Tài liệu Tỷ lệ sử dụng thực phẩm chức năng của phụ nữ đến khám tại Trung tâm y tế huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, năm 2017: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 29
TỶ LỆ SỬ DỤNG THỰC PHẨM CHỨC NĂNG CỦA PHỤ NỮ ĐẾN KHÁM
TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN, NĂM 2017
Nguyễn Thị Thùy Duyên*, Tạ Thị Kim Ngân**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiện nay ngày càng có nhiều người quan tâm và sử dụng thực phẩm chức năng, do vậy
để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, các nhà sản xuất kinh doanh đã đưa ra thị trường nhiều loại thực
phẩm chức năng khác nhau với mục đích sử dụng khác nhau. Tuy nhà nước đã có nhiều quy định pháp luật
về việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức năng nhưng thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Điều này làm cho
các nhà kinh doanh lợi dụng kẽ hở để lách luật, đưa ra thị trường nhiều loại thực phẩm chức năng không rõ
nguồn gốc, kém chất lượng, gây hoang mang cho người tiêu dùng khi mua sắm và ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe khi sử dụng. Nghiên cứu này cung cấp cơ sở tham khảo để đưa ra các hướng dẫn thích hợp cho sức
khoẻ người dân ...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ sử dụng thực phẩm chức năng của phụ nữ đến khám tại Trung tâm y tế huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, năm 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 29
TỶ LỆ SỬ DỤNG THỰC PHẨM CHỨC NĂNG CỦA PHỤ NỮ ĐẾN KHÁM
TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN, NĂM 2017
Nguyễn Thị Thùy Duyên*, Tạ Thị Kim Ngân**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiện nay ngày càng có nhiều người quan tâm và sử dụng thực phẩm chức năng, do vậy
để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, các nhà sản xuất kinh doanh đã đưa ra thị trường nhiều loại thực
phẩm chức năng khác nhau với mục đích sử dụng khác nhau. Tuy nhà nước đã có nhiều quy định pháp luật
về việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm chức năng nhưng thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Điều này làm cho
các nhà kinh doanh lợi dụng kẽ hở để lách luật, đưa ra thị trường nhiều loại thực phẩm chức năng không rõ
nguồn gốc, kém chất lượng, gây hoang mang cho người tiêu dùng khi mua sắm và ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe khi sử dụng. Nghiên cứu này cung cấp cơ sở tham khảo để đưa ra các hướng dẫn thích hợp cho sức
khoẻ người dân bằng cách phân tích nhận thức sử dụng và nhu cầu của phụ nữ về thực phẩm chức năng.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ sử dụng thực phẩm chức năng của phụ nữ đến khám tại Trung tâm y tế
huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên năm 2017.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn phỏng vấn 373 phụ nữ đến
khám tại Trung tâm y tế huyện Tuy An năm 2017.
Kết quả: Tỷ lệ sử dụng thực phẩm chức năng là 23,1%, trong đó có 87% phụ nữ hài lòng về hiệu quả
của thực phẩm chức năng và 52,3% phụ nữ tiếp tục sử dụng thực phẩm chức năng.
Kết luận: Người tiêu dùng nên tìm hiểu kỹ sản phẩm trước khi mua và mua những thực phẩm chức
năng rõ nguồn gốc của nhà sản xuất uy tín.
Từ khóa: thực phẩm chức năng, đánh giá, nhu cầu sử dụng, phụ nữ, khám bệnh.
ABSTRACT
THE PROPORTION OF USING FUNCTIONAL FOODS OF WOMEN TO EXAMINE AT THE HEALTH
CENTER OF TUY AN DISTRICT, PHU YEN PROVINCE IN 2017
Nguyen Thi Thuy Duyen, Ta Thi Kim Ngan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 29 - 36
Background: More people currently interests in and use functional foods, so to adapt the needs of
consumers, manufacturers have introduced various functional foods for different purposes and clients.
Although the government has many legal regulations on production and trading of functional foods, there
are still many inadequacies in reality. Businessmen use loophole to break the law and many functional foods
those unknown origin, poor quality were come onto the market. This causes panic and anxiety for
consumers to buy and affect their health while using functional foods. This study was performed to provide
a reference base for suggesting proper guidelines for the health of the people by analyzing perception and
identifying needs of women on health functional foods.
