Tài liệu Tỷ lệ thiếu kẽm và các yếu tố kết hợp ở phụ nữ có thai Việt Nam tại TP HCM: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015 Nghiên cứu Y học
17
TỶ LỆ THIẾU KẼM VÀ CÁC YẾU TỐ KẾT HỢP
Ở PHỤ NỮ CĨ THAI VIỆT NAM TẠI TP HCM
Nguyễn Thi Hùng*, Aya Goto*, Nguyễn Thị Từ Vân*, Võ Tuấn Khoa*, Tạ Thị Tuyết Mai*,
Nguyễn Thị Thùy Ninh*, Nguyễn Tiến Minh*, Hồ Thị Mỹ Bình*, Phan Thị Ngọc Anh*,
Vũ Thị Hồng Hạnh*, Trương Thục My*, Nguyễn Quang Vinh*
TĨM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ thiếu kẽm và các yếu tố kết hợp ở phụ nữ mang thai Việt
Nam tại TP HCM.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương TP HCM. Đối
tượng nghiên cứu là phụ nữ cĩ thai đến khám tiền sản lần đầu từ tháng 11/2011 đến tháng 6/2012, trong đĩ loại
trừ những người cĩ dùng bổ sung sinh tố và hoặc khống chất. Nồng độ kẽm đo bằng phương pháp chuẩn
colorimetric và phân loại thành bình thường và thiếu kẽm tương ứng 10.7µmol/L-17.5µmol/L (70.0g/dL-
114g/dL) và <10.7µ mol/L (70.0g/dL).
Kết quả và bàn luận: Tổng cộng cĩ 245 phụ nữ ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 447 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ thiếu kẽm và các yếu tố kết hợp ở phụ nữ có thai Việt Nam tại TP HCM, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015 Nghiên cứu Y học
17
TỶ LỆ THIẾU KẼM VÀ CÁC YẾU TỐ KẾT HỢP
Ở PHỤ NỮ CĨ THAI VIỆT NAM TẠI TP HCM
Nguyễn Thi Hùng*, Aya Goto*, Nguyễn Thị Từ Vân*, Võ Tuấn Khoa*, Tạ Thị Tuyết Mai*,
Nguyễn Thị Thùy Ninh*, Nguyễn Tiến Minh*, Hồ Thị Mỹ Bình*, Phan Thị Ngọc Anh*,
Vũ Thị Hồng Hạnh*, Trương Thục My*, Nguyễn Quang Vinh*
TĨM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ thiếu kẽm và các yếu tố kết hợp ở phụ nữ mang thai Việt
Nam tại TP HCM.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương TP HCM. Đối
tượng nghiên cứu là phụ nữ cĩ thai đến khám tiền sản lần đầu từ tháng 11/2011 đến tháng 6/2012, trong đĩ loại
trừ những người cĩ dùng bổ sung sinh tố và hoặc khống chất. Nồng độ kẽm đo bằng phương pháp chuẩn
colorimetric và phân loại thành bình thường và thiếu kẽm tương ứng 10.7µmol/L-17.5µmol/L (70.0g/dL-
114g/dL) và <10.7µ mol/L (70.0g/dL).
Kết quả và bàn luận: Tổng cộng cĩ 245 phụ nữ mang thai được tuyển chọn và 107 người (42%) tham gia.
Trung bình của tuổi mẹ và tuổi thai lần lượt là 29 năm và 10 tuần. Nồng độ kẽm trung vị trong huyết thanh là
13.6 µmol/L, và tỷ lệ thiếu kẽm là 29% (95% KTC=21%-39%). Yếu tố bổ sung chế phẩm sữa hàng ngày là yếu tố
kết hợp với tình trạng thiếu kẽm (OR hiệu chỉnh=0.40, 95% KTC= 0.16-0.99, p= 0.049). Cần nhiều dữ liệu lâm
sàng để xác định tầm mức của vấn đề chưa được quan tâm này.
Từ khĩa: Kẽm, thiếu hụt, bổ sung chế độ ăn, phụ nữ mang thai, Việt Nam.
