Tài liệu Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học tiếng việt cho học viên quốc tế tại học viện kỹ thuật quân sự - Ngô Thị Thu Hà: Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYấN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Mục lục Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mụ hỡnh du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lúng trong truyện về đề tài giỏo dục của Văn Thành Lờ 9
Ngụ Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Võn - Vài nột về cỏc phương thức thể hiện tỡnh vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - í thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thụng
qua những nhõn vật nữ trong tập truyện Khụng ai qua sụng 21
Đặng Thị Thựy, Nguyễn Diệu Thương - Lụ gớch của cỏc hiện tượng “phi lụ gớch” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhõn tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phỳng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vỡ Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thỏi ở ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học tiếng việt cho học viên quốc tế tại học viện kỹ thuật quân sự - Ngô Thị Thu Hà, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 183, số 07, 2018
Tập 183, Số 07, 2018
T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN – KINH TẾ
Môc lôc Trang
Hoàng Thị Phương Nga - Mô hình du lịch văn học “Làng Vũ Đại ngày ấy” 3
Phạm Thị Thu Hoài, Trần Thị Thanh - Tiếng lóng trong truyện về đề tài giáo dục của Văn Thành Lê 9
Ngô Thị Thanh Nga, Phạm Thị Hồng Vân - Vài nét về các phương thức thể hiện tình vợ chồng trong văn
học trung đại Việt Nam 15
Nguyễn Thị Thắm, Nguyễn Minh Sơn - Ý thức đối thoại của Nguyễn Ngọc Tư với văn học truyền thống thông
qua những nhân vật nữ trong tập truyện Không ai qua sông 21
Đặng Thị Thùy, Nguyễn Diệu Thương - Lô gích của các hiện tượng “phi lô gích” trong ca dao, tục ngữ
người Việt 27
Đinh Thị Giang - Những nhân tố ảnh hưởng đến lối sống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay 33
Nguyễn Diệu Thương, Nguyễn Thị Lan Hương - Phương thức tạo hàm ý trong tiểu phẩm trào phúng 39
Nguyễn Thu Quỳnh, Vì Thị Hiền - Từ ngữ chỉ đồ gia dụng trong tiếng Thái ở tỉnh Điện Biên 45
Nguyễn Thị Thu Oanh, Hoàng Thị Mỹ Hạnh - Vị thế, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1975 và một số bài học kinh nghiệm 51
Đỗ Hằng Nga, Phạm Quốc Tuấn - Việc thu thuế trong làng xã qua tư liệu hương ước cải lương tỉnh Thái Nguyên 57
Lê Văn Hiếu - Hiệu quả hoạt động của mô hình “ban tuyên vận” xã, phường, thị trấn và “tổ tuyên vận” thôn, bản, tổ
dân phố ở tỉnh Lào Cai trong giai đoạn hiện nay 63
Thái Hữu Linh, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thanh Hà - Vai trò của hậu phương Bắc Thái trong cuộc
tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 69
Phạm Anh Nguyên - Sức hấp dẫn trong Hài đàm của Phan Khôi 73
Nguyễn Thị Hường, Nguyễn Thị Mão, Nguyễn Tuấn Anh - Nâng cao hiệu quả tổ chức các hoạt động ngoại
khoá trong dạy học môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên hiện nay 79
Nguyễn Văn Dũng, Đào Ngọc Anh - Thực trạng thể chất của sinh viên không chuyên thể dục thể thao Trường
Đại hoc Sư phạm – Đại học Thái Nguyên 85
Trần Bảo Ngọc, Lê Ngọc Uyển, Bùi Thanh Thủy và cs - Thực trạng xếp loại tốt nghiệp sinh viên diện cử
tuyển ở trường Đại học Y Dược – Đại học Thái Nguyên giai đoạn 2013-2017 91
Nguyễn Thúc Cảnh - Nghiên cứu xây dựng hệ thống bài tập có nội dung thực tế trong giảng dạy cơ học cho
học sinh trung học phổ thông 97
Hà Thị Kim Linh, Chu Thị Bích Huệ - Giáo dục kiến thức pháp luật cho phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở huyện
Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên 105
Nguyễn Thị Thanh Hồng, Nguyễn Thị Khánh Ly, Vũ Kiều Hạnh - Tăng cường sự tham gia của sinh viên
vào các hoạt động học tiếng Anh trong lớp học đông nhiều trình độ của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Y Dược – Đại học Thái Nguyên 111
Phạm Thị Huyền, Vũ Thị Thủy - Vận dụng phong cách nêu gương theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng
phong cách làm việc đối với cán bộ chủ chốt ở nước ta hiện nay 117
Đàm Quang Hưng - Thiết kế bài học khoa học lớp 4, lớp 5 theo hướng tìm tòi thực nghiệm 123
Hoàng Thị Thu Hoài - Những khó khăn trong việc dạy và học từ vựng tiếng Anh chuyên cho sinh viên chuyên
ngành điều dưỡng, trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên và một số giải pháp đề xuất 129
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Nguyễn Lan Hương, Văn Thị Quỳnh Hoa - Những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng nói tiếng Anh của sinh