Objectives: To determine the proportion of using functional foods of women to examine at the health
center of Tuy An district, Phu Yen province in 2017
Methods: This is a cross sectional descriptive study, using questionnaires to directly interview 373
* BS Y học dự phòng, ĐH Y Dược TPHCM, ** Khoa YTCC, ĐH Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Thùy Duyên ĐT: 01676207002 Email:thuyduyen.yhdp11.yds@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
30 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản
women who came to the health center of Tuy An district, Phu Yen province in 2017
Results: The proportion of using functional foods was 23.1%, in which 87% of women were satisfied
with efficiency of functional foods and 52.3% of women were going to continue to use functional foods.
Conclusion: Consumers should thoroughly find out products before buying and should buy functional
foods with specific original source of reputable manufacturers.
Keywords: Functional foods, evaluation and demand, women, examine.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thực phẩm chức năng (TPCN) là thực
phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của cơ thể
con người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái,
tăng sức đề kháng, giảm bớt nguy cơ mắc
bệnh, bao gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm
bảo vệ sức khoẻ, thực phẩm dinh dưỡng y
học(7). Hiện nay nhu cầu sử dụng TPCN ngày
càng tăng cùng với sự quan tâm về chất lượng
sống. Tại Việt Nam, số người sử dụng TPCN
ngày càng tăng. Chỉ tính những người sử
dụng TPCN qua kênh bán hàng đa cấp cho
thấy: năm 2005 có khoảng 1 triệu người ở 23
tỉnh (1,1% dân số) sử dụng TPCN, năm 2010
đã tăng lên 5.700.000 người ở khắp 63 tỉnh,
thành phố (chiếm 6,6% dân số) sử dụng
TPCN(2).
Để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng,
các nhà sản xuất kinh doanh đã đưa ra thị
trường nhiều loại TPCN khác nhau với mục
đích sử dụng khác nhau cho các đối tượng
khác nhau. Tuy nhà nước đã có nhiều quy
định pháp luật về việc sản xuất, kinh doanh
TPCN nhưng vẫn còn nhiều bất cập trong
thực tiễn. Điều này đã làm cho các nhà sản
xuất kinh doanh lợi dụng kẽ hở để lách luật,
đưa ra thị trường nhiều loại TPCN không rõ
nguồn gốc, kém chất lượng, bán hàng đa cấp,
sai phạm về quảng cáo TPCN, vi phạm luật
khám chữa bệnh v.vgây tâm lý hoang mang,
lo sợ cho người tiêu dùng khi mua TPCN và
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe nếu sử dụng
không đúng cách hay dùng TPCN giả.
Trong gia đình, phụ nữ đóng vai trò quan
trọng trong quyết định chi tiêu và thường là
người đưa ra các quyết định mua sắm các sản
phẩm dinh dưỡng. Họ cũng quan tâm sức
khỏe, sắc đẹp bản thân, chăm sóc sức khỏe gia
đình và chi tiêu nhiều hơn. Do vậy nhu cầu sử
dụng và tỷ lệ sử dụng TPCN của phụ nữ cao
hơn. Ngoài ra, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
việc sử dụng TPCN của phụ nữ: môi trường,
nhận thức của người phụ nữ, điều kiện kinh
tế. Tuy nhiên những nghiên cứu về việc sử
dụng TPCN ở phụ nữ lại khá ít ở Việt Nam. Vì
thế, nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác
định tỷ lệ sử dụng TPCN và đánh giá sự hài
lòng cũng như nhu cầu về TPCN của phụ nữ;
từ đó cung cấp cơ sở tham khảo cho cơ sở y tế
có những hướng dẫn sử dụng TPCN thích hợp
cho người dân. Nghiên cứu cũng cung cấp
thông tin cho những cơ sở sản xuất TPCN cải
thiện chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang mô tả, phỏng vấn
trực tiếp phụ nữ tuổi từ 19 trở lên đến khám
tại trung tâm y tế huyện Tuy An. Cỡ mẫu
được tính dựa vào kết quả nghiên cứu trước
đó của Lim Heesook, Kim Tae-Hee Kim thực
hiện tại Bệnh viện Đại học Soonchunhyang,
Bucheon, Hàn Quốc năm 2014, cỡ mẫu dự kiến
là 373 phụ nữ(4). Trong nghiên cứu này chúng
tôi phỏng vấn toàn bộ những người phụ nữ từ
19 tuổi trở lên, đến khám tại trung tâm y tế
huyện Tuy An vào thời điểm nghiên cứu
(tháng 6 năm 2017) cho đến khi đủ cỡ mẫu ước
lượng, được 373 người.