ABSTRACT
PREVALENCE AND CORRELATES OF ZINC DEFICIENCY IN PREGNANT VIETNAMESE WOMEN
IN HO CHI MINH CITY
Nguyen Thi Hung, Aya Goto, Nguyen Thi Tu Van, Vo Tuan Khoa, Ta Thi Tuyet Mai,
Nguyen Thi Thuy Ninh, Nguyen Tien Minh, Ho Thi My Binh, Phan Thi Ngoc Anh,
Vu Thi Hong Hanh, Truong Thuc My, Nguyen Quang Vinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 6 - 2015: 17 - 22
Objectives: This study explores the prevalence of zinc deficiency and possible correlates in pregnant
Vietnamese women in Ho Chi Minh City.
Methods: This was a cross-sectional study conducted at a general hospital in Ho Chi Minh City, Vietnam.
All pregnant women who came to their first antenatal care visit from November 2011 to June 2012 were recruited.
Those taking a vitamin and/or mineral supplement were excluded. Serum zinc concentrations, determined by a
standard colorimetric method, of 10.7 mol/L-17.5 mol/L (70.0 g/dL -114 g/dL) were classified as normal and
under 10.7 mol/L (70.0 g/dL) as zinc deficient.
Results and discussion: In total, 254 pregnant women were invited and 107 (42%) participated. The mean
age of participants was 29 years, and mean gestational age was 10 weeks. Median zinc concentration in serum
was 13.6 mol/L, and the prevalence of zinc deficiency was 29% (95% confidence interval (CI) 21% - 39%). The
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Tác giả liên lạc: ThS BS Nguyễn Quang Vinh, ĐT: 0913900209 Email: vinhtuvan90@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
18
daily intake of a milk product supplement was the only significant correlate of zinc deficiency of the items
investigated (adjusted odds ratio=0.40, 95% CI=0.16-0.99, p=0.049). Further academic and clinical input is
needed to confirm the scale of this neglected issue.
Keywords: Zinc, deficiency, dietary supplement, pregnant women, Vietnam.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới(1), tỷ
lệ thiếu kẽm là 31% với khoảng thay đổi từ 4%
đến 73%. Tỷ lệ lưu hành cao ở những vùng dân
cư cĩ chế độ ăn chủ yếu là gạo và khơng ăn thức
ăn giàu kẽm như động vật, hàu và sị(1) . Việt
Nam là một trong những vùng đĩ.
Kẽm là một loại vi chất thiết yếu trong
chuyển hĩa, điều hịa sự phát triển cũng như biệt
hĩa tế bào trong cơ thể(4) .Vì thế thiếu kẽm dẫn
đến hàng loạt các rối loạn mang tính hệ thống
trong cơ thể như suy giảm phát triển thể chất,
khiếm khuyết hệ miễn dịch và các vấn đề phát
triển tâm thần kinh. Do vậy, tác động lâm sàng
của thiếu kẽm ở phụ nữ mang thai rất quan
trọng; các biến chứng cĩ thể xảy ra từ tình trạng
vơ sinh và tử vong thai nhi cho đến tình trạng
chậm phát triển trong tử cung, sinh non và các
bất thường khác(18). Hơn nữa, cũng cĩ thể xảy ra
các biến chứng sau sanh như bất thường hành vi
liên quan thần kinh và khiếm khuyết miễn dịch.
Tại các nước châu Á, tỷ lệ thiếu kẽm ở phụ
nữ mang thai chiếm khá cao; Trung Quốc
(45% ở tam cá nguyệt cuối, tiêu chuẩn thiếu
kẽm <10,5 µmol/L(3), Bangladesh (55% ở tam cá
nguyệt giữa, <8,6 µmol/L)(11 ) và Ấn Độ (65% ở
tam cá nguyệt cuối, 9,9 µmol/L)(16). Tại Việt
Nam, ấn bản “Chiến lược Dinh dưỡng Quốc gia
giai đoạn 2011-2020 và hướng đến 2030” mới
được cơng bố. Mặc dù các mục tiêu chính số 2
và số 3 là cải thiệu tình trạng dinh dưỡng và vi
chất của bà mẹ trẻ em, nhưng dữ liệu thực tế
cơng bố chỉ về tình trạng thiếu máu. Tỷ lệ
thiếu kẽm ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại
Việt Nam cao khoảng 67% (<10.1 µmol/L)(16),
nhưng hiện vẫn chưa cĩ dữ liệu ghi nhận tỷ lệ
lưu hành thiếu kẽm ở phụ nữ mang thai.
