễm ký sinh trùng, lở loét phần đuôi và nhiễm vi nấm dẫn đến
tỉ lệ hao hụt cao lên tới 40%. Đặc biệt sự nhiễm vi nấm thường xẩy ra ở giai đoạn
giống. Tuy nhiên, nghiên cứu về bệnh này chưa được thực hiện. Vì vậy, mục tiêu của
nghiên cứu nhằm xác định được thành phần giống loài vi nấm nhiễm trên cá lóc giai
đoạn giống và đánh giá khả năng nhiễm bệnh của vi nấm. Để đạt được mục tiêu trên
đề tài được thực hiện gồm các nội dung sau: i) Thu mẫu, quan sát dấu hiệu bệnh lý và
tiêu bản tươi để xác định sự hiện diện của vi nấm; ii) Phân lập và định danh vi nấm
nhiễm trên cá lóc giống; iii) Thí nghiệm cảm nhiễm để xác định khả năng gây bệnh
của vi nấm. Trong quá trình nghiên cứu tiến hành thu 68 mẫu cá bệnh với dấu hiệu
bệnh lý như bơi lờ đờ trên mặt nước, da xuất hiện vùng trắng xám với những sợi nấm
tạo thành những búi trắng như bông ở ao ương nuôi tại Tam Nông Tỉnh Đồng Tháp từ
tháng 1-4 năm 2011. Tất cả cá bệnh đều được lấy mẫu quan sát tiêu bản tươi và phân
lập vi nấm tại Bộ môn Sinh học và Bệnh thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học
Cần thơ. Vi nấm được nuôi trên môi trường GYA, ủ ở 28 ºC trong thời gian 3 ngày.
Các chủng nấm thuần được định danh dựa trên đặc điểm hình thái như đặc điểm khuẩn
lạc, sợi nấm, túi động bào tử, hình dạng động bào tử, quá trình hình thành và sinh sản
vô tính và căn cứ theo khoá phân loại của Coker (1923). Kết quả nghiên cứu cho thấy
100% mẫu cá lóc giống bị bệnh khi quan sát tiêu bản tươi đều có sự hiện diện của vi
nấm bậc thấp vì sợi nấm không có vách ngăn. Kết quả phân lập cho thấy giống nấm
bậc th ấp Achlya nhiễm trên cá lóc bị bệnh. Nghiên cứu cũng đã xác định được khả
năng gây bệnh của vi nấm bậc thấp này thông qua thí nghiệm cảm nhiễm, cá lóc giống
25
có tiêm động bào tử có dấu hiệu bệnh lý giống như ngoài ao ương, như vậy có thể kết
luận vi nấm bậc thấp Achlya sp. VN1101 nhiễm trên cá lóc giai đoạn giống.
Từ khóa: Cá lóc giống, nhiễm vi nấm, Achlya
ĐẶC ĐIỂM BỆNH HỌC CỦA VI KHUẨN GÂY BỆNH TRẮNG ĐUÔI TRÊN
CÁ TRA (PANGASIANODON HYPOPHTHALMUS) Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG
Nguyễn Thị Tiên, Từ Thanh Dung, Nguyễn Anh Tuấn
Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định tác nhân gây bệnh và đặc điểm bệnh
học trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) bệnh trắng đuôi ở 2 tỉnh Đồng Tháp
và Cần Thơ. Nghiên cứu này đã xác định Flavobacterium columnare là tác nhân gây
bệnh trắng đuôi trên cá tra. Kết quả này dựa trên dấu hiệu bệnh lý cá bệnh, kiểm tra
đặc điểm hình thái và sinh hóa của 83 chủng vi khuẩn phân lập từ cá tra bệnh trắng
đuôi …. Đồng thời dựa trên kết quả xác định khả năng gây bệnh, đặc điểm mô học
Cá tra bệnh trắng đuôi có biểu hiện đặc trưng như: cá mất nhớt, có vệt trắng
trên thân, đuôi bị ăn mòn, mang xám nhạt, Quan sát mẫu tươi dưới kính hiển vi, vi
khuẩn này biểu hiện di động dạng trượt. Các chủng vi khuẩn được phân lập trên môi
trường Cytophaga agar cho khuẩn lạc có sắc tố vàng, dạng rễ sau 48 giờ ở 28oC. Quan
sát tế bào vi khuẩn khi nhuộm Gram có dạng hình que mảnh, dài và thuộc vi khuẩn
Gram âm. Vi khuẩn này có khả năng hấp thu congo red, tạo sắc tố vàng nâu từ phản
ứng flexirubin, thủy phân gelatin, tạo nitrite từ nitrate nhưng không có khả năng tạo
axit từ các loại đường, âm tính với u-rê.
