Tài liệu Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Thuận: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 56
TỶ LỆ THIẾU MÁU THIẾU SẮT Ở PHỤ NỮ MANG THAI 3 THÁNG ĐẦU
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH BÌNH THUẬN
Trần Văn Vũ*, Võ Minh Tuấn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thiếu máu thiếu sắt trong thai kì có thể làm gia tăng nguy cơ sẩy thai, sanh non, thai suy dinh
dưỡng, băng huyết sau sanh, nhiễm trùng hậu sản hay hậu phẫu. Cần nghiên cứu xác định tỉ lệ thiếu máu thiếu
sắt, yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang kết hợp giả thực nghiệm được thực hiện từ tháng
10/2017 đến tháng 03/2018. Đối tượng nghiên cứu là tất cả phụ nữ mang thai 3 tháng đầu đến khám thai tại
khoa sản bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận. Thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ được định nghĩa là nồng độ
Hemoglobin máu < 11g/dl và Ferritin huyết thanh < 12 ng/ml. Sau khi tư vấn, sản phụ đồng thuận được hướng
dẫn đến phòng xét nghiệm lấy máu làm huyết đồ và định lượng Fer...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Thuận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 56
TỶ LỆ THIẾU MÁU THIẾU SẮT Ở PHỤ NỮ MANG THAI 3 THÁNG ĐẦU
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH BÌNH THUẬN
Trần Văn Vũ*, Võ Minh Tuấn**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Thiếu máu thiếu sắt trong thai kì có thể làm gia tăng nguy cơ sẩy thai, sanh non, thai suy dinh
dưỡng, băng huyết sau sanh, nhiễm trùng hậu sản hay hậu phẫu. Cần nghiên cứu xác định tỉ lệ thiếu máu thiếu
sắt, yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang kết hợp giả thực nghiệm được thực hiện từ tháng
10/2017 đến tháng 03/2018. Đối tượng nghiên cứu là tất cả phụ nữ mang thai 3 tháng đầu đến khám thai tại
khoa sản bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận. Thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ được định nghĩa là nồng độ
Hemoglobin máu < 11g/dl và Ferritin huyết thanh < 12 ng/ml. Sau khi tư vấn, sản phụ đồng thuận được hướng
dẫn đến phòng xét nghiệm lấy máu làm huyết đồ và định lượng Ferritin. Thông tin khác được thu thập qua
phỏng vấn trực tiếp thai phụ bằng bảng câu hỏi soạn sẵn.
Kết quả: Khảo sát 388 mẫu, tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt là 24%. Các yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu sắt
có ý nghĩa thống kê như: Nhóm lao động chân tay (PR=2,72), nhóm có tiền căn mắc bệnh tiêu hóa (PR=1,9),
nhóm có hai con (PR=2,45). Sau một tháng điều trị 48,4% trường hợp đạt Hb ≥ 11g/dl.
Kết luận: Nên đưa xét nghiệm Hemoglobin và định lượng Ferritin thường qui cho thai phụ mang thai 3
tháng đầu để tầm soát thiếu máu thiếu sắt. Phát hiện và điều trị sớm nhằm giảm nguy cơ cho thai phụ và thai
nhi.
Từ khóa: thai phụ, thiếu máu thiếu sắt
ABSTRACT
THE PREVALENCE OF IRON-DEFICIENCY ANEMIA IN THE FIRST THREE MONTHS OF
PREGNANT WOMEN AT BINH THUAN GENERAL HOSPITAL
Tran Van Vu, Vo Minh Tuan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 56 - 62
Objectives: Iron-deficiency anemia during pregnancy may increase the risk of miscarriage, preterm labor,
malnutrition, postpartum haemorrhage, postpartum or postoperative infection. We are in need of a study to
determine the prevalence and related factors of iron deficiency anemia among first- trimester pregnancies.