Chúng tơi tiến hành nghiên cứu này chủ yếu
đánh giá tỷ lệ thiếu kẽm và các yếu tố kết hợp
ở phụ nữ mang thai tại TP.HCM, Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang thực hiện tại Bệnh
viện Nguyễn Tri Phương (bệnh viện đa khoa
tuyến 3 với qui mơ 700 giường), TP.HCM từ
11/2011 đến 6/2012.
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Tất cả phụ nữ mang thai đến khám tiền sản
lần đầu được tuyển chọn và thơng tin về nghiên
cứu, bao gồm việc phỏng vấn và lấy máu xét
nghiệm. Tất cả đối tượng đều được giải thích
mục tiêu nghiên cứu và ký thỏa thuận đồng ý
tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Tiêu chuẩn loại trừ là phụ nữ được kê toa
hay cĩ dùng các sản phẩm bổ sung vitamin và/
hoặc khống chất hoặc bất kỳ “sản phẩm dưỡng
thai”; mắc đái tháo đường. Việc dùng các sản
phẩm này hay mắc đái tháo đường làm thay đổi
kết quả đo nồng độ kẽm huyết thanh.
Một nghiên cứu dinh dưỡng gần đây tại TP
HCM cho thấy hơn 50% phụ nữ cĩ dùng chế
phẩm bổ sung(9) và một số cĩ chứa kẽm cĩ thể
làm che mờ tình trạng thiếu kẽm. Tương tự tại
châu Á, việc bổ sung sắt và canxi quá mức cùng
với đái tháo đường lúc mang thai cĩ thể làm ảnh
hưởng đến nồng độ kẽm huyết thanh(8,18).
Phương pháp thu thập số liệu
Để đảm bảo tính đồng nhất trong quá
trình nghiên cứu, hai nữ hộ sinh được chỉ định
và được huấn luyện để phỏng vấn tất cả đối
tượng. Ngồi ra, họ cũng sử dụng các dụng cụ
đo lường nhân trắc và cơng cụ nghiên cứu. Bộ
câu hỏi phỏng vấn bao gồm thơng tin cơ bản
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015 Nghiên cứu Y học
19
(tuổi, tình trạng hơn nhân), kinh tế xã hội
(trình độ học vấn, nghề nghiệp, sở hữu nhà),
lối sống (hút thuốc lá, ăn chay, bổ sung chế
phẩm sữa hàng ngày), và câu hỏi liên quan
thai kỳ (tuổi thai, tiền sử sản khoa). Nhằm
tránh gây ra những bận rộn quá mức, khơng
phù hợp với thực tế của một nghiên cứu được
tiến hành tại phịng khám ngoại trú, độ dài
của phần phỏng vấn được thiết kế chỉ trong
một trang. Chúng tơi tham khảo các bài báo
trước để chọn các câu hỏi trong bộ câu hỏi của
mình và xây dựng kế hoạch xử lý (1,8,10,16). Tình
trạng kinh tế xã hội được đưa vào bởi vì tác
động lên dinh dưỡng(2,16) và những câu liên
quan tình trạng này đã được chọn trong một
nghiên cứu trước đây tại Nepal(7) Hút thuốc
(hay khơng) được tính đến vì cĩ nghiên cứu
ghi nhận kết hợp với tình trạng thiếu kẽm(8).