Hai chủng vi khuẩn F. columnare (FC-CT2) và (FC-HN2) được sử dụng cho thí
nghiệm cảm nhiễm xác định độc lực. Tổng số 210 cá khỏe (3-6 gram) được bố trí thí
nghiệm gây cảm nhiễm với 4 lô (nghiệm thức). Trong đó, 3 lô lần lược ngâm cá trong
dung dịch vi khuẩn với mật độ 107 cfu/ml, 106 cfu/ml và 105 cfu/ml. Thí nghiệm có 1lô
đối chứng ngâm trong cá trong môi trường sạch không có vi khuẩn. Mỗi nghiệm thức
26
lặp lại 2 lần. Kết quả cho thấy giá trị độc lực LD50-60h của chủng FC-HN2 là 4,27x105
cfu/ml cao hơn chủng FC-CT2 là 1,66x106 cfu/ml. Kết quả quan sát mô học với 2
phương pháp nhuộm là Haematocylin & Eosin và Giemsa đã tìm thấy từng đám vi
khuẩn dạng sợi mảnh ở mô da, cơ, mang và gan.
Từ khóa: Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus), vi khuẩn Flavobacterium
columnare, định danh và bệnh học
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG XỬ LÝ ĐẠM, LÂN TRONG MÔI TRƯỜNG NUÔI TÔM
SÚ (PENAEUS MONODON) CỦA CÂY NĂNG TƯỢNG (SCIRPUS LITTORALIS)
Phạm Thanh Tùng, Nguyễn Trường An,
Trần Ngọc Hải, Trương Hoàng Minh
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Nhằm đánh giá khả năng hấp thu đạm, lân trong môi trường nuôi tôm sú của
cây năn tượng, nghiên cứu được thực hiện tại khoa Thủy Sản, trường ĐHCT từ tháng
8-12/2010. Thí nghiệm được bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên, với 3 nghiệm thức và 3
lần lặp lại ở mỗi nghiệm thức với tỷ lệ sinh khối tôm sú:năn tượng là 1:1, 1:3, 1:5 và
01 nghiêm thức đối chứng (1:0). Tôm được bố trí nuôi ở mật độ 20 con/m2 (15,6
g/con). Sinh khối năn được bố trí tương ứng với 3 tỷ lệ nêu trên. Các chỉ tiêu pH, nhiệt
độ và độ mặn được theo dõi hàng ngày (sáng & chiều). Các chỉ tiêu đạm, lân trong
nước được đo đạc định kỳ 2 tuần/lần. Riêng các chỉ tiêu đạm, lân trong bùn đáy được
đo đạc ở giai đoạn đầu và kết thúc thí nghiệm. Thức ăn viên (35% đạm) được sử dụng
trong thí nghiệm này. Sinh trưởng của tôm cũng được theo dõi. Kết quả cho thấy, cây
năn tượng có khả năng hấp thu rất tốt đạm, lân trong nước và bùn đáy của bể nuôi tôm.
Hiệu quả xử lý nitrite trong nước thải ở 3 nghiệm thức là 96,6%, 97,1% và 98,9%;
tổng đạm (TN) trong nước giảm từ 89-89,9%; tổng lân (TP) trong nước giảm từ 52,2-
54,4%. Có sự khác biệt đáng kể về hàm lượng TN và TP trong nước và đất giữa đầu
vào và đầu ra trong thí nghiệm (P<0,05). Tỷ lệ sống của tôm trong thí nghiệm đạt 61,1
- 66,7%. Tốc độ tăng trưởng đặc biệt của tôm là 0,86 - 0,94%/ngày. Nhìn chung, cây
27
năn tượng có khả năng xử lý tốt môi trường nước và bùn đáy trong nuôi tôm sú. Tỷ lệ
sinh khối 1 tôm: 5 năn có hiệu quả xử lý nước là tốt nhất.