viên năm thứ nhất trường Đại học Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 135
Vũ Kiều Hạnh - Những yếu tố quyết định đến mức độ đọc hiểu của sinh viên năm thứ hai tại trường Đại học
Nông Lâm – Đại học Thái Nguyên 141
Nguyễn Thị Quế, Hoàng Thị Nhung - Hỏi đúng để tự học và học tập cộng tác thành công – hướng tới xây
dựng người học ngoại ngữ độc lập trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế 147
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu - Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực nhằm nâng cao chất
lượng dạy – học tiếng Việt cho học viên quốc tế tại Học viện Kỹ thuật Quân sự 153
Dương Văn Tân - Đánh giá hiệu quả áp dụng trò chơi vận động trong phát triển thể lực chung cho sinh viên
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – Đại học Thái Nguyên 159
Bùi Thị Hương Giang - Nâng cao năng lực giao tiếp giao văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ 165
Trần Hoàng Tinh, Nông La Duy, Phạm Văn Tuân - Xây dựng trung đội tự quản trong quản lý giáo dục tính
kỷ luật cho sinh viên tại trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh trong giai đoạn hiện nay 171
Trần Thị Yến, Khổng Thị Thanh Huyền - Sử dụng hình thức đọc chuyên sâu để nâng cao khả năng viết học
thuật cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh 177
Đỗ Thị Hồng Hạnh, Hoàng Mai Phương - Đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn huyện Chợ Mới,
tỉnh Bắc Kạn 183
Trần Thùy Linh, Trần Lương Đức, Nguyễn Thị Thùy Trang - Cách tiếp cận của pháp luật cạnh tranh liên
minh châu Âu về hành vi lạm dụng mang tính trục lợi 189
Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Việt Hương - Xây dựng bộ tiêu chí và chỉ số kinh tế phù hợp để đánh giá quản
lý rừng bền vững ở huyện Định Hóa 195
Đinh Thị Hoài - Truyền thông marketing sản phẩm và dịch vụ thông tin - thư viện tại Trung tâm Học liệu Đại
học Thái Nguyên 201
Nguyễn Thị Thanh Xuân - Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng sử dụng dịch vụ
khách sạn tại Thanh Hóa, Việt Nam 207
Dương Thị Tình - Đóng góp của xuất khẩu hàng hóa tới tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái 213
Lê Minh Hải, Trần Viết Khanh - Phân tích tổ chức không gian lãnh thổ du lịch tỉnh Thái Nguyên 219
Hà Văn Vương - Vận dụng lý thuyết Ecgônômi trong tổ chức môi trường làm việc tại văn phòng chi nhánh may
Sông Công II - Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG 227
Mai Anh Linh, Nguyễn Thị Minh Anh - Đánh giá chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng: nghiên
cứu thực nghiệm tại siêu thị Lan Chi, Thái Nguyên 233
Đinh Hồng Linh, Nguyễn Thu Nga, Nguyễn Thu Hằng - Sử dụng hàm Loga siêu việt để đánh giá hiệu quả
kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam 239
Ngô Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 153 - 158
153
ỨNG DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY – HỌC TIẾNG VIỆT
CHO HỌC VIÊN QUỐC TẾ TẠI HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ
Ngô Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Hoài Thu*
Học viện Kỹ thuật Quân sự
TÓM TẮT
Dạy học tích cực, dạy học tương tác hay phương pháp giáo dục chủ động trở thành mối quan tâm
sâu sắc và rộng rãi đối với các nhà giáo dục ở khắp mọi nơi trong mọi lĩnh vực đào tạo. Nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ tại Học viện Kỹ thuật Quân sự các giáo viên ngoại ngữ
luôn tìm tòi và ứng dụng các phương pháp giảng dạy mới. Đặc biệt việc dạy - học theo phương
pháp giảng dạy tích cực đã đem lại hứng thú cho người học, nâng cao chất lượng học ngoại ngữ.
Đối với học viên Lào, Campuchia với tính cách nhút nhát, ngại giao tiếp thì phương pháp giảng
dạy tích cực đã giúp tạo tâm lý thoải mái, tự tin và chủ động trong việc tiếp thu kiến thức trên lớp
cũng như ở nhà khi học môn tiếng Việt như một ngoại ngữ.
Từ khóa: phương pháp, tích cực, chủ động, chất lượng, giao tiếp.
MỞ ĐẦU *
Dạy học tích cực, dạy học tương tác hay
phương pháp giáo dục chủ động trở thành mối
quan tâm sâu sắc và rộng rãi đối với các nhà
giáo dục ở khắp mọi nơi trong mọi lĩnh vực
đào tạo. Nhà triết lý người Anh Charles
Handy từng nói: “Để làm cho tương lai trở
thành hiện thực, chúng ta cần phải tự tin và
tin tưởng vào giá trị của chính mình. Đó là
điều mà các trường học phải dạy cho mọi
người” [1]. Sự chủ động, tự tin và khả năng
tương tác tốt của người học giúp tạo dựng
một nhân lực tích cực cho đất nước. Tính tích
cực trở thành yêu cầu đặc biệt quan trọng đối
với quá trình dạy - học ngoại ngữ.
