Tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT Lê Trung Kiên, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên và các yếu tố liên quan

Tài liệu Tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT Lê Trung Kiên, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên và các yếu tố liên quan: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 65 TỶ LỆ STRESS Ở HỌC SINH TRƯỜNG THPT LÊ TRUNG KIÊN HUYỆN ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Nguyễn Thành Trung*, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Stress là một phần bình thường của cuộc sống. Mọi người có thể dễ dàng đối phó với các yếu tố gây stress để thích nghi với các khó khăn xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, stress cũng mang lại kết quả tiêu cực cho mọi người; đặc biệt, ở thanh thiếu niên có những thay đổi đặc biệt về tâm sinh lý. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ học sinh THPT có biểu hiện stress và các yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 584 học sinh THPT Lê Trung Kiên, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên năm 2018 được lựa chọn ngẫu nhiên. Bộ câu hỏi có cấu trúc được sử dụng để thu thập thông tin đối tượng nghiên cứu. Kiểm định chi bình phương để xét mối liên quan giữa stress với các yếu tố bản...

pdf5 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ stress ở học sinh trường THPT Lê Trung Kiên, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên và các yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 65 TỶ LỆ STRESS Ở HỌC SINH TRƯỜNG THPT LÊ TRUNG KIÊN HUYỆN ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Nguyễn Thành Trung*, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh** TÓM TẮT Đặt vấn đề: Stress là một phần bình thường của cuộc sống. Mọi người có thể dễ dàng đối phó với các yếu tố gây stress để thích nghi với các khó khăn xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, stress cũng mang lại kết quả tiêu cực cho mọi người; đặc biệt, ở thanh thiếu niên có những thay đổi đặc biệt về tâm sinh lý. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ học sinh THPT có biểu hiện stress và các yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 584 học sinh THPT Lê Trung Kiên, huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên năm 2018 được lựa chọn ngẫu nhiên. Bộ câu hỏi có cấu trúc được sử dụng để thu thập thông tin đối tượng nghiên cứu. Kiểm định chi bình phương để xét mối liên quan giữa stress với các yếu tố bản thân, môi trường học tập của đối tượng nghiên cứu. Mô hình hồi quy đa biến dùng để kiểm soát các yếu tố gây nhiễu. Kết quả: 29,45% học sinh tại trường THPT Lê Trung Kiên có biểu hiện stress. Trong số đó, 5,31% biểu hiện stress nặng. Học sinh nữ có biểu hiện stress cao hơn 1,33 lần so với nam. Những sinh viên gặp vấn đề trong việc kết bạn và gặp vấn đề về cảm xúc có tỷ lệ biểu hiện stress cao hơn so với những người không gặp vấn đề gì. Bên cạnh đó, áp lực học tập có liên quan đáng kể đến tình trạng stress của học sinh với p <0,05. Kết luận: Tỷ lệ có biểu hiện stress chiếm gần 1/3 dân số mục tiêu. Có mối liên quan giữa tình trạng stress học sinh với các yếu tố giới tính, căng thẳng trong kết bạn, gặp vấn đề về tình cảm và áp lực học tập. Điều này cho thấy vấn đề sức khỏe tâm thần ở học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Các biện pháp can thiệp mang lại hiệu quả chưa cao. Do đó, việc cải thiện can thiệp các đặc điểm của thanh thiếu niên nên được xem xét. Từ khóa: stress, học sinh, PSS, ESSA ABSTRACT PREVALENCE OF STRESS AND ASSOCIATED FACTORS OF HIGH SCHOOL STUDENTS AT DONG HOA DISTRICT, PHU YEN PROVINCE