Ăn chay cũng được khảo sát vì những thức ăn
nguồn gốc động vật rất giàu kẽm và tại Việt
Nam cĩ chế độ ăn chay truyền thống, tránh ăn
thịt trong vài ngày mỗi tháng.
Bảng câu hỏi cũng thu thập thơng tin về việc
bổ sung sữa và các chế phẩm sữa vì 3 lý do: bổ
sung sữa đang trở nên phổ biến trong số các thai
phụ ở TP HCM; chiến lược quốc gia (như đã nêu
trên) khuyến cáo tăng cường thức ăn; và sữa
tăng cường sắt được ghi nhận như là phương
pháp hiệu quả cải thiện tình trạng thiếu sắt ở
thai phụ tại Việt Nam(10). Các chế phẩm sữa cho
thai phụ do cơng ty trong nước và nước ngồi
sản xuất và thơng thường tăng cường vitamin,
sắt, kẽm và DHA. Rất dễ mua sữa với giá 170-
180 ngàn cho mỗi lon sữa 400g.
Tuổi thai được xác định bằng siêu âm. Chiều
cao của mẹ bằng thước đo đứng sai số 0,5cm, cân
nặng (khi mặc áo mỏng) đo bằng cân số Tanita
với sai số 0,5kg và nữ hộ sinh đo huyết áp bằng
tay. Chỉ số khối cơ thể được phân thành nhị giá
dựa vào mốc 18,5 như là một chỉ số về tinh trạng
dinh dưỡng của thai phụ.
Chúng tơi lấy máu bằng ống Versenate
(EDTA), cĩ nắp đậy bằng cao su khơng chứa
kẽm tại phịng xét nghiệm bệnh viện. Việc chuẩn
hĩa và chuẩn độ được thực hiện định kỳ với mỗi
loạt mẫu thử chạy trên máy Olympus AU400
apparatus. Đo nồng độ kẽm huyết thanh bằng
phương pháp chuẩn colorimetric(5). Giá trị dưới
10,7 µmol/L (71 µg/dL) gọi là thiếu kẽm, và trong
khoảng 10,7 µmol/L-17,5 µmol/L (71 µg/dL-114
µg/dL) là bình thường. Ngồi ra, chúng tơi cịn
đo nồng độ albumin, huyết sắc tố và ferritin. Cả
hai albumin và ferritin đều gắn với kẽm.
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm Stata
phiên bản 12,0. Dùng phân phối nhị thức để tính
95% khoảng tin cậy của tỷ lệ thiếu kẽm, và hồi
qui logistic đã đánh giá sự kết hợp của thiếu kẽm
(cĩ hoặc khơng) với các yếu tố được ghi nhận ở
bảng 1. Để xác định mối liên quan cĩ ý nghĩa
trong mơ hình đơn biến, hồi qui đa biến logistic
được dùng với thiếu kẽm là biến độc lập, những
biến số cĩ sự khác biệt cĩ ý nghĩa thống kê là
biến phụ thuộc, ngồi ra các biến số gây nhiễu
tiềm tàng như 3 thành phần về kinh tế xã hội
(trình độ học vấn, nghề nghiệp, sở hữu nhà), và
hai biến số về dinh dưỡng (BMI, ăn chay) cũng
được đưa vào mơ hình để kiểm sốt.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng cộng cĩ 254 thai phụ thỏa tiêu chí
nghiên cứu được mời vào sau khi loại trừ 55
người do đã dùng bổ sung vitamin khống chất,
và do khơng đánh giá được đái tháo đường.
Khơng cĩ người bị loại khỏi nghiên cứu vì bị đái
tháo đường. Trong số 254 thai phụ, 147 (58%)
người từ chối và 107 (42%) đồng ý tham gia.
Khơng cĩ khác biệt đáng kể giữa hai nhĩm này
về tuổi mẹ, tuổi thai và số lần mang thai trước.
Bảng 1 cho thấy tuổi trung bình của mẹ là 29
năm và tuổi thai là 10 tuần. 60% cĩ học vấn từ
trung học cơ sở trở xuống, 8% là cơng nhân, và
38% chưa cĩ nhà riêng. 32% cĩ ăn chay và 64%
cĩ dùng chế phẩm sữa bổ sung hàng ngày.