Methodology: A cross-sectional study was conducted from October 2017 to March 2018. The study
subjects were all pregnant women at the first 3 months of pregnancy who visited the obstetrical department of
Binh thuan General Hospital. Iron-deficiency anemia during pregnancy is defined as Hemoglobin<11g/dl and
Ferritin serum concentration<12ng/ml. After counseling, the subjects were tested for blood chart and quantitative
ferritin. Other information was collected through face-to-face interviews using the prepared questionnaire.
Result: Survey 388 samples, the rate of iron deficiency anemia is 24%. Factors related to iron deficiency
anemia were statistically significant such as: Group of blue labor (PR = 2.72), group with history of
gastrointestinal disease (PR = 1.9), group with two children (PR = 2.45). After one month of treatment, 48.4% of
the cases had Hb ≥ 11g / dl.
*Bệnh viện đa khoa Bình Thuận, **BM Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: PGS TS BS. Võ Minh Tuấn ĐT: 0909727199 Email: vominhtuan@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 57
Conclusion: Hemoglobin and ferritin testing should be routinely administered to pregnant women in the
first trimester for screening of iron deficiency anemia. Early detection and treat for iron deficiency anemia could
reduce the risks for pregnant women and fetus.
Keywords: pregnant women, iron deficiency anemia
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu là tình trạng giảm lượng huyết
sắc tố và số lượng hồng cầu trong máu ngoại vi
dẫn đến thiếu oxy cung cấp cho các mô tế bào
trong cơ thể. Thiếu máu do thiếu sắt là tình trạng
xảy ra khi hồng cầu bị giảm cả về số lượng và
chất lượng do thiếu sắt(19).
Thiếu máu do thiếu sắt là một bệnh rất phổ
biến tác động đến hàng tỷ người trên thế giới,
đặc biệt là phụ nữ tuổi sinh đẻ, phụ nữ mang
thai và trẻ nhỏ. Thiếu máu thiếu sắt trong thai kì
có thể làm gia tăng nguy cơ sẩy thai, sanh non(7),
thai suy dinh dưỡng(14), băng huyết sau sanh,
nhiễm trùng hậu sản hay hậu phẫu(8,9), nhiều
trường hợp nguy kịch dẫn đến tử vong cho mẹ
và thai nhi(13). Ngoài ra, trẻ sơ sinh ở mẹ bị thiếu
máu cũng có nguy cơ bị thiếu máu nhất là trong
năm đầu tiên của cuộc sống(6,12). Nghiên cứu
của Black và cộng sự năm 2008 cũng cảnh báo
rằng trước khi tình trạng thiếu máu xảy ra, thiếu
sắt có thể đã làm ảnh hưởng đến các chức năng
khác như hệ thống miễn dịch, hệ thống thần
kinh, làm giảm khả năng miễn dịch, giảm hoạt
động thể chất và suy giảm nhận thức(1,2,11).
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ
lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai rất cao, và
thường là thiếu máu mức độ nặng, trong đó
thiếu máu do thiếu sắt chiếm đa số, theo thống
kê của Tổ Chức Y Tế Thế Giới đã cho biết tỷ lệ
thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ tại Việt Nam
trong năm 2002 là 45 – 47%(20). Mặc dù từ những
năm 1995 đã thực hiện chương trình bổ sung
viên sắt trong thai kì trên toàn lãnh thổ, tuy
nhiên theo thống kê của Viện dinh dưỡng năm
2008, tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang
thai vẫn còn cao, chiếm 31,4%, tập trung các
vùng núi phía Bắc, phía Tây Bắc và vùng Bắc
ven biển Miền Trung nơi có tỷ lệ thiếu máu ở
phụ nữ mang thai ở mức nặng (lần lượt là 45,7%
và 44,1%) và thấp nhất là khu vực Đông Nam Bộ
(24%)(17). Tại Thành phố Hồ Chí Minh trong
nghiên cứu năm 2000 được tiến hành trên 2084
thai phụ cho biết tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có
thai khoảng 38%(15). Gần đây là các báo cáo tỷ lệ
thiếu máu thiếu sắt tại tỉnh Bạc Liêu(10) và Mỹ
Tho – Tiền Giang(4) lần lượt là 23,75% (2010) và
17,36% (2011).