Dữ liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi
soạn sẵn có cấu trúc gồm 4 phần: đặc điểm cá
nhân (13 câu hỏi), nhận thức về TPCN (4 câu
hỏi), sử dụng TPCN (8 câu hỏi), đánh giá sự
hài lòng về TPCN và nhu cầu TPCN (6 câu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 31
hỏi). Dữ kiện được xử lý bằng phần mềm
Epidata 3.1 và STATA 12.0.
Đề cương nghiên cứu đã được phê duyệt
bởi hội đồng khoa học đào tạo của khoa Y tế
công cộng, đại học y dược thành phố Hồ Chí
Minh và cuộc phỏng vấn được thực hiện khi
có sự đồng ý của những phụ nữ tham gia
nghiên cứu.
KẾT QUẢ
Những phụ nữ tham gia nghiên cứu có độ
tuổi từ 19 trở lên, tất cả đều là người dân tộc
Kinh, phần lớn là không theo đạo (84,2%), có
trình độ học vấn thấp hơn trung học phổ
thông là 62,7%, nghề nghiệp chủ yếu là nội trợ
và nông dân (47,9%). Trong nghiên cứu này có
184 người không rõ thu nhập chiếm 49,3% và
phần lớn đối tượng có thu nhập từ 2 triệu
đồng/tháng trở xuống (16,9%). Điều kiện kinh
tế gia đình hầu hết ở mức trung bình chiếm
83,7%. Hầu hết các đối tượng đều đã kết hôn
(92,8%).
Tình trạng sức khỏe của đa số phụ nữ
trong nghiên cứu này là bình thường và tốt
chiếm tỷ lệ lần lượt là 57,6% và 21,7%. Có
74,8% phụ nữ tham gia vào nghiên cứu chưa
từng mắc bệnh trước đó. Khám thai/sinh con
là lý do chủ yếu của các phụ nữ đến Trung
tâm y tế (42,1%), 26,9% phụ nữ đến khám vì
bệnh phụ khoa. Trong nghiên cứu này, phụ
nữ mãn kinh chiếm tỷ lệ 15,8%.
Tỷ lệ sử dụng TPCN
Đa số phụ nữ trong nghiên cứu này là
không quan tâm đến TPCN hoặc là rất ít quan
tâm chiếm tỷ lệ lần lượt là 38,8% và 25,7%, và
không hiểu biết gì về TPCN cũng chiếm đa số
là 65,1%. Số phụ nữ tin vào hiệu quả khoa học
của TPCN chiếm tỷ lệ 53,1%. Đa số phụ nữ
biết về TPCN từ tivi/radio chiếm tỷ lệ 49,1%
và người quen là 42,6%.
Bảng 1. Nhận thức của đối tượng về TPCN
(n=373)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Mức độ quan tâm đến TPCN
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Rất nhiều
Nhiều
Có quan tâm
Rất ít
Không quan tâm
20
11
101
96
145
5,4
3,0
27,1
25,7
38,8
Mức độ hiểu biết về TPCN
Hiểu chính xác về loại và
hiệu quả TPCN
Chỉ biết về loại TPCN
Chỉ biết về hiệu quả TPCN
Không hiểu gì
18
58
54
243
4,8
15,6
14,5
65,1
Mức độ tin cậy về mặt hiểu
quả, khoa học của TPCN
Rất tin cậy
Tin cậy
Hơi/khá tin cậy
Không đáng tin cậy
Không biết
20
75
103
23
152
5,4
20,1
27,6
6,2
40,7
Nguồn cung cấp thông tin
TPCN
Tivi/radio
Internet
Sách báo/tờ rơi
Người quen
Bác sĩ/dược sĩ/NVYT
Nhân viên bán sản phẩm
183
82
14
159
22
36
49,1
22,0
3,8
42,6
5,9
9,7
Bảng 2. Tỷ lệ sử dụng TPCN (n=373)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Sử dụng TPCN
Có 86 23,1
Không 151 40,5
Đã từng 136 36,4
Tỷ lệ hiện có sử dụng TPCN của phụ nữ
trong nghiên cứu này là 23,1%. Có 40,5% phụ
nữ chưa từng dùng TPCN và 36,4% phụ nữ là
đã từng dùng TPCN trong quá khứ.