IN 2018 Nguyen Thanh Trung, Huynh Ho Ngoc Quynh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 65-69 Background: Stress is a normal part of life. People can easily deal with stressors to adapt with difficult situations that happen during their daily life. However, stress also brings negative effect on people; especially, in adolescents who has special changes on psycho and physiology. Objectives: Determining the prevalence of stress among high school students and associated factors. Methods: A cross-sectional study was conducted among 584 high school students at Le Trung Kien high school, Dong Hoa district, Phu Yen province in 2018. Participants were randomly selected and invited in survey. Structured-questionnaires were applied to collect information from participants. Chi square test was used to examine the relationship between stress and associated factors; including personal and learning environment. Multivariate regression analysis was applied to control confounders. Results: 29.45% high school students at Le Trung Kien high school had stress. Among them, 5.31% had *Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thành Trung ĐT: 0349677442 Email: trungnt1005@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 66 severe stress. Female students had 1.33 times stress higher than male. Students who have problems in making friends and emotional problems had high rate of stress compare to those who not get any problems. Besides, academic pressure was significantly associated with students’ stress situation at p<0.05. Conclusions: Nearly one third of participants suffered from stress. Stressors were identified that relevant to gender, emotional problems, peer relationship problems and academic pressures. It can be seen that mental health issues were not noticed as needed. Current interventions activities were not effectively worked. Therefore, improving current interventions which consider adolescent characteristics should be considered. Key words: stress, high school students, PSS, ESSA ĐẶT VẤN ĐỀ Stress là trạng thái căng thẳng của cơ thể con người phản ứng trước một sự thay đổi đòi hỏi thích nghi từ môi trường sống. Tất cả mọi người đã, đang và sẽ đối mặt với stress, cả tích cực lẫn tiêu cực. Stress là một hiện tượng bình thường trong cuộc sống, đôi khi chúng ta có thể vượt qua một cách dễ dàng, nhưng có lúc chúng ta cảm thấy khó khăn thậm chí bất lực trong việc ứng phó với nó. Áp lực tinh thần từ nhiều mặt ảnh hưởng rất lớn đến khả năng học tập và định hướng tương lai của trẻ vị thành niên sau này. Những đặc trưng của cấp học và sự thay đổi về tâm sinh lý của lứa tuổi khiến nhiều em học sinh cảm thấy áp lực. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, ngày nay, cứ 4 người thì có 1 người sẽ cần được chăm sóc sức khỏe tâm thần(9). Hàng năm, có khoảng 20% số trẻ vị thành niên có những vấn đề về sức khỏe tâm thần, các vấn đề sức khỏe tâm thần nói chung và stress nói riêng đang tỏ ra ngày càng nghiêm trọng. Do đó, vấn đề này đã và đang nhận được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà khoa học trên khắp thế giới. Tại Việt Nam, kết quả từ các cuộc khảo sát SAVY1 (2005) và SAVY2 (2009) đại diện cho thanh thiếu niên và thanh thiếu niên trong độ tuổi 14-24 cho thấy tỷ lệ tìm cách tự tử (0,5% so với 1%) và tự gây ra thương tổn cho bản thân (2,8 % so với 7,5%) đã tăng đáng kể(10). Chính vì thế nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định tỷ lệ học sinh PTTH có stress và mối liên quan giữa tình trạng này với các yếu tố gia đình, môi trường học tập. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mô tả. Đối tượng nghiên cứu 584 học sinh THPT Lê Trung Kiên năm học 2017-2018. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 3/2018 – tháng 6/2018. Phương pháp và bộ công cụ Phỏng vấn gián tiếp bằng bộ câu hỏi tự điền. Trong đó, thang đo PSS-10 dùng để đánh giá mức độ biểu hiện stress do học sinh tự cảm nhận, thang đo ESSA sẽ khảo sát được các yếu tố liên quan đến biểu hiện stress ở học sinh. Kiểm soát sai lệch Chọn đúng đối tượng theo mục tiêu nghiên cứu và theo tiêu chí chọn mẫu. Thiết kế bộ câu hỏi đúng mục tiêu, rõ ràng về từ ngữ, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ trả lời, cấu trúc chặt chẽ. Sử dụng bộ câu hỏi PSS-10 và ESSA đã được đánh giá cao về độ tin cậy và giá trị tại Việt Nam. Phân tích và xử lý số liệu Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử lý số liệu bằng phần mêm Stata 13. Kiểm định chi bình phương để xét mối liên quan giữa stress với các yếu tố khác. Nếu mối liên quan trong phân tích đơn biến giữa tỉ lệ stress với các biến số nền, áp lực học tập và các hoạt động ngoài trường lớp có giá trị p<0,1 thì biến số sẽ được đưa vào mô hình đa biến. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 67 Vấn đề y đức Nghiên cứu dựa trên sự tự nguyện tham gia của đối tượng nghiên cứu. Đối tượng có quyền từ chối tham gia nghiên cứu. Đối tượng tham gia nghiên cứu được giải thích rõ ràng mục tiêu nghiên cứu, nhấn mạnh tính bảo mật thông tin khi tham gia. KẾT QUẢ Bảng 1: Phân bố đặc tính của mẫu nghiên cứu (n=584) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Giới tính Nam Nữ 231 353 39,55 60,45 Tuổi trung bình (độ lệch chuẩn) 17±1 Khối lớp Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 201 170 212 34,59 29,11 36,30 Học lực Giỏi Khá Trung bình Yếu 96 310 164 14 16,44 52,08 28,08 2,40 Có chức vụ trong lớp 155 26,54 Ở nhà với ba mẹ 538 92,12 Có tôn giáo 183 31,34 Bảng 1 cho thấy tỷ lệ nữ gấp gần 1,5 lần nam (60,45% so với 39,55%). Độ tuổi trung bình là 17±1 tuổi. Tỷ lệ học sinh ở 3 khối lớp chênh lệch không đáng kể. Học lực khá chiếm tỷ lệ cao nhất (52,08%). Đa số học sinh đang ở chung với cha mẹ (92,12%) và không theo tôn giáo (68,66%). Bảng 2: Các yếu tố liên quan đến đối tượng nghiên cứu (n=584) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Mức độ áp lực học tập: Nhẹ Trung bình Nặng 178 174 232 30,48 29,79 39,73 Có đi học thêm 547 93,66 Có thời gian tự học 463 79,28 Có cảm thấy căng thẳng trong việc trang trải tiền học 353 60,45 Có cảm thấy căng thẳng trong kết bạn 261 44,69 Có gặp vấn đề về tình cảm 243 41,61 Ba mẹ có bất hòa 161 27,57 Kết quả khảo sát cho thấy đa số học sinh cảm thấy rất áp lực với việc học (39,73%); đa phần có học thêm (93,66%). Việc trang trải chi phí học tập và vấn đề kết bạn, tình cảm cũng gây căng thẳng cho đối tượng tham gia nghiên cứu. Có 27,57% học sinh báo cáo về vấn đề bất hòa giữa ba mẹ. Kết quả phân tích cho thấy có khoảng 1/3 đối tượng nghiên cứu có biểu hiện stress; trong đó mức độ nặng là 5,31% (Bảng 3). Bảng 3: Phân loại stress của đối tượng nghiên cứu (n=584) Đặc điểm Tần số Tỉ lệ % Có stress 172 29,45 Stress mức độ nhẹ 141 24,14 Stress mức độ nặng 31 5,31 Bảng 4. Mô hình đa biến về tình trạng stress và các yếu tố liên quan (n=584) Đặc tính mẫu p thô PR thô p hiệu chỉnh PR hiệu chỉnh (KTC 95%) Giới tính (1) 0,002 0,64 0,038 0,75(0,57-0,98) Chỗ ở (2) 0,027 2,02 0,064 0,57(0,31-1,03) Tôn giáo (3) 0,018 0,73 0,076 0,93(0,86-1) Căng thẳng trong việc trang trải tiền học (4) 0,003 1,51 0,235 1,17(0,9-1,51) Căng thẳng trong kết bạn (4) <0,001 2,09 <0,001 1,62(1,26-2,09) Gặp vấn đề về tình cảm (4) <0,001 1,61 0,02 1,33(1,05-1,68) Ba mẹ bất hòa (4) 0,006 1,44 0,06 1,25(0,99-1,58) Mức