Bình Thuận là một tỉnh duyên hải cực Nam
Trung Bộ Việt Nam, với khí hậu nhiều nắng,
nhiều gió, nằm trong vùng khô cằn nhất cả
nước, dân cư tỉnh phân bố không đồng đều giữa
các huyện, thị xã, thành phố đã tạo nên sự phân
hóa rõ rệt về kinh tế trong vùng, từ đó phân hóa
chế độ ăn uống dinh dưỡng khác nhau ở các
tầng lớp dân cư khác nhau cũng như sự đa dạng
về các dân tộc trong tỉnh. Tuy đã có chương
trình bổ sung viên sắt trong thai kì theo khuyến
nghị của Bộ Y Tế, nhưng không phải thai phụ
nào cũng có điều kiện thực hiện. Cho tới nay, tại
Bình Thuận vẫn chưa có nghiên cứu về vấn đề
thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ. Vì vậy, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu “Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt
ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu tại Bệnh viện đa
khoa tỉnh Bình Thuận” với câu hỏi nghiên cứu: Tỷ
lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai phụ trong 3 tháng
đầu ở tỉnh Bình Thuận là bao nhiêu?
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính: Xác định tỷ lệ thiếu máu do
thiếu sắt ở thai phụ 3 tháng đầu thai kì đến
khám ở BV Đa Khoa Bình Thuận từ tháng
10/2017 đến tháng 3/2018.
Mục tiêu phụ: Khảo sát các yếu tố liên quan
đến tình trạng thiếu máu thiếu sắt và đánh giá
hiệu quả điều trị thiếu máu do thiếu sắt sau một
tháng điều trị.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Phần 1: Nghiên cứu cắt ngang.
Phần 2: Nghiên cứu giả thực nghiệm (Quasi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 58
Experimental Study).
Dân số nghiên cứu
Phụ nữ mang thai 3 tháng đầu.
Tất cả các thai phụ đến khám thai tam cá
nguyệt đầu ở bệnh viện đa khoa Bình Thuận.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả các thai phụ đến khám thai tam cá
nguyệt đầu ở bệnh viện đa khoa Bình Thuận
khoảng thời gian từ tháng 10/2017 đến tháng
3/2018, đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân đang điều trị các bệnh lý mạn
tính khác, đang mắc các bệnh: nhiễm trùng cấp,
sốt rét, bệnh tim, gan, thận, ung thư, lao, viêm
loét dạ dày - thực quản, thiếu máu tán huyết di
truyền (Thalassemia) hoặc bị hạn chế về sức
khỏe và tâm lý (câm điếc, không hiểu ngôn ngữ,
tâm thần).
Cỡ mẫu
Phần 1
Ước tính cỡ mẫu theo công thức tỷ lệ trong
quần thể với độ chính xác tuyệt đối:
N = Z2(1-α
2
)
p (1-p)
d2
Z = 1,96, p = 0,5 để cỡ mẫu lớn nhất, d=0,05 => n = 384.
Phần 2
Công thức tính cỡ mẫu là công thức so sánh
2 trung bình của một nhóm đối tượng trước và
sau điều trị:
n = 2 x (1-r) x C/(ES)2
r = 0,6; C = 7,85; E/s = 1/3 => n = 70. Dự kiến mất dấu
15% nên cần 80 trường hợp.
Phương pháp nhận bệnh và thu thập số liệu
Tất cả các thai phụ đến khám tại phòng
khám sản phụ khoa của Bệnh viện đa khoa tỉnh
Bình Thuận từ 07g00 đến 16g00 hàng ngày (từ
thứ 2 đến thứ 6) trong khoảng thời gian từ tháng
10/2017 đến tháng 3/2018 và thỏa tiêu chuẩn
chọn mẫu cũng như loại ra những đối tượng
nằm trong các tiêu chuẩn loại trừ để chúng tôi
chọn ra được các đối tượng phù hợp để mời
tham gia nghiên cứu. Nếu thai phụ đồng ý tham
gia nghiên cứu thì chúng tôi sẽ đưa thai phụ ký
bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu, phát tờ
rơi về thiếu máu thiếu sắt và tiến hành phỏng
vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi soạn sẵn. Sau
đó, nhóm nghiên cứu hướng dẫn thai phụ đến
phòng xét nghiệm để được kỹ thuật viên của
bệnh viện lấy máu làm xét nghiệm.