Bảng 3. Thông tin liên quan đến sử dụng TPCN
(n=222)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Loại TPCN đã/đang sử dụng
Vitamin (A,B,C,D,E,)
Calcium, magnesium, kẽm, sắt
Linh chi, nhân sâm
Sản phẩm làm đẹp
Hỗ trợ điều hòa kinh nguyệt nội tiết
tố, phụ khoa
Khác(Thuốc bổ cho sức khỏe (bổ
não, mát gan))
90
79
84
33
14
19
40,5
35,6
37,8
14,9
6,3
8,6
Số loại TPCN đã/đang sử dụng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
32 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
1
2
3
Khác(từ 4 đến 6 loại TPCN)
115
57
36
14
51,8
25,7
16,2
6,3
Thời gian sử dụng TPCN
Không nhớ rõ
≤ 3 tháng
Từ trên 3 tháng - ≤ 5tháng
Từ trên 5 tháng - ≤ 12 tháng
Trên 12 tháng
18
76
32
61
35
8,1
34,2
14,4
27,5
15,8
Lý do sử dụng TPCN
Làm đẹp
Chữa bệnh/phòng bệnh
Bổ sung các chất cần thiết
Điều hòa nội tiết tố/điều hòa kinh
nguyệt
Thấy nhiều người khen dùng tốt nên
dùng
123
78
99
51
15
55,4
35,1
44,6
23
6,8
Nơi mua sản phẩm
Nhà thuốc tây
Đặt mua qua internet
Khác
193
18
11
86,9
8,1
5,0
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 222 phụ
nữ hiện có sử dụng TPCN hay đã từng sử
dụng trong quá khứ. Các loại TPCN bổ sung
vitamin, khoáng chất, linh chi nhân sâm là
những loại TPCN được sử dụng nhiều nhất,
chiếm tỷ lệ lần lượt là 40,5%, 35,6%, 37,8%. Đa
số đối tượng chỉ dùng một sản phẩm, chiếm tỷ
lệ là 51,8%. Có 34,2% đối tượng sử dụng từ 3
tháng trở xuống, chiếm tỷ lệ cao nhất. Phụ nữ
sử dụng TPCN chủ yếu là để làm đẹp và bổ
sung các chất cần thiết, có tỷ lệ lần lượt là
55,4% và 44,6%. Hiệu thuốc tây là nơi mua sản
phẩm TPCN của hầu hết các đối tượng
(86,9%). Và khi mua sản phẩm, họ dựa trên 3
tiêu chí chủ yếu là có hiệu quả (70,7%), được
nhiều người quen giới thiệu (39,2%) và giá
rẻ/hợp lý có tỷ lệ lần lượt là (33,3%).
Đánh giá của đối tượng về TPCN và nhu
cầu phát triển TPCN
Bảng 4. Đánh giá của đối tượng về TPCN và nhu
cầu phát triển TPCN (n=222)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Mức độ hài lòng về hiệu quả TPCN
Hài lòng
Khá hài lòng
Không hài lòng
77
116
29
34,7
52,3
13,0
Mức độ hài lòng về giá bán TPCN
Hài lòng
Khá hài lòng
Không hài lòng
78
130
14
35,1
58,6
6,3
Tác dụng phụ
Không có tác dụng phụ
Đau đầu
Rối loạn tiêu hóa
Dị ứng da
162
18
40
2
73,0
8,1
18,0
0,9
Tiếp tục sử dụng
Có
Không
116
106
52,3
47,7
Phát triển TPCN cho phụ nữ
Cần thiết
Không cần thiết
Không biết
207
2
13
93,2
0,9
5,9
Lĩnh vực quan trọng nhất để phát triển
TPCN
Khắc phục hội chứng mãn kinh và
cải thiện chất lượng cuộc sống
Cải thiện tình trạng dinh dưỡng của
phụ nữ
Dự phòng và làm chậm tiến triển
của các bệnh thường gặp ở phụ nữ
Kiểm soát cân nặng
Làm đẹp
38
45
95
2
27
18,4
21,7
45,9
1,0
13,0
Tỷ lệ phụ nữ trong nghiên cứu này hài
lòng về hiệu quả và giá bán của TPCN khá
cao. Chỉ có 13% đối tượng không hài lòng về
hiệu quả và 6,3% không hài lòng về giá bán
của TPCN. Theo đánh giá của đối tượng có sử
dụng TPCN thì sản phẩm TPCN họ sử dụng
đa số là không có tác dụng phụ, chiếm tỷ lệ là
73%. Tỷ lệ phụ nữ có ý muốn tiếp tục sử dụng
TPCN và không muốn dùng tiếp gần xấp xỉ
nhau là 52,3% và 47,7%. Về nhu cầu phát triển
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 33
TPCN cho phụ nữ thì đa số (93,2%) đối tượng
cho rằng cần thiết. Và lĩnh vực mà đa số phụ
nữ cho rằng là quan trọng nhất để phát triển
TPCN là dự phòng và làm chậm tiến triển các
bệnh hay gặp ở phụ nữ (45,9%) và cải thiện
tình trạng dinh dưỡng ở phụ nữ (21,7%).