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngoại
ngữ tại Học viện Kỹ thuật Quân sự các giáo
viên ngoại ngữ luôn tìm tòi và ứng dụng các
phương pháp giảng dạy mới. Trong khoảng 5
năm gần đây phong trào giảng dạy theo
phương pháp tích cực được triển khai rộng rãi
ở tất cả các môn học. Đặc biệt việc dạy - học
theo phương pháp giảng dạy tích cực đã đem
lại hứng thú cho người học, nâng cao chất
lượng học ngoại ngữ. Đối với học viên Lào,
Campuchia với tính cách nhút nhát, ngại giao
tiếp thì phương pháp giảng dạy tích cực đã
giúp tạo tâm lý thoải mái, tự tin và chủ động
* Tel:0975515161; Email:tuanh250208@gmail.com
trong việc tiếp thu kiến thức trên lớp cũng
như ở nhà khi học môn tiếng Việt như một
ngoại ngữ.
NỘI DUNG
Một số khái niệm
Tính tích cực
Về thuật ngữ, theo tiếng Latinh, tính tích cực
là “actives”, tiếng Anh có nghĩa là “activity”
dùng để chỉ: trạng thái hoạt động, khi tính tích
cực gắn liền với hoạt động [2]. Theo từ điển
tiếng Việt, tích cực là có ý nghĩa, có tác dụng
khẳng định thúc đẩy sự phát triển [3]. Dưới
góc nhìn của các triết gia Platon, Aristoles thì
tính tích cực là thuộc tính chung của vật chất,
tạo thành sự tự vận động của vật chất. Tính
tích cực thể hiện trong sự tác động thay đổi
các khách thể, các vật thể có quan hệ tương
tác với mình.
Có thể hiểu, tính tích cực là một phẩm chất
vốn có của con người trong đời sống xã hội.
Khác với động vật, con người không chỉ tiêu
thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn
chủ động, bằng lao động, sản xuất ra những
của cải vật chất cần cho sự tồn tại của xã hội,
sáng tạo ra nền văn hóa ở mỗi thời đại. Hình
thành và phát triển tính tích cực xã hội đã là
củng cố một trong các nhiệm vụ chủ yếu của
giáo dục nhằm đào tạo những con người năng
động, thích ứng và góp phần phát triển cộng
Ngô Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 153 - 158
154
đồng. Có thể xem tính tích cực như là một điều
kiện đồng thời là một kết quả của sự phát triển
nhân cách trong quá trình giáo dục. Nhờ tính
tích cực tự giác con người có thể đạt được
nhiều tiến bộ nhanh hơn tính tích cực tự phát.
Tính tích cực trong hoạt động dạy - học
Phương pháp tích cực là khái niệm dùng để
chỉ những phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của người học.
Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt
động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức
của người học nghĩa là tập trung vào phát huy
tính tích cực của người học chứ không phải là
tập trung vào người dạy.
Đặt nền móng đầu tiên cho cơ sở của lý luận
về phương pháp giảng dạy tích cực có thể kể
đến các nhà sư phạm Nga như: L.C Vưigoski,
D.B.Verbixcovo, A.M Xmolkina... Theo quan
điểm của A.M Xmolkina Phương pháp giảng
dạy tích cực là phương pháp tích cực hóa hoạt
động học tập và nhận thức của người học,
thúc đẩy người học hướng tới những hoạt
động tích cực trong suy nghĩ và thực tiễn của
quá trình nắm ngôn ngữ, phương pháp này
đòi hỏi không chỉ sự tích cực của người dạy
mà cả người học [4].
Khác với các phương pháp truyền thống khi
người thầy là trung tâm của quá trình dạy học,
người học tiếp thu thụ động thì phương pháp
giảng dạy tích cực là sự dịch chuyển lấy
người học là trung tâm, người học - đối tượng
của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của
hoạt động "học" – được cuốn hút vào các hoạt
động học tập do giảng viên tổ chức và chỉ
đạo, thông qua đó tự lực khám phá những
điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động
tiếp thu những tri thức đã được giảng viên sắp
đặt. Được đặt vào những tình huống của đời
sống thực tế, người học trực tiếp quan sát,
thảo luận, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách
suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức
kỹ năng mới, vừa nắm được phương pháp
"làm ra" kiến thức, kỹ năng đó, không rập
theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và
phát huy tiềm năng sáng tạo.
Những dấu hiệu đặc trưng và nguyên tắc
xây dựng giờ học tích cực
Những dấu hiệu đặc trưng của giờ dạy –
học tích cực
Thứ nhất là tính tích cực trong dạy-học thông
qua các hoạt động của học sinh trên lớp:
Trong phương pháp tích cực, người học, đối
tượng của hoạt động dạy, đồng thời là chủ thể
của hoạt động học, được cuốn hút vào các
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức.