Các thai phụ không bị thiếu máu thiếu sắt sẽ
được uống bổ sung ngày 1 viên chứa 60mg sắt
và 400µg acid folic trong suốt thời gian có thai
đến hết 3 tháng sau sanh đối với phụ nữ cho con
bú. Chúng tôi ghi nhận kết quả vào bảng thu
thập số liệu và hoàn thành giai đoạn 1 của
nghiên cứu xác định tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt.
Nếu sản phụ bị thiếu máu thiếu sắt sẽ được tư
vấn tham gia giai đoạn hai của nghiên cứu nhằm
đánh giá hiệu quả điều trị thiếu máu thiếu sắt.
Chúng tôi phát phiếu nhật ký sử dụng thuốc
để theo dõi việc sử dung thuốc và ghi nhận các
tác dụng phụ nếu có như dị ứng thuốc, buồn
nôn, nôn, táo bón, tiêu chảy có thể xảy ra sẽ
được tư vấn cho thai phụ khi được cấp phát
thuốc. Đồng thời chúng tôi sẽ hẹn thai phụ đến
tái khám là 1 tháng sau. Tất cả thai phụ khi đến
tái khám được lấy máu làm lại xét nghiệm công
thức máu để đánh giá hiệu quả điều trị thông
qua sự gia tăng nồng độ Hemoglobin.
Sau khi đã thu thập đủ số liệu, chúng tôi tiến
hành tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu và viết
báo cáo. Các số liệu thô ban đầu sẽ được lọc cho
phù hợp với việc phân tích sau đó nhập và xử lý
số liệu bằng phần mềm Sata 10. Phân tích gồm 2
bước: bước 1 mô tả và phân tích đơn biến; bước
2 dùng mô hình hồi quy đa biến nhằm kiểm soát
yếu tố gây nhiễu để tính PR hiệu chỉnh (PR*) cho
các biến số. Các phép kiểm đều thực hiện với độ
tin cậy 95%.
KẾT QUẢ
Tỉ lệ thiếu máu thiếu sắt thai kỳ
Trong tổng số 388 sản phụ tham gia nghiên
cứu có 93 sản phụ bị thiếu máu thiếu sắt chiếm
tỷ lệ 24% [19,7 – 28,2].
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 59
Phân tích yếu tố liên quan
Nhằm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu, chúng
tôi đưa các yếu tố có P <0,25 trong phân tích đơn
biến vào hồi qui đa biến.Tổng cộng 6 biến độc
lập được sử dụng, trong đó có 3 yếu tố liên quan
có ý nghĩa thống kê với tình trạng thiếu máu
thiếu sắt trong thai kỳ như trình bày ở trên.