Nồng độ kẽm trung vị trong huyết thanh là
13,6 µmol/L, thay đổi từ 1,3 µmol/L đến 19,9
µmol/L. Tỷ lệ thiếu kẽm (<10,7 µmol/L) là 31/107
(29%; 95% KTC=21%-39%).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
20
Bảng 1: Các yếu tố kết hợp với tình trạng thiếu kẽm ở phụ nữ mang thai Việt Nam
Trung bình (ĐLC), trung vị (max; min)†, hoặc tần
xuất (%)
Phân tích hồi qui
Tổng
(N=107)
Thiếu kẽm
(N=31)
Kẽm bình thường
(N=76)
OR thơ‡
(95% CI)
OR hiệu
chỉnh§
(95% KTC)
Thơng tin căn bản
Tuổi mẹ (năm) 28,7 (4,6) 28,4 (4,3) 28,9 (4,7) 0,98 (0,89-1,07) -
Tuổi thai (tuần) 10 (6; 23) 9 (6,5; 20) 10 (6; 23) 0,93 (0,80-1,08) -
Số con (làm mẹ lần đầu) 42 (39%) 15 (48%) 27 (36%) 1,05 (0,97-1,15) -
Tình trạng kinh tế xã hội
Học vấn (trung học cơ sở trở xuống) 60 (56%) 18 (58%) 42 (55%) 1,01 (0,96-1,06) -
Nghề nghiệp
(tự kiếm sống hàng ngày)
9 (8%) 2 (6%) 7 (9%) 0,68 (0,13-3,47) -
Nhà riêng (khơng) 41 (38%) 9 (29%) 32 (42%) 0,94 (0,85-1,04) -
Yếu tố liên quan lối sống
Hút thuốc lá thụ động ở nhà (cĩ) 61 (57%) 21 (68%) 40 (53%) 1,89 (0,79-4,54) -
Ăn chay (cĩ) 34 (32%) 9 (29%) 25 (33%) 0,83 (0,34-2,08) -
Bổ sung sữa hàng ngày (cĩ) 68 (64%) 15 (48%) 53 (70%) 0,41 (0,17-0,96) 0,40
(0,16-0,99)
Yếu tố nhân trắc
BMI (< 18,5kg/m
2
) 21 (20%) 7 (23%) 14 (18%) 1,29 (0,46-3,59) -
Xét nghiệm máu
Albumin (g/L) 41,5 (24,9; 51,3) 42,0 (34,9; 45,5) 41,5 (24,9; 51,3) 0,98 (0,86-1,11) -
Hemoglobin (g/L) 123,2 (10,9) 122,5 (10,6) 123,5 (11,0) 0,99 (0,95-1,03) -
Ferritin (mg/L) 78,0 (6,8; 268,1) 83,5 (8,0; 268,1) 77,5 (6,8; 250,0) 1,00 (0,99-1,01) -
Trung bình với biến cĩ phân phối bình thường và trung vị cho biến khơng cĩ phân phối bình thường. ĐLC =độ lệch chuẩn. ‡
Biến độc lập là tình trạng thiếu kẽm (cĩ hoặc khơng). Biến phụ thuộc được liệt kê ở cột bên trái. Biến phân loại là nhị giá và
nhĩm tham chiếu là các nhĩm sau: số con (đối với mẹ đã sanh con), trình độ học vấn (từ trung học phổ thơng trở lên), nhà
riêng (cĩ), hút thuốc lá thụ động ở nhà (khơng), ăn chay (khơng), bổ sung chế phẩm sữa hàng ngày (khơng), và BMI (>18,5
kg/m2). Hiệu chỉnh cho 3 yếu tố tình trạng kinh tế xã hội (trình độ học vấn, nghề nghiệp, và sở hữu nhà riêng) và hai yếu tố
dinh dưỡng (BMI và ăn chay). Khơng cĩ phụ nữ mang thai nào hút thuốc, và dữ liệu chỉ gồm hút thuốc lá thụ động.