Các yếu tố liên quan đến sử dụng TPCN
Bảng 5. Các đặc điểm dân số liên quan đến sử
dụng TPCN (n=373)
Đặc tính mẫu
Sử dụng TPCN
P PR
KTC
95%
Có
(n= 86)
Không
(n=287)
Trình độ học vấn
Dưới Trung học
phổ thông (THPT)
Từ THPT trở lên
31(13,3)
55(39,6)
203(86,7)
84(60,4)
<0,001
2,98 2,0–4,4
Điều kiện kinh tế gia đình
Nghèo/cận nghèo
Trung bình
Khá giả/giàu có
4 (22,2)
56 (18)
26 (60,5)
14 (77,8)
256 (82)
17 (39,5)
<0,001 1
0,8
2,7
0,3–2,0
1,1–6,7
Nghề nghiệp
Công nhân
Cán bộ viên
chức (gồm giáo
viên)
Nhân viên văn
phòng
Buôn bán
Nông dân
Thợ (may, làm
tóc,)
Không đi làm
(nội trợ, nghỉ hưu,
thất nghiệp, sinh
viên)
8 (21,1)
24 (64,9)
14 (56)
8 (22,2)
13 (14)
7 (17,5)
12(11,5)
30 (78,9)
13 (35,1)
11 (44)
28 (77,8)
80 (86)
33 (82,5)
92 (88,5)
<0,001
1
3,1
2,7
1,1
0,7
0,8
0,5
1,6–6,0
1,3–5,4
0,4–2,5
0,3–1,5
0,3–2,1
0,2–1,2
Thu nhập bình quân***
≤ 2000000
Trên 2000000 –
≤ 3000000
Trên 3000000 –
≤ 4000000
Trên 4000000
8(12,7)
13(27,7)
18(45)
21(53,9)
55(87,3)
34(72,3)
22(55)
18(45,1)
<0,001
**
1
2,4
3,8
5,9
1,5–3,9
1,9–7,6
2,4–14,8
Tình trạng sức khỏe
Tốt
Bình thường
Không tốt
30 (37)
43 (20)
13(16,9)
51(63)
172(80)
64(83,1)
0,003
1
0,54
0,45
0,3–0,9
0,2–0,9
Tiền sử bệnh tật
Không bệnh
Có bệnh
55(19,7)
31(33)
224(80,3)
63(67)
0,008
1,6
1,2–2,3
Lý do đến khám
Tăng huyết áp/
tăng lipid máu/các
bệnh tim mạch/
não/phụ khoa
Khác
52(36,9)
34(14,7)
89(63,1)
198(85,3)
<0,001
2,5
1,7–3,7
Mức độ quan tâm TPCN
Rất nhiều
Nhiều
Có quan tâm
Rất ít quan tâm
15 (75)
8 (72,7)
47(46,5)
9 (9,4)
5 (25)
3 (27,3)
54 (53,5)
87 (90,6)
<0,001
1
0,97
0,6
0,1
0,6–1,5
0,4–0,9
0,06–0,2
Đặc tính mẫu
Sử dụng TPCN
P PR
KTC
95%
Có
(n= 86)
Không
(n=287)
Không quan tâm 7 (4,8) 138(95,2) 0,06 0,03-0,1
Mức độ hiểu biết về TPCN
Có hiểu biết
Không hiểu biết
69(53,1)
17(7,0)
61 (46,9)
226(93,0)
<0,001
7,6
4,7–12,3
Mức độ tin cậy về mặt khoa học, hiệu quả của TPCN
Rất tin cậy
Tin cậy
Hơi/khá tin cậy
Không đáng tin
cậy
Không biết
14 (70)
32(42,7)
32(31,1)
2 (8,7)
6(4)
6 (30)
43 (57,3)
71 (68,9)
21 (91,3)
146(96)
<0,001 1
0,6
0,4
0,1
0,06
0,4 – 0,9
0,3 – 0,7
0,03–0,5
0,02-0,1
**có tính khuynh hướng
*** Có 184 đối tượng không rõ thu nhập
Có mối liên quan giữa tỷ lệ sử dụng TPCN
của phụ nữ và trình độ học vấn, nghề nghiệp,
thu nhập, điều kiện kinh tế gia đình của họ.