Bảng 2. Phân tích hồi quy đa biến mối liên quan giữa thiếu máu thiếu sắt và các biến số
Đặc điểm Không thiếu máu n = 295 (%) Thiếu máu n = 93 (%) PR KTC 95% P*
Nghề nghiệp:
Nội trợ
LĐ trí óc
LĐ chân tay
135 (83,9)
57 (76,0)
295 (36,0)
26 (16,1)
18 (24,0)
49 (32,3)
1
1,80
2,72
0,61 – 5,35
1,09 – 6,77
0,285
0,031
Học vấn:
Câp I
Cấp II –III
ĐH, sau ĐH
13 (68,4)
140 (71,8)
142 (81,6)
6 (31,6)
55 (28,2)
32 (18,4)
1
0,75
0,98
0,25 – 2,21
0,25 – 3,80
0,606
0,987
Bệnh tiêu hóa:
Không
Có
251 (78,7)
44 (63,8)
68 (21,3)
25 (36,2)
1
1,90
1,05 – 3,46
0,034
Số con:
Chưa con
1 con
≥ 2 con
153 (78,9)
114 (77,6)
28 (59,6)
41 (21,1)
33 (22,4)
19 (40,4)
1
1,15
2,45
0,66 – 1,98
1,17 – 5,13
0,136
0,017
Ăn uống đầy đủ: Không
Có
12 (91,7)
284 (75,5)
1 (8,3)
92 (24,5)
1
5,94
0,67 – 52,2
0,108
Thay đổi cân nặng:
Không thay đổi
Giảm cân
Tăng cân
152 (75,6)
73 (70,9)
70 (83,3)
49 (24,4)
30 (29,1)
14 (16,7)
1
1,41
0,64
0,83 – 2,61
0,32 – 1,28
0,176
0,211
(*) Poisson đa biến
Hiệu quả điều trị thiếu máu thiếu sắt
Sau điều trị 1 tháng, tỉ lệ sản phụ đạt nồng
độ Hb ≥ 11g/dl là 48,4%.
Kết quả cho thấy cả hai nhóm đều có nồng
độ Hemoglobin tăng lên sau điều trị có ý nghĩa
thống kê so với trước điều trị, p < 0,05.
Bảng 3. Nồng độ Hemoglobin trung bình trước và
sau điều trị một tháng
Mức độ
TM
Trước điều trị Sau điều trị KTC 95% P*
Nhẹ 10,48 ± 0,28 11,37 ± 0,58 0,75 – 1,01 0,001
Trung
bình
8,68 ± 0,98 9,45 ± 1,26 0,53 – 1,00 0,001
Tổng 9,98 ± 0,99 10,83 ± 1,19 0,74 – 0,96 0,001
(*) Paired-Samples T-test
Biểu đồ 2. Tỷ lệ điều trị hết thiếu máu sau một tháng
hết thiếu máu còn thiếu máu
45/93
48,4% [38,1 - 58,7]
48/93
51,6%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 60
BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, với tổng số
388 sản phụ tham gia, có 93 sản phụ bị thiếu
máu thiếu sắt chiếm tỷ lệ 24%. Kết quả này cũng
khá phù hợp so với một số nghiên cứu trong
nước: Tác giả Vương Thị Ngọc Lan thực hiện
nghiên cứu tại 6 quận nội thành và 3 quận ngoại
thành tại TP. Hồ Chí Minh ghi nhận tỷ lệ thiếu
máu thiếu sắt là 20,1%. Năm 2010 tác giả Phạm
Thị Đan Thanh về tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai
phụ 3 tháng đầu thai kỳ và các yếu tố liên quan
tại tỉnh Bạc Liêu tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt là
23,75%(10).
Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt của nghiên cứu
chúng tôi thấp hơn so với một số tác giả nghiên
cứu trong khoảng những năm 1996 – 2003:
Dương Thị Nhan, Đặng Thị Hà, Trương Thị
Phương, Ritsuko Aikawa. Có lẽ có sự khác nhau
này là do cách chọn mẫu và thời điểm nghiên
cứu. Tại thời điểm 1996 – 2003 chương trình bổ
sung sắt thai kỳ mới chỉ bắt đầu chưa thật sự
phát triển mạnh và đồng bộ như hiện nay, thêm
vào đó do điều kiện kinh tế vẫn hạn hẹp nên
những bà mẹ vẫn chưa thật sự quan tâm tới dinh
dưỡng và bổ sung sắt khi mang thai.