Trong các yếu tố ở bảng 1, chỉ duy nhất tình
trạng bổ sung chế phẩm sữa hàng ngày cĩ liên
hệ với tình trạng thiếu kẽm: 48% thai phụ thiếu
kẽm so với 70% thai phụ cĩ nồng độ kẽm bình
thường (OR thơ=0,41, 95% KTC=0,17 - 0,96, p
0,04) (Bảng 1). Các yếu tố này vẫn cĩ ý nghĩa
thống kê sau khi hiệu chỉnh với tình trạng kinh
tế xã hội và tình trạng dinh dưỡng (OR hiệu
chỉnh=0,40, 95% KTC=0,16-0,99, p=0.049).
BÀN LUẬN
Đây là nghiên cứu đầu tiên ghi nhận tỷ lệ
thiếu kẽm ở thai phụ Việt Nam đến khám tiền
sản lần đầu tại một bệnh viện đa khoa tại TP
HCM. Trong quần thể nghiên cứu này, tỷ lệ
thiếu kẽm khoảng 30%, rất gần với tỷ lệ ước
tính tồn cầu của Tổ chức Y tế thế giới(1) nhưng
thấp hơn nhiều tỷ lệ đã nĩi ở trên của phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ tại Việt Nam và thai phụ
tại Trung Quốc, Bangladesh, và Ấn Độ(3,16) Một
lý do cĩ thể giải thích tỷ lệ này là khác biệt giữa
nơng thơn và thành thị. Các nghiên cứu trước
tập trung tại các vùng nơng thơn(3,16) nghiên cứu
này thực hiện tại một đơ thị mà tỷ lệ ăn các sản
phẩm từ thịt cao hơn, cũng tương đương như
tình trạng béo phì(2,6). Một cách giải thích khác là
nhĩm thai phụ đến khám tiền sản lần đầu tại
một bệnh viện tuyến ba cĩ những đặc điểm
chuyên biệt, cũng như sự sẵn lịng tham gia vào
nghiên cứu. Kết quả của chúng tơi thấp hơn kết
quả của một nghiên cứu phân tầng nơi cư trú
tại Việt Nam ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
(63%)(16). Trong nghiên cứu của chúng tơi với
58% cĩ học vấn thấp, 67% làm cơng nhân, và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015 Nghiên cứu Y học
21
73% chưa cĩ nhà riêng là những người cĩ bổ
sung chế phẩm sữa hàng ngày cho thấy một ý
thức cao về tình trạng sức khỏe trong nhĩm
quần thể nghiên cứu.
Một điều đáng ghi nhận việc bổ sung sữa
trên thị trường ở thai phụ dường như là một yếu
tố bảo vệ đối với tình trạng thiếu kẽm, ngay cả
khi hiệu chỉnh theo các biến số tình trạng kinh tế
xã hội và yếu tố dinh dưỡng. Dù cĩ bằng chứng
về tác dụng cĩ lợi của kẽm ở thai phụ, nhưng
việc bổ sung kẽm đơn độc chưa cĩ tác dụng tốt ở
các nước đang phát triển(3). Kết quả từ một bài
báo tổng hợp trên Cochrane(15) kết luận nguy cơ
sinh non liên quan thiếu kẽm chỉ cĩ thể phản
ánh khía cạnh dinh dưỡng kém nĩi chung và cần
nỗ lực hơn để tập trung các thức để cải thiện tình
trạng dinh dưỡng tồn bộ cho dân số hơn là chỉ
tập trung vào bổ sung kẽm một cách riêng lẻ.