Những phụ nữ có trình độ học vấn từ THPT
trở lên, nhân viên văn phòng, hay thu nhập
càng cao, điều kiện kinh tế giàu có/khá giả có
tỷ lệ sử dụng TPCN nhiều hơn so với những
người có trình độ học vấn dưới THPT, hay là
công nhân, hay thu nhập thấp, hay điều kiện
kinh tế nghèo/cận nghèo.
Có mối liên quan giữa tỷ lệ sử dụng TPCN
và tình trạng sức khỏe hiện tại của đối tượng,
tiền sử bệnh tật, mức độ quan tâm đến TPCN,
mức độ hiểu biết về TPCN, mức độ tin cậy về
mặt khoa học, hiệu quả của TPCN của phụ nữ.
Những phụ nữ hiện có sức khoẻ tốt, hay đã
từng mắc bệnh trước đây, hay có quan tâm
đến TPCN, có hiểu biết về TPCN, hay rất tin
về hiệu quả, khoa học của TPCN có tỷ lệ sử
dụng TPCN nhiều hơn so với những đối
tượng khác.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ sử dụng TPCN
Trong nghiên cứu này, người dân biết
được thông tin về TPCN chủ yếu từ tivi/đài
(49,1%), người quen giới thiệu (42,6%) và
internet (22%). Kết quả này cũng khá tương
đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thanh
Thuận năm 2015: người tiêu dùng tiếp cận
thông tin, tìm hiểu về TPCN chủ yếu qua các
kênh như internet (25%), qua giới thiệu của
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
34 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản
bạn bè, người thân (21,67%); hoặc qua các
phương tiện thông tin đại chúng (11,67%)(5).
Tỷ lệ người được truyền thông về TPCN từ
các kênh như báo/tạp chí chuyên ngành sức
khỏe, nhân viên y tế, hội thảo/tập huấn y tế
v.v ở hai nghiên cứu chưa cao. Vì thế, các cơ
sở y tế, tổ chức chăm sóc sức khỏe cộng đồng
cần tăng cường truyền thông kiến thức về
TPCN cho người tiêu dùng.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ hiện có sử
dụng TPCN của phụ nữ thấp hơn nghiên cứu
của Lim và Kim là 41,4%(4). Sự khác biệt này có
thể là do phụ nữ trong nghiên cứu này không
quan tâm nhiều đến TPCN cũng như mức độ
hiểu biết hay sự tin cậy vào TPCN cũng thấp
hơn so với những người phụ nữ trong nghiên
cứu ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó, có thể là do thu
nhập của phụ nữ trong nghiên cứu ở Hàn
Quốc cao hơn thu nhập của nhóm phụ nữ của
nghiên cứu này. Khi thu nhập càng cao, người
dân có xu hướng quan tâm đến sức khỏe của
mình hơn và bỏ nhiều tiền hơn cho việc mua
TPCN để nâng cao sức khỏe. Do vậy tỷ lệ sử
dụng TPCN của những phụ nữ trong nghiên
cứu này cũng thấp hơn.
Hầu hết các đối tượng đều đến hiệu thuốc
tây để mua TPCN chiếm tỷ lệ 86,9%. Tỷ lệ này
cao hơn nghiên cứu của Lim và Kim(4) là
17,3%. Sự khác biệt về nơi mua TPCN có thể là
do người dân Việt Nam có thói quen hay sự
tin tưởng khi mua thuốc hay TPCN ở tiệm
thuốc tây hơn những cửa hàng thuốc/thực
phẩm.
Có hai lý do chủ yếu để sử dụng TPCN
của những phụ nữ trong nghiên cứu này là
làm đẹp (55,4%) và bổ sung các chất cần thiết
(44,6%). Kết quả này khác với nghiên cứu của
Park và Choi(6) là đa số phụ nữ sử dụng TPCN
để tăng cường sức khỏe (45,5%) và bổ sung các
chất cần thiết (17,7%). Lý do dẫn đến sự khác
biệt này có thể là đối tượng của hai nghiên
cứu khác nhau về văn hóa và sự quan tâm về
sức khỏe.