Từ khóa: Tôm sú, năn tượng, xử lý, đạm, lân, môi trường
ẢNH HƯỞNG TỈ LỆ C/N ĐẾN SẢN LƯỢNG TRỨNG BÀO XÁC TRONG AO
NUÔI ARTEMIA
Trần Nguyễn Hải Nam, Wang Jing, Nguyễn Văn Hòa
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Thí nghiệm được tiếp tục từ kết quả của nghiên cứu trước (Ronald, 2010): Bổ sung
nguồn thức ăn có Carbohydrate cao từ bột sắn và phân heo theo tỉ lệ C/N = 10:1 giúp làm
tăng tỉ lệ sống, tăng trưởng, và năng suất trứng bào xác Artemia trong điều kiện nuôi trên
ruộng muối. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức, mỗi nghiệm
thức có 3 lần lặp lại, mật độ Artemia được thả nuôi là 100 nauplii/lít. Lượng bột sắn và
phân heo được bổ sung ở nghiệm thức đối chứng (NT1) theo tỉ lệ C/N=10:1. Sau đó cộng
thêm lượng bột sắn và phân heo vào lần lượt bằng với 10%; 15%; 20% lượng bột sắn và
phân heo đã sử dụng ở NT đối chứng cho NT 2; NT 3; và NT 4.
Kết quả cho thấy NT 3 (C/N=10:1 + 15%) cho sức sinh sản cao nhất so với các
nghiệm thức còn lại. Việc bổ sung 10%; 15%; 20% lượng bột sắn và phân heo vào NT
đối chứng (ở NT 2; NT 3; và NT 4) cho năng suất trứng bào xác lần lượt là: 35.361
kg/ha/vụ; 32.571 kg/ha/vụ và 32.085 kg/ha/vụ cao hơn hẳn so với nghiệm thức đối
chứng (C/N=10:1) (11.288 kg/ha/vụ). Tuy nhiên chưa có sự khác biệt về năng suất
trứng bào xác giữa các nghiệm thức có bổ sung bột sắn (NT2, NT3, và NT4). Chưa tìm
thấy sự khác biệt về tỉ lệ sống giữa NT đối chứng và các NT có bổ sung 10%; 15%;
20% lượng bột sắn và phân heo.
Từ kết quả trên ta thấy việc bổ sung nguồn thức ăn giàu Carbohydrate với
C/N=10:1 + 15% (NT3) sẽ giúp tăng sức sinh sản và năng suất trứng bào xác Artemia
nuôi trên ruộng muối.
Từ khóa: tỉ lệ C/N, năng suất trứng bào xác Artemia, sức sinh sản, bột sắn, phân heo.
28
ẢNH HƯỞNG CỦA THUỐC TRỪ SÂU HOẠT CHẤT QUINALPHOS ĐẾN HOẠT
TÍNH MEN CHOLINESTERASE VÀ GLUTATHIONE-S-TRANSFERASES CỦA
CÁ CHÉP (CYPRINUS CARPIO)
Nguyễn Quang Trung, Đỗ Thị Thanh Hương
Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ
Thuốc trừ sâu được sử dụng ngày càng phổ biến trong sản xuất lúa để khống
chế dịch bệnh; và dư lượng của thuốc có thế ảnh hưởng đến sức khỏe thủy sinh vật
nhất là cá và giáp xác. Sử dụng hoạt tính của men (enzyme) trong cá nhất là những loài
nuôi phổ biến trên ruộng như cá chép, mè vinh,… để làm chất chỉ thị cho sự ô nhiễm
thuốc trừ sâu là xu hướng mới. Nghiên cứu được thực hiện với hai thí nghiệm. Thí
nghiệm thứ nhất là xác định giá trị LC50-96 giờ của thuốc trừ sâu hoạt chất quinalphos
lên cá chép (Cyprinus carpio) cỡ giống. Thí nghiệm được thực hiện với 7 nồng độ
thuốc là 0; 0,2; 0,5; 0,8; 1,1; 1,5 và 1,8 mg/L, mật độ cá thí nghiệm là 10 con/bể 50 L,
3 lần lập lại trong thời gian 96 giờ và áp dụng phương pháp nước tỉnh không thay
nước. Thí nghiệm thứ hai là xác định sự ảnh hưởng của các nồng độ dưới ngưỡng gây
chết của quinalphos đến những thay đổi hoạt tính men Cholinesterase (ChE) và
Glutathion-S-Transferase của cá chép (Cyprinus carpio). Thí nghiệm được thực hiện
với 4 nồng độ là 0; 0,076; 0,152 và 0,380 mg/L, mật độ cá thí nghiệm là 15 con/bể bể
kính 60 L nước, mỗi nồng độ được lập lại 3 lần, và thời gian thí nghiệm là 28 ngày.