Bảng 1. Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ tại Việt Nam
Tác giả Năm Các vùng Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt (%)
WHO
(20)
1995 Việt Nam 45-47
Vương Thị Ngọc Lan
(18)
1995 TP. Hồ Chí Minh 20,1
Dương Thị Nhan
(5)
1996 An Giang 30,3
Đặng Thị Hà
(3)
2000 TP. Hồ Chí Minh 31,53
Trương Thị Phương
(16)
2001 Tiền Giang 37,8
Đoàn Thị Nga
(4)
2009 Tiền Giang 17,36
Phạm Thị Đan Thanh
(10)
2010 Bạc Liêu 23,75
Chúng tôi 2018 Bình Thuận 24
Nhìn chung nghiên cứu của chúng tôi
không có thiếu máu nặng và tỷ lệ thiếu máu
thiếu sắt đã có giảm hơn so với khoảng 10 năm
trước đây, nhưng so với một số nghiên cứu
gần đây thì vẫn còn cao. Điều này cho thấy
việc tăng cường chương trình chăm sóc sức
khỏe dinh dưỡng bà mẹ khi mang thai để làm
giảm tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt thai kỳ tại tỉnh
Bình Thuận vẫn đang còn là một vấn đề hết
sức cần thiết và quan trọng.
Trong nghiên cứu, nghề nghiệp nội trợ và
lao động chân tay chiếm đa số với tỷ lệ lần lượt
là 41,5% và 39,2%, thấp nhất là lao động trí óc
19,3%. Trong 93 trường hợp thiếu máu thiếu sắt
có tới 31 trường hợp thuốc nhóm lao động chân
tay chiếm tỷ cao nhất 33,3%. Sau khi tiến hành
phân tích hồi quy đơn biến và đa biến thì chúng
tôi nhận thấy có mối liên quan giữa nghề nghiệp
và tình trạng thiếu máu thiếu sắt. Nhóm lao
động chân tay làm tăng nguy cơ thiếu máu thiếu
sắt lên gấp 2,7 lần so với nhóm nội trợ, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê (OR = 2,72; KTC: 1,09 –
6,77; P = 0,031). Điều này có thể giải thích có thể
do nhóm nội trợ và lao động trí óc có thời gian
và có điều kiện hơn trong việc tiếp xúc với
những thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe,
từ đó nhận thức tốt vấn đề dinh dưỡng khám
thai và bổ sung viên sắt nên tỷ lệ thiếu máu
thiếu sắt ít hơn. Trong khi đó nhóm lao động
chân tay thì ít có điều kiện tiếp xúc với các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe cho ba mẹ lúc mang thai
hơn nên nguy cơ thiếu máu thiếu sắt trong thai
kỳ tăng lên. Một lý do khác có thể nhóm lao
động chân tay thì thường có thu nhập thấp hơn.
Thu nhập thấp hàng tháng làm ảnh hưởng đến
chất lượng bữa ăn, ảnh hưởng đến đời sống kinh
tế và tinh thần cho sản phụ, phải lao động nhiều
hơn trong khi chế độ ăn không tương xứng, lâu
dài là yếu tố thuận lợi dẫn đến tình trạng thiểu
dưỡng và đặc biệt dễ gây thiếu máu thiếu sắt
trong thai kỳ.
Nghiên cứu của chúng tôi phân biến số con
hiện có làm 4 nhóm: nhóm con so, nhóm đã có
một con, nhóm đã có hai con và nhóm có từ ba
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 61
con trở lên. Trong bốn nhóm thì nhóm đã có hai
con có tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt cao nhất 40,9%,
và thấp nhất là nhóm con so 21,1%. Sau khi tiến
hành phân tích và đưa vào phương trình hồi quy
đa biến khử nhiễu chúng tôi nhận thấy số con
hiện có là một yếu tố ảnh hường tới tỷ lệ thiếu
máu thiếu sắt. Nhóm sản phụ có hai người con
tăng nguy cơ thiếu máu thiếu sắt gấp 2,45 lần so
với nhóm chưa có con. Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (PR = 2,45; KTC: 1,17 – 5,13; P =