Cùng kết quả với nghiên cứu trên Cochrane, kết
quả từ một nghiên cứu trước đây về phịng ngừa
thiếu sắt cho thấy việc tăng cường sữa cũng cĩ
hiệu quả làm tăng cân ở thai phụ, do những lợi
ích thêm vào về năng lượng và nguồn dinh
dưỡng(10). Tỷ lệ tiêu thụ sữa tại Việt Nam tăng
20% từ 2005 đến 2010, với gần 80% sản lượng chỉ
ở hai thành phố lớn nhất (TP HCM và Hà Nội)(13)
, điều này cho thấy việc tăng cường sữa chỉ là
chiến lược mang tính địa phương. Chúng ta cần
nhiều nghiên cứu lớn hơn với thơng tin chi tiết
về thĩi quen ăn uống để đánh giá các tác động
của sữa ở thai phụ Việt Nam.
Cĩ hai giới hạn chính trong nghiên cứu.
Thứ nhất, chúng tơi cĩ khĩ khăn khi tuyển
chọn thai phụ đến đến tiền sản lần đầu. Mặc
dù bệnh viện tuyến ba chúng tơi là bệnh viện
trung tâm, là nơi chăm sĩc tiền sản phổ biến
nhất tại Việt Nam(14), hầu hết thai phụ đến
khám sau khi khám ở bệnh viện khác, phịng
khám hoặc trung tâm khác. Ngồi ra, khoảng
phân nữa đối tượng từ chối tham gia vì cĩ liên
quan đến lấy máu xét nghiệm và thuật ngữ
“kẽm” nhiều chưa trở nên quen thuộc với
nhiều người. Tuy khơng cĩ khác biệt về các
đặc tính căn bản giữa nhĩm tham gia và
khơng tham gia nghiên cứu, cần lý giải thận
trọng các kết quả cĩ ý nghĩa âm tính, và cần cố
gắng để tăng cỡ mẫu và tỷ lệ tham gia. Ngồi
ra, chúng tơi thiếu dữ liệu chi tiết về tình trạng
kinh tế xã hội, chế độ ăn và chỉ là loại trừ
những người cĩ dùng thuốc bổ sung. Trong
tương lai cần thu thập nhiều dữ liệu hơn bởi
nhiều nghiên cứu lớn hơn về lĩnh vực này.
Mặc dù cĩ những giới hạn, chúng tơi hy vọng
nghiên cứu mang tính khảo sát này cĩ thể cĩ
một vai trị quan trọng trong việc gia tăng
nhận thức về mặt lý thuyết và thực tế lâm
sàng, và gĩp phần thúc đẩy việc thực hiện
những nghiên cứu dọc lớn hơn về tình trạng
thiếu kẽm ở thai phụ Việt Nam.
Lời cảm ơn: Chúng tơi chân thành cám ơn sự hợp tác của khoa
Phụ sản và khoa Xét nghiệm Bệnh viện Nguyễn Tri Phương,
thành phố Hồ Chí Minh Việt Nam. Nhĩm tác giả cũng cám ơn
những đồng nghiệp phản biện kín vì những đĩng gĩp cĩ giá trị để
cải thiện chất lượng của bài báo.
CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
Chúng tơi cơng bố khơng cĩ xung đột về lợi
ích liên quan bài báo. Nghiên cứu này là một
phần trong chương trình hợp tác giữa Đại học Y
Dược, Hội Y học TP. Hồ Chí Minh và JICA mang
tên “Capacity building toward evidence based
medicine among health care professionals at
University of Medicine and Pharmacy, Ho Chi Minh
City and its related institutes”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Caulfield LE, Black RE. Zinc deficiency. In.Ezzati M, Lopez
AD, Rodgers A and Christopher JL, Murray CJL, editors
(2004). Comparative quantification of health risks: global and
regional burden of disease attributable to selected major risk
factors. Geneva: World Health Organization; 257-80.
2. Chandyo RK, Strand TA, Mathisen M, Ulak M, Adhikari RK,
Bolann BJ, Sommerfelt H (2009). Zinc deficiency is common
among healthy women of reproductive age in Bhaktapur,
Nepal. J Nutr;139:594-7. doi: 10.3945/jn.108.102111.