Kết quả thí nghiệm đã xác định được giá trị LC50-96 giờ của thuốc trừ sâu hoạt chất
quinalphos đối với cá chép là 0,76 mg/L. Quinalphos làm giảm có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) về hoạt tính men cholinesterase (ChE) ở não, cơ và mang ở tất cả các nồng độ
thuốc so với đối chứng. Mức độ ức chế hoạt tính ChE tăng theo sự tăng của nồng độ
thuốc. Trong khi đó, quinalphos không làm thay đổi có ý nghĩa thống kê (p>0,05) về
hoạt tính của men Glutathione-s-transferases (GST) ở não, cơ và mang của cá trong
thời gian thí nghiệm. Kết quả nghiên cứu cho thấy não cá chép là cơ quan nhạy cảm
nhất khi tiếp xúc với quinalphos. Mức độ ức chế hoạt tính ChE ở não có thể sử dụng
để đánh giá mức độ nhiễm thuốc trừ sâu gốc lân hữu cơ trên đồng ruộng.
Từ khóa: quinalphos, cá chép (Cyprinus carpio), Cholinesterase, glutathione-s-
transferases
29
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ PHẨM SINH HỌC (PROBIOTICS) LÊN KHẢ NĂNG
SINH TRƯỞNG, TỶ LỆ SỐNG, SỰ XUẤT HIỆN BỆNH CỦA CÁ NGỰA ĐEN
(HIPPOCAMPUS KUDA) NUÔI TRONG BỂ VÀ CHẤT LƯỢNG NƯỚC
Từ Thị Tuyết Nga1, Thượng Đình Tâm2, Hoàng Tùng1
1 Khoa Công Nghệ Sinh Học – Trường Đại Học Quốc Tế
2 Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III
Nghiên cứu này nhắm đánh giá ảnh hưởng của các chế phẩm sinh học đang
được bán trên thị trường tới khả năng sinh trưởng, tỷ lệ sống, sự xuất hiện bệnh của cá
ngựa đen nuôi trong bể và chất lượng nước. Hai loại chế phẩm sinh học có tên là PC-1
super Probiotics Pure và Water Probiotech-S được sử dụng với liểu lượng lần lượt là
1g/m3 và 4g/m3 3 ngày 1 lần cho cá bể nuôi cá ngựa đen giống bắt đầu từ giai đoạn 8 ÷
10 mm. Nghiệm thức (i) áp dụng PC-1 super Probiotics Pure, nghiệm thức (ii) áp
dụng Water Probiotech-S và nghiệm thức (iii) không áp dụng chế phẩm sinh học. Kết
quả thí nghiệm cho thấy, nồng độ NH4+/NH3 đo được thấp nhất ở nghiệm thức (i)
(0.0377 mg/L) và cao nhất ở nghiệm thức (iii) (0.0429 mg/L). Nồng độ NO2- , được
tạo thành do quá trình nitrat hóa của bỡi 2 nhóm vi khuẩn Nitrosomonas và Nitrobacter
có trong chế phẩm sinh học, đo được ở nghiệm thức (i) và (ii) thấp hơn so với nghiệm
thức (iii). Sau 6 tuần thí nghiệm, tỷ lệ sống của cá ở nghiệm thức (i) là (94.58±2.10
%), ở nghiệm thức (ii) là 85.83±2.15%, cao hơn đáng kể (P<0.05) so với nghiệm thức
(iii) (73.75±3.69 %). Sự sinh trưởng tương đương nhau giữa 2 nghiệm thức có sử dụng
chế phẩm sinh học (0.75±0.01 mm/ngày về chiều dài, 8.5±0.54 mg/ngày về cân nặng),
cao hơn so với nghiệm thức (iii) (0.71±0.04 mm/ngày về chiều dài, 7.75±0.87
mg/ngày về cân nặng). Vào tuần cuối của thí nghiệm, số khuẩn lạc vibrio cao nhất
được tìm thấy ở nghiệm thức 3 (99±18 cfu/ml, P<0.05) cho thấy rằng cá ngựa nuôi
không áp dụng chế phẩm sinh học có khả năng nhiễm bệnh do vibrio cao hơn so với cá
ngựa nuôi có áp dụng chế phẩm sinh học.