độ áp lực học tập (5) <0,001 3,64 <0,001 2,77(1,83-4,19) (1)“nam” so với “nữ” (2)“ở nhà với ba mẹ” so với “khác” (3)“có tôn giáo” so với “không tôn giáo” (4)“có” so với “không” (5)“mức độ nặng” so với “mức độ nhẹ” Từ kết quả phân tích đơn biến mối liên quan giữa biểu hiện stress và các yếu tố khác thu được p thô và PR thô như bảng trên. Đưa về mô hình hồi quy đa biến sẽ được kết quả sau khi hiệu chỉnh cho thấy giới tính có liên quan tới tỷ lệ stress và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,038). Cụ thể, học sinh nam có biểu hiện stress bằng 0,75 lần so với học sinh nữ (PR=0,75, KTC 95%: 0,57-0,98), tương đương học sinh nữ có stress nhiều gấp 1,33 lần so với học sinh nam. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 68 Tỷ lệ stress tăng 1,62 lần khi học sinh có căng thẳng trong kết bạn (p<0,001, PR=1,62, KTC 95%: 1,26-2,09) và tăng 1,33 lần khi có vấn đề về tình cảm (p=0,02, PR=1,33, KTC 95%: 1,05-1,68). Những học sinh cảm thấy áp lực học tập mức độ nặng sẽ cảm thấy stress gấp 2,77 lần học sinh có áp lực mức độ nhẹ (p<0,001, PR=2,77, KTC 95%: 1,83-4,19). BÀN LUẬN Tỷ lệ biểu hiện stress trên đối tượng nghiên cứu là 29,45%; trong đó stress mức độ nhẹ và nặng lần lượt chiếm 24,14% và 5,31%. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của các tác giả Điền Ngọc Trang và Phùng Đức Nhật tiến hành năm 2012 trên học sinh PTTH ở Đồng Nai với cùng thang đo(4). Sự khác biệt này có thể do sự khác biệt về thời điểm khảo sát cũng như đặc điểm địa phương nghiên cứu. Tuy nhiên, kết quả này lại thấp hơn nhiều so với kết quả từ nghiên cứu của tác giả Võ Văn Thương tiến hành năm 2016 trên học sinh THPT ở thành phố Hồ Chí Minh(8). Sự khác biệt này có thể do điều kiện và đối tượng nghiên cứu khác nhau. Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi học sinh ở cả 3 khối lớp; trong khi nghiên cứu trên chỉ tiến hành trên học sinh lớp 12 – đây là đối tượng sắp phải đối diện với kỳ thi lớn nhất của cuộc đời nên tỷ lệ stress sẽ cao hơn. Tuy nhiên khi so sánh với nghiên cứu gần đây của Al-Gelban K.S cũng trên đối tượng học sinh THPT(1), thì kết quả của nghiên cứu khá tương đồng. Kết quả phân tích mối liên quan cho thấy tỷ lệ học sinh nữ có tỷ lệ stress gấp 1,33 lần so với nam. Kết quả này tương đồng với một số kết quả nghiên cứu của các tác giả Hồ Hữu Tính năm 2009(5) và Lê Thị Thảo Nhu năm 2016(7). Một nghiên cứu nước ngoài năm 2010 của tác giả RJ Valentino cùng cộng sự thực hiện tại Mỹ nhận thấy rằng phụ nữ nhạy cảm với hoóc môn stress CRF (Corticotropin- Releasing Factor) hơn so với nam giới. Điều này có thể góp phần giải thích tại sao nữ giới dễ trầm cảm và căng thẳng hơn nam giới(2). Mặt khác, học sinh gặp khó khăn khi kết bạn cũng làm tăng stress lên 1,62 lần, điều này dễ hiểu khi tiếp xúc với môi trường học tập lớn hơn thì nhiều học sinh sẽ cảm thấy lo lắng, không tự tin khi kết bạn mới và muốn duy trì mối quan hệ với bạn cũ cũng tạo cho học sinh nhiều căng thẳng. Điều này nghiên cứu có đồng quan điểm với tác giả Phùng Đức Nhật khi học sinh thiếu sự chia sẻ từ bạn bè dễ bị stress hơn(4). Một nghiên cứu cắt ngang ở Colombia vào năm 2012 cũng cho rằng mức độ stress tăng lên khi thiếu sự quan tâm từ bạn bè(3). Tiếp theo, khi học sinh gặp phải vấn đề về tình cảm sẽ làm tăng nguy cơ stress lên 1,33 lần, đương nhiên điều này dễ hiểu khi học sinh gặp những tình trạng như: yêu đơn phương, giận nhau với người yêu, vừa chia tay với người yêu, có người yêu nhưng bị cha mẹ và nhà trường ngăn cấm, khó khăn trong việc giải quyết các vấn đề tình cảm với người thân, bạn bè, người yêu, sẽ khiến cho căng thẳng về tâm lý sẽ tăng lên. Trong khi