3. Do TPH, Feskens EJ, Deurenberg P, Le BM, Nguyen CK, Kok
FJ. Nationwide shifts in the double burden of overweight and
underweight in Vietnamese adults in 2000 and2005: two
national nutrition surveys. BMC Public Health. 2011;11:62. doi:
10.1186/1471-2458-11-62. doi: 10.1002/bdrb. 20264 .
4. Hambidge M (2000) Human Zinc Deficiency. J Nutr
130:1344S-9S.
5. Hoa PT, Khan NC, van Beusekom C, Gross R, Conde WL,
Khoi HD (2005). Milk fortified with iron or iron
supplementation to improve nutritional status of pregnant
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 6 * 2015
22
women: an intervention trial from rural Vietnam. Food Nutr
Bull.26: 32-8.
6. Johnsen O, Eliasson R (1987). Evaluation of a commercially
available kit for the colorimetric determination of zinc in
human seminal plasma. Int J Androl. 1987;10:435-40. doi:
10.1111/j.1365-2605.tb00216.x
7. King JC (2000). Determinants of maternal zinc status during
pregnancy. Am J Clin Nutr.71:1334S-43S.
8. Kusama K, Duc SNTL, Tran TMH, Takahashi K, Nguyen
TKH, Yoshiike N, Yamamoto S (2005). Reproducibility and
validity of a food frequency questionnaire among Vietnamese
in Ho Chi Minh City. J Am Coll Nutr. 24:466-73.
9. Laillou A, Pham TV, Tran NT, Le HT, Wieringa F, Rohner F,
et al (2012). Micronutrient deficits are still public health issues
among women and young children in Vietnam. PLoS
One.7:e34906. doi: 10.1371/journal.pone.0034906
10. Le ND, Nguyen MT, Bentley ME (2004). Food consumption
patterns in the economic transition in Vietnam. Asia Pac J Clin
Nutr. 13:40-57.
11. Lindstrưm E, Hossain MB, Lưnnerdal B, Raqib R, El Arifeen S,
Ekstrưm EC (2011). Prevalence of anemia and micronutrient
deficiencies in early pregnancy in rural Bangladesh, the
MINIMat trial. Acta Obstet Gynecol Scand. 90:47-56.doi:
10.1111/j.1600-0412.2010.01014.x
12. Ma AG, Chen XC, Xu RX, Zheng MC, Wang Y, Li JS (2004).
Comparison of serum levels of iron, zinc and copper in
anaemic and non-anaemic pregnant women in China. Asia Pac
J Clin Nutr. 13:348-52.
13. Mori R, Ota E, Middleton P, Tobe-Gai R, Mahomed K,
BhuttaZA (2012). Zinc supplementation for improving
pregnancy and infant outcome. Cochrane Database Syst
Rev.7:CD000230. doi 10.1002/14651858.CD000230.pub4:
14. Nguyen VK (2013). Wicked problems: a value chain approach
from Vietnam’s dairy product. Springer Plus. 2:161.doi:
10.1186/2193-1801-2-161
15. Osendarp SJ, West CE, Black RE (2003). Maternal Zinc
Supplementation Study Group. The need for maternal zinc
supplementation in developing countries: an unresolved
issue. J Nutr.133:817S-27S.
16. Pathak P, Kapil U, Dwivedi SN, Singh R (2008). Serum zinc
levels amongst pregnant women in a rural block of Haryana
state, India. Asia Pac J Clin Nutr.17:276-9.
17. Tran TK, Nguyen CT, Nguyen HD, Eriksson B, Bondjers G,
Gottvall K, Ascher H, Petzold M (2011). Urban - rural
disparities in antenatal care utilization: a study of two cohorts
of pregnant women in Vietnam. BMC Health Serv Res.
11:120.doi: 10.1186/1472-6963-11-120
18. Uriu-Adams JY, Keen CL (2010). Zinc and reproduction:
effects of zinc deficiency on prenatal and early postnatal
development. Birth Defects Res B Dev Reprod Toxicol. 89: 313-25.
Ngày nhận bài báo: 07/09/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/10/2015
Ngày bài báo được đăng: 05/11/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 17_2_9499_2178189.pdf