Từ khóa: chế phẩm sinh học, cá ngựa đen
30
SỬ DỤNG b-GLUCAN ĐỂ KIỂM SOÁT BỆNH ĐỐM TRẮNG TRÊN TÔM
CHÂN TRẮNG LITTOPENAEUS VANAMEI (BOONE, 1931)
Tang ThanhChi 1, M. Corteel, Tu, Huynh Thi,
Nauwinck, H., Sorloos, P., Mathieu, W.
1DĐ: 0985951442, email: thanhchitang@gmail.com
Trong thí nghiệm, chúng tôi đánh giá hiệu quả của việc sử dụng các chất chống
lại virus được thêm vào khầu phần ăn của tôm he chân trắng Litopenaeus vannamei.
Sáu nghiệm thức được thiết lập, mỗi nghiệm thức gồm 30 cá thể tôm chân trắng.
Trong đó, 4 nhóm tôm được cho ăn riêng lẻ với 4 loại biệt chất kháng virus: 3 nhóm
được cho ăn trước 2 tuần với thức ăn có trộn VP28vac1, VPvac2 và b-glucan; 1 nhóm
được cho ăn bằng thức ăn có trộn Syn-pep trước 2 ngày. Sau đó, cả 4 nhóm tôm được
cảm nhiễm bằng cách tiêm virus đốm trắng (dòng được phân lập từ Việt Nam) với liều
lượng chuẩn 30 SID50. Mỗi nhóm tôm được nuôi trong 3 bể tuần hoàn 50L (10 cá
thể/bể). Tôm trong 2 nghiệm thức đối chứng được cho ăn bằng thức ăn viên bình
thường, trong đó, nghiệm thức đối chứng dương gồm 30 cá thể cũng được cảm nhiễm
virus bằng phương pháp tiêm, nhóm đối chứng âm được tiêm bằng dung dịch wPBS.
Nhiệt độ nước được duy trì trong khoảng 27 ± 1oC. Những con tôm chết được thu 3
lần/ngày sau đó đem đi phân tích bằng phương pháp kháng thể huỳnh quang để xác
nhận sự cảm nhiễm bệnh đốm trắng
Những dấu hiệu bệnh lý và mức độ cảm nhiễm được so sánh giữa các nghiệm
thức. Kết quả thí nghiệm cho thấy thời gian chết trung bình của nhóm đối chứng
dương là 146 giờ sau cảm nhiễm (hpi). Không có sự khác biệt lớn hoặc sự khác biệt rất
nhỏ về thời gian chết trung bình khi so sánh nhóm đối chứng dương với các nhóm
được cung cấp VP28vac1, VP28vac2 và Syn-pep. Tuy nhiên, có sự khác biệt có ý
nghĩa về mặt thống kê (p <0.05) khi so sánh thời gian chết trung bình của nhóm tôm
cho ăn b-glucan (211 hpi) với nhóm đối chứng dương. b-glucan giúp cho tôm kéo dài
tuổi thọ lâu hơn 50% so với nhóm đối chứng dương. Nghiên cứu chỉ ra tiềm năng sử
dụng b-glucan để kiểm soát bệnh đốm trắng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Moi truong.pdf