Đánh giá của đối tượng về TPCN và nhu
cầu phát triển TPCN
Tỷ lệ hài lòng về hiệu quả và giá bán
TPCN là khá cao, chỉ có khoảng 13% đối tượng
không hài lòng về hiệu quả sản phẩm và dưới
7% không hài lòng về giá bán TPCN. Kết quả
này cũng giống với phát hiện trước đó của
Lim và Kim là 10,5% không hài lòng về hiệu
quả TPCN và 6% không hài lòng về giá bán
TPCN(5). Và khi được hỏi có ý muốn tiếp tục
sử dụng sản phẩm hay không thì có tới 47,7%
phụ nữ trả lời “không”, cao hơn nhiều so với
Lim và Kim là 4,5%. Sự khác biệt này có thể là
do sự nhầm lẫn của phụ nữ giữa thuốc chữa
bệnh và TPCN, bởi vì trong nghiên cứu này có
tới 60% phụ nữ không có hiểu biết gì về
TPCN. Họ cho rằng TPCN là thuốc chữa bệnh
cho nên sau khi dùng thấy có hiệu quả, sức
khỏe tốt hơn, bệnh khá hơn thì ngưng việc sử
dụng và sẽ không tiếp tục sử dụng sản phẩm
nếu không có bệnh hoặc bệnh không tái phát
để tiết kiệm chi tiêu.
Nhu cầu phát triển TPCN ở phụ nữ trong
nghiên cứu là khá cao: 93,2% phụ nữ cho rằng
cần thiết. Kết quả này cao hơn kết quả nghiên
cứu của Lim và Kim (28,6%)(4). Sự khác biệt
này có thể là do phụ nữ trong nghiên cứu này
có mong muốn về hiệu quả của TPCN khác
với những phụ nữ trong nghiên cứu ở Hàn
Quốc. Nói cách khác, những nhà sản xuất và
kinh doanh TPCN cần chú ý phát triển những
sản phẩm TPCN để đáp ứng nhu cầu của
người dân.
Các yếu tố liên quan đến sử dụng TPCN
Trình độ học vấn có mối liên quan đến tỷ
lệ sử dụng TPCN của phụ nữ. Những người
phụ nữ có trình độ học vấn từ THPT trở lên sẽ
có tỷ lệ sử dụng TPCN cao hơn những người
có trình độ dưới THPT. Những người có trình
độ học vấn cao có ý thức, quan tâm về sức
khỏe của bản thân nhiều hơn, sẽ tìm hiểu
nhiều hơn về các sản phẩm chăm sóc sức
khỏe. Họ có nhu cầu sử dụng các sản phẩm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 35
TPCN để làm đẹp, chăm sóc sức khỏe cao hơn
nhóm có trình độ học vấn thấp hơn.
Tỷ lệ sử dụng TPCN của phụ nữ có liên
quan tới nghề nghiệp của họ. Những người
phụ nữ là cán bộ viên chức và nhân viên văn
phòng có khả năng sử sụng TPCN cao hơn
công nhân. Bởi vì những người phụ nữ này có
việc làm ổn định, mức thu nhập khá và ổn
định nên họ có khả năng chi trả cho việc mua
sắm các sản phẩm chăm sóc sức khỏe hơn.
Một lý do nữa, có thể là do tính chất công việc
mà những người phụ nữ này quan tâm nhiều
hơn tới việc chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp của
của bản thân, nên họ có nhu cầu sử dụng
TPCN cao hơn.
Thu nhập bình quân hàng tháng và điều
kiện kinh tế gia đình đều có mối liên quan đến
tỷ lệ sử dụng TPCN. Những người có điều
kiện kinh tế gia đình ở mức khá giả sẽ có tỷ lệ
sử dụng TPCN cao gấp nhiều lần so với
những người khác. Điều này cũng tương đồng
với phát hiện của Kim và Han(3). Điều này
cũng dễ giải thích vì khả năng kinh tế của cá
nhân hay gia đình có ảnh hưởng đến quyết
định chi tiêu mua sắm của phụ nữ.
Trong nghiên cứu này, những người có
tình trạng sức khỏe tốt và từng mắc bệnh
trước đó thì đều có tỷ lệ sử dụng TPCN cao
hơn những người có sức khỏe không tốt và
chưa từng mắc bệnh trong quá khứ. Điều này
có thể lý giải là những người có sức khỏe tốt
(hay đã từng mắc bệnh) thường là những
người quan tâm đến sức khỏe của mình nhiều
hơn, có nhu cầu sử dụng các sản phẩm chăm
sóc sức khỏe nhiều hơn để duy trì và nâng cao
sức khỏe bản thân.
Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy
rằng, những người đến khám vì bệnh tăng
huyết áp/tăng lipid máu/các bệnh tim
mạch/não/phụ khoa thì có tỷ lệ sử dụng TPCN
cao hơn các bệnh khác. Có thể do các bệnh này
là những bệnh mãn tính hoặc gây ảnh hưởng
nhiều đến cuộc sống của phụ nữ, nên những
phụ nữ này có tâm lý là TPCN là “thần dược”,
có thể chữa hết bệnh của họ hoặc là nếu không
bổ cái này thì bổ cái khác. Do vậy tỷ lệ sử
dụng TPCN của phụ nữ đến khám nhóm bệnh
này cao hơn.
Kết quả còn chỉ ra rằng, những người có
kiến thức tốt về TPCN có tỷ lệ sử dụng cao
hơn người có kiến thức không tốt (p<0,001).
Kết quả này cũng giống với nghiên cứu của
Chung và Lee(1). Điều này có thể lý giải là
những người có kiến thức tốt về TPCN thường
là những người quan tâm đến sức khỏe của
mình nhiều hơn nên có nhu cầu sử dụng
TPCN nhiều hơn.
Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu xác định được tỷ lệ sử dụng
TPCN của phụ nữ, tìm ra được các yếu tố liên
quan đến việc sử dụng TPCN và đánh giá,
nhu cầu của đối tượng về TPCN. Các kết quả
có được từ đề tài nghiên cứu cung cấp thêm
thông tin, làm cơ sở tham khảo để giúp cơ sở y
tế của huyện đánh giá đúng tình hình và có
những biện pháp, chương trình cung cấp kiến
thức, hỗ trợ phụ nữ trong việc tìm hiểu, sử
dụng các sản phẩm phù hợp và tốt cho sức
khỏe của họ để giúp họ giải quyết những vấn
đề rắc rối về sức khỏe và cải thiện chất lượng
cuộc sống.
Nghiên cứu này dựa vào hiểu biết hoặc
câu trả lời của đối tượng để phân loại và xác
định tỷ lệ sử dụng TPCN nên có thể sai lệch
thông tin về phân loại thuốc hay TPCN.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu này cho thấy đa số phụ nữ là
không biết gì về TPCN, họ biết đến TPCN chủ
yếu từ tivi, người thân, bạn bè, vì thế cần nâng
cao hiểu biết của người dân về TPCN. Cụ thể
là cần có những chương trình cung cấp kiến
thức về TPCN cho phụ nữ để họ có những
quyết định đúng đắn khi lựa chọn mua và sử
dụng TPCN sao cho có lợi cho sức khỏe nhất.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
36 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chung HK, Lee HY (2011). Consumption of Health
Functional Foods according to Age Group in Some
Regions of Korea. Journal of the Korean Dietetic
Association,17 (2): 190-205.
2. Hiệp hội Thực phẩm chức năng Việt Nam (2013). Quyết
định Ban hành chiến lược phát triển Thực phẩm chức
năng giai đoạn 2013 - 2020 và tầm nhìn 2030 (Số 468/QĐ-
VAFF), tr13.
3. Kim SH, Han JH, Kim WH (2010). Health Functional Food
Use and Related Variables Among the Middle-Aged in
Korea. Korean Journal of Nutrition, 43(3): 294-303
4. Lim H, Kim TH, Lee HH (2016). A Study on Perception
and Usage Status on Health Functional Foods in Women
according to Menopause Status. Journal of Menopausal
Medicine, 22: 20-30.
5. Nguyễn Thanh Thuận (2015). Nhận thức, thái độ và hành
vi tiêu dùng thực phẩm chức năng của người dân tại
TP.Tây Ninh. Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế
TP.Hồ Chí Minh, trang 40-41.
6. Park KC, Choi YH, Kim WR, Choi YJ, Yoon KS (2014).
Intake Status and Recognition of Health Functional Foods
by Pre- and Post-Menopausal Women in Seoul and
Gyeonggi Province. Journal of the Korean Society of Food
Science and Nutrition, 43(7): 1112-1121.
7. Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2010). Luật an toàn thực phẩm (Số 55/2010/QH12), ngày
17 tháng 06 năm 2010, chương I điều 2.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_su_dung_thuc_pham_chuc_nang_cua_phu_nu_den_kham_tai_tr.pdf