Thông qua đó chủ động khám phá những điều
mình chưa biết chứ không phải là thụ động
tiếp thu những kiến thức đã được giáo viên
sắp đặt ra theo cách suy nghĩ của mình. Từ
đó, vừa nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa
nắm được phương pháp tìm ra kiến thức, kĩ
năng đó, không rập theo khuôn mẫu có sẵn,
được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Thứ hai là tính tích cực trong việc rèn luyện
phương pháp tự học ngoài giờ học trên lớp:
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện
phương pháp học tập cho người học không
chỉ là biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
mà còn là một mục tiêu học tập. Trong
phương pháp học thì vấn đề trọng tâm là
phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người
học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen,
ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ có được lòng
ham học, khơi dậy sức mạnh bên trong vốn có
của mỗi người, kết quả học tập sẽ được nhân
lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay, người ta nhấn
mạnh hoạt động học trong quá trình dạy học,
nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ
động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát
triển tự học, không chỉ tự học ở nhà mà cả tự
học ngay cả trong tiết học có sự hướng dẫn
của giáo viên.
Thứ ba là tính tích cực qua việc tăng cường
khả năng tự học phối hợp với các hoạt động
tương tác trên lớp học của học viên: Nếu trình
độ kiến thức tư duy học sinh không thể đồng
đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp
tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hóa về
cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học
tập, nhất là khi bài học được thiết kế thành
một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng phương
pháp ở trình độ càng cao thì sự phân hóa càng
lớn. Việc sử dụng các phương tiện công nghệ
Ngô Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 153 - 158
155
thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu
cá thể hóa học tập theo nhu cầu và khả năng
của mỗi học sinh. Tính đến vấn đề này, người
dạy phải có đánh giá, xếp nhóm người học
theo trình độ thì hoạt động tích cực mới có
hiệu quả.
Thứ tư là quá trình kiểm tra đánh giá kết hợp
đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò:
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không
chỉ nhằm mục đích nhận nắm được thực trạng
để điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn
giúp điều chỉnh hoạt động dạy của thầy sao
cho phù hợp. Trước đây, mọi người vẫn
thường hay có quan niệm giáo viên có độc
quyền đánh giá học sinh. Nhưng trong
phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng
dẫn học sinh tự đánh giá để điều chỉnh cách
học. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt
động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành
đạt trong cuộc sống mà mỗi thầy cô cũng như
nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Với phương pháp này, giáo viên trở thành
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt
động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh
tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt
mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ theo yêu
cầu của chương trình. Ở trên lớp, với phương
pháp tích cực này thì học sinh hoạt động là
chính, giáo viên đóng vai trò định hướng, dẫn
đường. Khi soạn giáo án giáo viên đã phải
đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với
kiểu dạy học thụ động mới có thể thực hiện
bài giảng với vai trò là người gợi mở, xúc tác
động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt
động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của
người học.
Nguyên tắc cơ bản để xây dựng giờ dạy -
học tích cực
Khi xây dựng giờ dạy - học theo phương pháp
tích cực, chúng ta cần bám sát vào những
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc toàn bộ - toàn thể: khi xây dựng
giờ học tích cực, người dạy cần phải tạo kịch
bản bài giảng thu hút sự tham gia của tất cả
các học viên ở các trình độ khác nhau. Muốn
vậy từ kiến thức đến kỹ năng phải đảm bảo
tính vừa sức, phổ cập.
Nguyên tắc tâm lý: Cần phải quan tâm đến tâm
lý tích cực của người học, khuyến khích học
viên thể hiện suy nghĩ, quan điểm và sự tự tin
khi tham gia vào các hoạt động dạy-học [5].
Nguyên tắc về số lượng: Số lượng học viên
trong lớp học không quá đông, lý tưởng nhất
là không quá 25 người.
Nguyên tắc về không gian - địa điểm: Phòng
học phải đủ rộng để thuận lợi cho việc triển
khai các hoạt động trong giờ học.
Nguyên tắc sáng tạo: Phải tôn trọng sự sáng
tạo riêng của cá nhân mỗi học viên. Trong
quá trình người học tham gia vào các hoạt
động học tập, người dạy có vai trò định
hướng, khơi gợi và kích thích sáng tạo kể cả
khi người học mắc lỗi thì giáo viên cũng phải
chú ý cách sửa lỗi, tránh tình trạng học viên e
ngại, xấu hổ, mất tự tin trước tập thể lớp.
Nguyên tắc tự nguyện: Triển khai các hoạt
động học tập tích cực không thể thiếu việc lập
nhóm. Tuy nhiên, khi xây dựng các nhóm học
tập, cần chú ý nguyên tắc tự nguyện. Các học
viên có thể lựa chọn nhóm các học viên phù
hợp với tôn chỉ của nhóm mình. Từ đó tạo
sức mạnh đồng đội, phát huy sức mạnh và
khả năng làm việc hiệu quả của mỗi cá nhân
trong nhóm học.
Ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích
cực để nâng cao chất lượng dạy – học tiếng
Việt cho người nước ngoài tại Học viện Kỹ
thuật Quân sự
Phương pháp tích cực đối với người dạy
Tại Học viện Kỹ thuật Quân sự (KTQS), các
giáo viên dạy tiếng Việt đã phải tìm tòi,
nghiên cứu về các phương pháp khơi gợi,
phát huy tính tích cực của người học. Từ đó
hướng dẫn học viên các cách để tăng cường
tính tự giác, độc lập, chủ động và sáng tạo
trong học tập để làm chủ con đường khai
thác, chiếm lĩnh tri thức. Tuy nhiên học viên
không thể thực hiện tốt các nhiệm vụ nếu
không được giáo viên truyền thụ kiến thức
nền tảng để từ đó có “vốn”, có cơ sở phát
triển những hoạt động độc lập về sau. Giáo
viên luôn phải theo sát, thể hiện vai trò của
mình trong việc giám sát, theo dõi, kiểm tra
và đánh giá quá trình học tập của người học.
Ngô Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 153 - 158
156
Ngoài việc hướng dẫn về phương pháp tham
gia vào các hoạt động học tập tích cực, giáo
viên còn có nhiệm vụ kích thích tính tự giác
bên trong nhận thức của học viên. Giáo viên
phải biết lựa chọn và ứng dụng những phương
tiện, thủ thuật dạy học để thiết kế được một
kịch bản bài giảng hấp dẫn, sinh động và dễ
hiểu, từ đó thu hút học viên tham gia vào các
hoạt động dạy – học. Để tạo được sự hấp dẫn
và hứng thú từ người học, giáo viên cần chú ý
đến nhu cầu, tâm lý người học, bám sát mục
tiêu đào tạo của chương trình. Có thể điểm
qua một số biện pháp đã được giáo viên tiếng
Việt lựa chọn, ứng dụng trong hoạt động dạy
học tích cực như sau:
Công nghệ hóa các bài giảng bằng giáo án điện
tử: chuyển thể các đoạn hội thoại, bài đọc từ
giáo trình thành các clip hình ảnh hoặc clip
phim ngắn để tăng tính hấp dẫn đối với học
viên. Sử dụng hình ảnh, âm thanh với các hiệu
ứng trình chiếu để xây dựng một kịch bản bài
giảng thú vị từ ngữ liệu sẵn có trong giáo trình
cũng như sáng tạo của mỗi giáo viên.
Đời sống hóa - hiện thực hóa mỗi nội dung
giảng dạy: Để học viên hiểu rõ, nắm chắc các
hiện tượng từ vựng, ngữ pháp, hay các tình
huống hội thoại vào cuộc sống sinh hoạt cũng
như quá trình học tập tại Việt Nam, giáo viên
phải tìm được mối liên hệ từ bài học giúp học
viên vận dụng được trong thực hành giao tiếp.
Giáo viên phải có chiến lược xây dựng bài
giảng để tối đa hóa tính tích cực của học viên.
Muốn vậy người dạy phải có sự nghiên cứu
cụ thể từ tâm lý, tính cách đến trình độ người
học để đưa ra các biện pháp phù hợp. Không
có một phương pháp nào là tốt nhất cho mọi
đối tượng.
Giáo viên thiết kế các bài giảng dưới dạng hội
thoại để tăng khả năng phản ứng nhanh trước
các vấn đề trong cuộc sống sinh hoạt cũng
như học tập. Học viên phải nghe - hiểu vấn đề
để trả lời được các tình huống trong hội thoại,
đồng thời có khả năng phản biện, đặt câu
hỏitrở lại đối với người đối thoại.
Giáo viên là người kích hoạt sự chủ động
trong tư duy cho người học: “Cái lỗi lầm lớn
nhất mà người ta mắc phải trong giáo dục là
không hướng dẫn lớp trẻ tự suy nghĩ”
(G.E.Let-xinh) [6]. Có thể nói để quá trình
giảng dạy thực sự tích cực, người dạy cần có
những phương pháp để dạy cách học, dạy
cách suy nghĩ từ đó tạo tiền đề cho tư duy
phát triển. Đối với các học viên quốc tế tại
Học viện KTQS, giáo viên dạy tiếng gặp
nhiều khó khăn do tâm lý nhút nhát, ngại giao
tiếp, sợ mắc lỗi của học viên. Vì thế để tạo
tính chủ động và tâm lý tự tin cho học viên,
các giáo viên tiếng Việt luôn có sự quan tâm,
gần gũi, động viên học viên kịp thời và tức thì
để rút ngắn mọi khoảng cách về địa lý, văn
hóa cũng như ngôn ngữ.
Giáo viên ghi lại các bài giảng để học viên có
thể tự học mọi lúc mọi nơi: Các bài giảng của
giáo viên trên lớp nên ghi lại để làm tài liệu tự
học cho học viên khi có thời gian và nhu cầu
tự học. Bên cạnh đó, giáo viên có thể tự ghi
hình hoặc tìm các clip ngắn, có nội dung phù
hợp với từng nhóm trình độ học viên để tải
lên trang chung cho học viên theo dõi. Đây là
hình thức khá thú vị và hiệu quả đối với việc
học tiếng Việt như một ngoại ngữ trong thời
đại 4.0.
Giáo viên tạo các nhóm thảo luận trực tuyến:
Mỗi lớp học tiếng Việt đều có 1 giáo viên phụ
trách lớp. Giáo viên đó sẽ tạo các nhóm học
viên riêng và trao đổi tài liệu, thông tin cũng
như nội dung học tập thường xuyên. Học viên
có thể tự làm clip, tự thu âm, ghi hình để tải
lên nhóm cho giáo viên nhận xét, đánh giá.