0,006). Nhu cầu sắt khi có thai tăng gấp 6 lần so
với khi không mang thai. Mỗi lần mang thai
người mẹ mất khoảng 1000 mg sắt cho sự phát
triển sinh lý thai và mất trung bình 500 – 1000 ml
máu cho mỗi lần sanh. Nếu cung cấp chất sắt
không đầy đủ, dự trữ sắt ở người mẹ sẽ giảm
dần và đến thai kỳ sau nguy cơ thiếu máu thiếu
sắt sẽ tăng lên.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 69 sản
phụ có tiền căn hoặc đang mắc các bệnh về
đường tiêu hóa. Sau khi phân tích đa biến chúng
tôi nhận thấy rằng nhóm có tiền căn hoặc đang
mắc các bệnh tiêu hóa tăng nguy cơ thiếu máu
thiếu sắt gấp 1,9 lần so với nhóm không có tiền
căn mắc bệnh tiêu hóa. Điều này có thể giải thích
những sản phụ bị mắc bệnh đường tiêu hóa
thường có cảm giác khó chịu đường ruột, buồn
nôn, nôn ói, nên con đường cung cấp năng
lượng đường ăn giảm, con đường cung cấp sắt
từ thức ăn cũng giảm. Thêm vào đó kèm với
triệu chứng nghén những sản phụ có tiền căn
bệnh đường tiêu hóa thường có cảm giác chán
ăn, sợ ăn nên ăn ít.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các sản phụ
sau khi được chẩn đoán thiếu máu thiếu sắt sẽ
được tư vấn và điều trị bằng viên sắt uống theo
phác đồ của bệnh viện. Sau một tháng điều trị tỷ
lệ các sản phụ chuyển từ thiếu máu sang không
thiếu máu là 48,4%.
Sau quá trình điều trị nồng độ Hemoglobin
cũng có sự thay đổi rõ rệt, nhóm thiếu máu nhẹ
Hb trước điều trị là 10,48 ± 0,28, Hb sau điều trị
là 11,37 ± 0,58; nhóm thiếu máu trung bình Hb
trước điều trị là 8,68 ± 0,98, Hb sau điều trị là
9,45 ± 1,26. Nếu xét tổng 93 trường hợp điều trị
thì Hb có sự thay đổi theo chiều hướng tăng lên,
Hb trước điều trị là 9,98 ± 0,99, Hb sau điều trị là
10,83 ± 1,19. Tất cả sự thay đổi này đều có ý
nghĩa thống kê (p< 0,05).
Kết quả của chúng tôi khá tương đồng với
nghiên cứu của Đặng Thị Hà(3). Tác giả cũng chia
làm hai nhóm sản phụ thiếu máu, nhóm 1 sử
dụng liều 100 mg ngày, nhóm 2 sử dụng liều 200
mg ngày. Sau điều trị một tháng thu được kết
quả như sau: Hb trước điều trị nhóm 1 là 9,81,
Hb sau điều trị là 10,47; nhóm 2 Hb trước điều
trị là 9,82, Hb sau điều trị là 10,2.
KẾT LUẬN
Qua thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2017
đến 03/2018 trên 388 sản phụ tới khám thai tại
bệnh viện Bình Thuận, chúng tôi đưa ra một số
kết luận như sau:
Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở phụ nữ mang thai
3 tháng đầu là 24% (KTC 95%: 19,6 – 28,6).
Một số yếu tố liên quan đến thiếu máu thiếu
sắt: Nhóm lao động chân tay làm so với nhóm
nội trợ (PR = 2,72; KTC: 1,09 – 6,77; P = 0,031),
nhóm có hai con so với nhóm chưa sinh (PR =
2,45; KTC: 1,17 – 5,13; P = 0,006) và nhóm có tiền
căn hoặc đang mắc bệnh đường tiêu hóa (PR =
1,9; KTC: 1,05 – 3,46; P = 0,034).
Tỷ lệ hết thiếu máu sau một tháng điều trị là
48,4% (KTC 95%: 37,6 – 59,1).
Nồng độ Hemoglobin thay đổi trước và
sau điều trị có ý nghĩa thống kê (trước điều trị:
9,98 ± 0,99; sau điều trị: 10,83 ± 1,19; KTC -0,96
– -0,74; p = 0,001).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bhaskaram P (2002). "Micronutrient malnutrition, infection, and
immunity: an overview". Nutr Rev, 60 (5 Pt 2): pp. S40-5.