đó cũng trong nghiên cứu này, vấn đề đáng quan tâm là áp lực từ việc học có liên quan rất lớn đến tình trạng stress của học sinh. Đối với mức độ áp lực học tập nhẹ và trung bình (đánh giá theo tổng điểm từ thang đo ESSA) thì sự ảnh hưởng là không đáng kể, tuy nhiên với áp lực học tập nặng (điểm tổng >58) thì học sinh sẽ bị stress gấp 2,77 lần so với mức độ áp lực nhẹ. Điều này nói lên học sinh tự đánh giá nhưng vấn đề sau đây gây cho họ nhiều áp lực như: điểm số, chương trình học quá nặng, mặc cảm về kết quả học tập, thiếu tự tin về định hướng trong tương lai, lo lắng vì tự đánh giá bản thân và mọi người xung quanh. Rất nhiều nghiên cứu cũng kết luận điều này(4,6). KẾT LUẬN Tỷ lệ học sinh có biểu hiện stress ở THPT Lê Trung Kiên khảo sát theo thang đo PSS-10 là đáng lưu tâm (29,45%). Có mối liên quan giữa tình trạng stress học sinh với các yếu tố: giới tính, căng thẳng trong kết bạn, gặp vấn đề về tình cảm và áp lực học tập. Điều này cho thấy rằng vấn đề chăm sóc sức khỏe tâm thần cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 69 Các chương trình can thiệp hiện hữu tuy có nhưng hiệu quả chưa cao. Những hoạt động chăm sóc sức khỏe học đường trong tương lai cần chú trọng đến những biến đổi tâm sinh lý của lứa tuổi để thiết kế các hoạt động can thiệp hiệu quả hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Al-Amri HS, Al-Gelban KS, Mostafa OA (2009). “Prevalence of Depression, Anxiety and Stress as Measured by the Depression, Anxiety, and Stress Scale (DASS-42) among Secondary School Girls in Abha, Saudi Arabia”. Sultan Qaboos Univ Med J, 9 (2): 140-7. 2. Bangasser DA, Curtis A, Reyes BA et al (2010). “Sex differences in corticotropin-releasing factor receptor signaling and trafficking: potential role in female vulnerability to stress- related psychopathology”. Mol Psychiatry, 15 (9): 896-904. 3. Cardenas SD, Arrieta Vergara K, Martinez FG (2013). “Symptoms of Depression, Anxiety and Stress Among Dental Students: Prevalence and Related Factors”. Rev Colomb Psiquiatr, 42 (2): 173-81. 4. Điền Ngọc Trang, Phùng Đức Nhật, Nguyễn Nhất Chi Mai, Nguyễn Thị Tuyết Vân (2014). “Tình trạng stress và các yếu tố liên quan ở học sinh trường THPT Hà Nam, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai năm 2012”. Tạp chí Y học TP.Hồ Chí Minh, 18 (6): 639-647. 5. Hồ Hữu Tính (2009). “Thực trạng Stress lo âu và những liên quan đến lo âu ở học sinh lớp 12 trường THPT Phan Bội Châu, Phan Thiết, Bình Thuận tháng 4 – 2009”. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh, 14 (2): 180-187. 6. Kavitha HS, Kumar SD, Kulkarni P, Siddalingappa H, Manjunath R (2016). “Depression, anxiety and stress levels among medical students in Mysore, Karnataka, India”. Int J Community Med Public Health, 3 (1): 359-362. 7. Lê Thị Thảo Nhu (2016). “Tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan ở học sinh khối 12 trường THPT Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang năm 2016”. Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Y tế công cộng, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh, tr. 51. 8. Võ Văn Thương (2016).” Tỷ lệ stress, lo âu, trầm cảm và các yếu tố liên quan của học sinh lớp 12 trường THPT Trần Quang Khải, Quận 11, TPHCM, năm 2016”. Khóa luận Tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, trang 62. 9. World Health Organization (2011). "WHO highlights global underinvestment in mental health care". 111007/en/, 10. World Health Organization (2011). "Fact sheet on adolescent health”. " olescent_health/en/ Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_stress_o_hoc_sinh_truong_thpt_le_trung_kien_huyen_dong.pdf