Giáo viên phải có phương pháp sửa lỗi phù
hợp: dạy học trên lỗi của người khác cũng là
một cách dạy hiệu quả. Việc sửa lỗi cho học
viên phải thường xuyên, liên tục và chính xác.
Tuy nhiên, để tránh tạo hiệu ứng ngược từ
học viên, các giáo viên dạy tiếng Việt luôn
chú ý sửa lỗi một cách khéo léo.
Giảng dạy thông qua các trò chơi: Hiệu hứng
từ các hoạt động trò chơi thực sự có hiệu quả
cao đối với việc học ngoại ngữ nói chung và
dạy - học tiếng Việt như một ngoại ngữ nói
riêng. Trên lớp học, giáo viên tiếng Việt đã
dành nhiều tâm huyết và công phu để thiết kế,
chuyển tải các dạng bài tập, bài luyện kỹ năng
thành các hoạt động trò chơi như: tìm hình
dán chữ, nhìn hình nói chữ, giai điệu thân
quen, sờ tay đoán vật, đường lên đỉnh
Ngô Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 153 - 158
157
Olympia, ô chữ bí mật, đấu trí, đối mặt,
Lấy ý tưởng từ các game show trên truyền
hình, giáo viên tiếng Việt đã ứng dụng công
nghệ tin học vào thiết kế bài giảng để tạo nên
các trò chơi kích thích tối đa sự tích cực từ
học viên quốc tế.
Gắn hoạt động dạy - học với việc kiểm tra,
đánh giá: Giáo viên giảng dạy ngoài nhiệm vụ
của người dẫn đường, họ còn có vai trò quan
trọng trong quá trình thực nghiệm, đánh giá
trình độ, kiến thức, kỹ năng và thái độ người
học. Đặc biệt hơn cả, người dạy hướng dẫn
học viên tham gia vào quá trình tự đánh giá và
đánh giá các bạn học viên khác trong lớp. Từ
việc tự đánh giá và tham gia đánh giá, học viên
có ý thức hơn đối với việc tự giác học tập.
Hướng dẫn học viên các cách tích cực để
tham gia vào các hoạt động học tập
Trong quá trình dạy - học tích cực, người học
được đặt vào vị trí trung tâm và quan trọng
hàng đầu. Vì thế người dạy luôn bám sát từ
mục tiêu đào tạo, chương trình đào tạo để lựa
chọn giáo trình, tài liệu hay thiết kế hoạt động
học tập trong và ngoài lớp học đều hướng đến
người học. Xác định nhu cầu của người học
để có sự định hướng đúng đắn cho người học
trong tiếp cận kiến thức thông qua các kỹ
năng ngôn ngữ. Mọi phương pháp mà người
học ngoại ngữ cần được trang bị đều nhằm
vào mục tiêu tạo dựng cho học viên hệ thống
kỹ năng tự học và làm chủ tri thức. Tại Học
viện KTQS, các học viên quốc tế được hướng
dẫn cách tự học thông qua các hình thức cơ
bản sau:
Cách chuẩn bị kiến thức trước khi học bài
mới: Công việc của học viên ngoài lớp học
không chỉ là làm các bài tập giáo viên yêu cầu
dưới dạng bài tập về nhà mà học viên được
hướng dẫn cách chuẩn bị kiến thức bài mới.
Biện pháp này qua quá trình lâu dài đã tạo
thói quen tự giác, giúp phá vỡ tâm lý lười
biếng và ngại học của học viên khi ở ký túc
xá. Giáo viên giao quyền chủ động khai thác
kiến thức cho học viên bằng các gợi dẫn của
mình. Mỗi học viên có một cách tiếp cận và
sáng tạo riêng với nội dung bài học. Giáo viên
đóng vai trò tổng hợp có nhận xét đánh giá
trên cơ sở động viên, khích lệ mọi ưu điểm
của học viên. Khi được làm chủ quá trình
nhận thức, học viên phát huy tối đa tính tích
cực, chủ động và sáng tạo của mình.
Các cách để tích cực tham gia vào các nhóm
học tập: Để quá trình dạy - học đạt hiệu quả
cao nhất, người dạy phải đầu tư kích hoạt
được hoạt động học của người học. Hoạt động
học tập chỉ đạt kết quả tốt khi được người học
tham gia một cách tích cực, chủ động vào. Vì
thế, ngoài sự chuẩn bị ở nhà, người học cần
tạo lập các nhóm để tiến hành các hoạt động
thảo luận. Các nhóm học viên được tạo lập
trên nguyên tắc tự nguyện, có điểm chung và
phù hợp. Có nhiều cách tổ chức hoạt động
thảo luận như: “phương pháp hội nghị bàn
tròn” (các học viên trong nhóm đều phải suy
nghĩ để đưa ra một ý kiến cá nhân của mình),
“phương pháp phỏng vấn”(mỗi nhóm cử ra
một học viên làm trưởng nhóm, người nhóm
trưởng sẽ tiến hành đặt câu hỏi cho từng cá
nhân trong nhóm hoặc ngược lại các thành
viên của nhóm sẽ đặt câu hỏi cho nhóm
trưởng rồi tổng hợp lại thành ý kiến của
nhóm), “phương pháp phản biện” (các thành
viên của nhóm này sẽ đặt câu hỏi hoặc các ý
kiến trái chiều với chủ đề của nhóm khác),
“phương pháp tranh luận” (sau khi đại diện
các nhóm trình bày nội dung của nhóm, các
nhóm khác sẽ tiến hành tranh luận từng luận
điểm đưa ra), Sau thảo luận, các nhóm sẽ
thực hiện phương pháp tóm tắt nhanh và trình
bày cách hiểu của nhóm qua hình thức thuyết
trình hoặc văn bản. Giáo viên sẽ tổng hợp ý
kiến của tất cả các nhóm rồi nhận xét ưu,
nhược điểm của từng nhóm.