2. Black RE, Allen LH, Bhutta ZA, Caulfield LE, de Onis M et al
(2008). "Maternal and child undernutrition: global and regional
exposures and health consequences". Lancet, 371 (9608):
pp. 243-60.
3. Đặng Thị Hà (2000). "Tầm soát thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ
tại TP. Hồ Chí Minh". Luận văn tiến sĩ y học- ĐHYD TPHCM.
4. Đoàn Thị Nga (2009). "Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt trong ba tháng
giữa thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Mỹ Tho Tiền Giang".
Luận văn thạc sĩ y học – ĐHYD TPHCM.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 62
5. Dương Thị Nhan (1996). "Tình hình thiếu máu ở phụ nữ mang
thai tại bệnh viện Châu Đốc, An Giang". Luận văn tốt nghiệp
chuyên khoa cấp I – ĐHYD TPHCM.
6. Elhassan EM, Abbaker AO, Haggaz AD, Abubaker MS, Adam I
(2010). "Anaemia and low birth weight in Medani, Hospital
Sudan". BMC Res Notes, 3: pp. 181.
7. Hallberg L (2002). "Advantages and disadvantages of an iron –
rich diet". European Journal of Clinical Nutrition, 56(1):pp. 12 – 18.
8. Isah HS, Fleming AF (1985). "Anemia and iron status of
pregnant and non-pregnant women in the Guinea Savanna of
Nigeria". Ann Trop Med Parasitol, 79 (5): pp. 485 – 493.
9. Msolla JF, J O'Riordan, RJ Newcomebe, EC Coles, JF Pearson
(1986). "Relation of hemoglobin levels in first and second
trimesters to outcome of pregnancy". Lancet, 1: pp. 992-5.
10. Phạm Thị Đan Thanh (2010). "Tỷ lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai
phụ 3 tháng đầu thai kỳ và các yếu tố liên quan tại tỉnh Bạc
Liêu". Luận văn chuyên khoa II – ĐHYD - TPHCM.
11. Pollitt E, Watkins WE, Husaini MA (1997). "Three-month
nutritional supplementation in Indonesian infants and toddler’s
benefits memory function 8 y later". Am J Clin Nutr, 66 (6): pp.
1357-63.
12. Rahmati S, Delpishe A, Azami M, Hafezi Ahmadi MR,
Sayehmiri K (2017). "Maternal Anemia during pregnancy and
infant low birth weight: A systematic review and Meta-
analysis". Int J Reprod Biomed (Yazd), 15 (3): pp. 125-134.
13. Ross JS, Thomas EL (1996). "Iron deficiency anemia and
maternal mortality". Washington; DC. Academy of education
development. Profile 3 working note series no, 3.
14. Singla PS, Tyagi M et al (1997). "Fetal growth in maternal
anemia". Journal of tropical pediatrics, 43: pp. 89 – 92.
15. Trần Thị Minh Hạnh, Phan Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Nhân
Thành (2009). "Tình trạng thiếu máu, thiếu sắt ở phụ nữ mang
thai tại thành phố Hồ Chí Minh". Tạp chí Dinh dưỡng và thực
phẩm, 5 (1):pp. 14-23.
16. Trương Thị Phương (2001). "Khảo sát tình hình thiếu máu trong
thai kỳ tại thành phố Mỹ Tho". Luận văn chuyên khoa II – ĐHYD
TPHCM.
17. Viện Dinh Dưỡng (2011). Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm
2009 – 2010. Unicef – Hà Nội, tr.6.
18. Vương Thị Ngọc Lan (1995). "Thiếu máu ở phụ nữ mang thai".
Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa, trung tâm đào tạo và bồi dưỡng
cán bộ y tế thành phố Hồ Chí Minh.
19. WHO (2001). "Prevention strategies, Iron Deficiency Anemia
Assessment, Prevention and Control", pp. 46-56.
20. WHO (2002). "Women's health profie: Vietnam". Women Health
Series, Manila, 8(24).
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_thieu_mau_thieu_sat_o_phu_nu_mang_thai_3_thang_dau_tai.pdf