Phương pháp đóng vai: đây là cách tham gia
vào hoạt động học tập phổ biến và phù hợp
cho mọi trình độ học viên học tiếng Việt.
Học viên được thực hành giao tiếp trong
một số tình huống giao tiếp giả định để kích
thích sự sáng tạo và có trải nghiệm trước
khi bước vào thực tiễn.Từ việc tham gia
đóng vai, bắt chước các nhân vật trong các
tình huống hội thoại ngắn đến việc tiến
hành các bài phỏng vấn hay tự xây dựng các
đoạn hội thoại theo chủ đề, người học được
rèn kỹ năng nói, khả năng tự chủ và ứng xử
linh hoạt trong giao tiếp.
Ngô Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 183(07): 153 - 158
158
Phương pháp ghi nhớ và tóm tắt nhanh: Đối
với người học ngoại ngữ, ghi nhớ và tóm tắt
là một kỹ năng rất quan trọng. Bằng sơ đồ tư
duy, học viên có thể tự tổng hợp nhanh lại
kiến thức đã học hoặc tự thiết kế cho mình
một bản tóm tắt để có thể ghi nhớ và có tài
liệu tự học mọi lúc, mọi nơi.
KẾT LUẬN
Albert Einstein từng nói: “Giá trị của một nền
giáo dục không phải là dạy và học được nhiều
sự kiện mà là đào luyện cho tinh thần biết tư
duy” [6], đây là cơ sở tất yếu cho xu hướng
giáo dục trong thời đại ngày nay. Cùng với
việc giảng dạy theo phương pháp tích cực đối
với tất cả các môn học nói chung và môn
tiếng Việt cho người nước ngoài nói riêng,
chất lượng đào tạo ngày càng được nâng cao
cùng với thái độ tích cực, chủ động từ tư duy
đến hoạt động học tập của người học tại Học
viện KTQS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Thúy (2013), Lợi ích của phương
pháp giảng dạy tích cực,
edu.vn/loi-ich-cua-phuong-phap-giang-day-tich-
cuc.htm, 20/4/2018.
2. Pasi Sahlberg (2011), Finnish lessons,
Comlombia University, New York.
3. Hoàng Phê (2016), Từ điển tiếng Việt, Nxb
Hồng Đức, Hà Nội.
4. Акишина А.А, Каган О.Е. (2002), Учимся
учить, Москва.
5. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương
pháp dạy học trong nhà trường, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
6. Nguyễn Trọng Hoàn (2016), Dạy cách học,
hoi/item/29434202-day-cach-hoc.html, 2/5/2018.
SUMMARY
APPLY INTERACTIVE TEACHING METHODS TO IMPROVE THE QUALITY
OF TEACHING AND LEARNING VIETNAMESE TO INTERNATIONAL
STUDENTS AT MILITARY TECHNICAL ACADEMY
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu*
Military Technical Academy
Active teaching, interactive teaching or the method of active education has been of deep and
profound interest to educators across all fields. For the purpose of improving the quality of foreign
language teaching and learning at Military Technical Academy, I have been studying to apply new
teaching methods. Particularly, active teaching and learning has improved learners’ motivation and
enhanced learning. For Lao and Cambodian students, characterised by their shyness and reluctance
to engage in communication, active teaching has helped them lose their inhibitions and become
confident and active in acquiring knowledge in class as well as at home in the process of learning
Vietnamese as a foreign language.
Key words: method, active, interactive, quality, communication.
Ngày nhận bài: 16/3/2018; Ngày phản biện: 25/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
* Tel:0975515161; Email:tuanh250208@gmail.com
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Hoang Thi Phuong Nga - Literature tourism model “the old Vu Dai village” 3
Pham Thi Thu Hoai, Tran Thi Thanh - Slang in Van Thanh Le's stories about education problems 9
Ngo Thi Thanh Nga, Pham Thi Hong Van - A brief description of the modes of expressing conjugal
sentiments in the Vietnam medieval literature 15
Nguyen Thi Tham, Nguyen Minh Son - The opposite view of Nguyen Ngoc Tu to Vietnamese traditional
literature via the main female characters in Khong ai qua song 21
Dang Thi Thuy, Nguyen Dieu Thuong - The logic of “non logic” phenomenon in Vietnamese folk verses, proverbs 27
Dinh Thi Giang - Factors affecting current lifestyle of Vietnamese people in the northern delta 33
Nguyen Dieu Thuong, Nguyen Thi Lan Huong - Mechanisms creating implication in satirical jokes 39
Nguyen Thu Quynh, Vi Thi Hien - Household vocabulary of Thai language in Dien Bien province 45
Nguyen Thi Thu Oanh, Hoang Thi My Hanh - Position, role of the communist party of Vietnam in the period
1954 – 1975 and some lessons learned 51
Do Hang Nga, Pham Quoc Tuan - Collection of taxes in the villages through material of reformist village
convention in Thai Nguyen province 57
Le Van Hieu - The efficiency of the model "propaganda department" in communes, wards, township and
"commander" in villages, cities at the current period in Lao Cai province 63
Thai Huu Linh, Nguyen Thi Thu Hien, Nguyen Thi Thanh Ha - The role of the rear Bac Thai in the 1968
general offensive 69
Pham Anh Nguyen - The attraction in “Hai dam” of Phan Khoi 73
Nguyen Thi Huong, Nguyen Thi Mao, Nguyen Tuan Anh - Enhancing the efficiency of extracurrucular
activities in teaching civic education at high schools in thai nguyen city these days 79
Nguyen Van Dung, Dao Ngoc Anh - Physical status of non-sports students at Thai Nguyen University of Education 85
Tran Bao Ngoc, Le Ngoc Uyen, Bui Thanh Thuy et al - The reality of degree classification in non-
examination students at University of Medicine and Pharmacy – Thai Nguyen University in the period from
2013 to 2017 91
Nguyen Thuc Canh - The need for buiding an exercise system with practical content to teach mechanics
to high school 97
Ha Thi Kim Linh, Chu Thi Bich Hue - Educate legal knowledge for ethnic minority women in Vo Nhai
district, Thai Nguyen province 105
Nguyen Thi Thanh Hong, Nguyen Thi Khanh Ly, Vu Kieu Hanh - Improve students’ participation in
English learning activities in large mixed ability classes of the freshman students at Thai Nguyen University of
Medicine and Pharmacy 111
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Manipulate exemplary style according to the President Ho Chi Minh’s
thought in building work style for key caders at present period 117
Dam Quang Hung - Science lesson planning for grade 4, 5 according to experimental research 123
Hoang Thi Thu Hoai - Difficulties in teaching and learning ESP vocabulary for nursing students at Thai
Nguyen Medical College and some solutions 129
Nguyen Lan Huong, Van Thi Quynh Hoa - Determinants affecting English speaking performance of the first-
year students at Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 135
Journal of Science and Technology
183(07)
N¨m 2018
Vu Kieu Hanh - Determinants to the reading comprehension performance level of the second- year students at
Thai Nguyen University of Agriculture and Forestry 141
Nguyen Thi Que, Hoang Thi Nhung - Asking the right question for successful self-studying and cooperative
learning - towards independent language learners in the context of ASEAN community and global integration 147
Ngo Thi Thu Ha, Nguyen Thi Hoai Thu - Apply interactive teaching methods to improve the quality of
teaching and learning Vietnamese to international students at Military Technical Academy 153
Duong Van Tan - An assessment of the effectiveness in application of games in general physical development
for students at Thai Nguyen University of Technology 159
Bui Thi Huong Giang - Improving intercultural communicative competence in foreign language teaching
and learning 165
Tran Hoang Tinh, Nong La Duy, Pham Van Tuan - Building self-managed platoon in disciplinary education
for students at the center for defense and security education in the current phase 171
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Improving academic writing performance for english majors
through intensive reading 177
Do Thi Hong Hanh, Hoang Mai Phuong - Vocational training for rural workers in Cho Moi district, Bac
Kan province 183
Tran Thuy Linh, Tran Luong Duc, Nguyen Thi Thuy Trang - European union competition law approach on
exploitative abuses 189
Nguyen Thi Thanh Ha, Pham Viet Huong - Setting up an appropriate set of economic criteria and indicators
for evaluating sustainable forest management in Dinh Hoa district 195
Dinh Thi Hoai - Marketing promotion for information - library product and service at the Learning Resource
Center of Thai Nguyen University 201
Nguyen Thi Thanh Xuan - Factors affecting customer satisfaction in hotels at Thanh Hoa province, Vietnam 207
Duong Thi Tinh - Contributions of goods export to the economic growth of Yen Bai province 213
Le Minh Hai, Tran Viet Khanh - Tourism space organization of Thai Nguyen province 219
Ha Van Vuong - Apply the ergonomics theory in working environment organization at the office of Song Cong
grarment branch II – TNG Investment and Trading Joint Stock Company 227
Mai Anh Linh, Nguyen Thi Minh Anh - Assessing service quality and customer satisfaction: an empirical
study at Lan Chi supermarket, Thai Nguyen city 233
Dinh Hong Linh, Nguyen Thu Nga, Nguyen Thu Hang - Applying logarithmic function to evaluate the
business efficiency of Vietnam banks 239
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 406_436_1_pb_9957_2127110.pdf