Tỷ lệ rối loạn dung nạp đường huyết tại thời điểm 6 đến 12 tuần sau sinh ở các phụ nữ đái tháo đường thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện quận Thủ Đức

Tài liệu Tỷ lệ rối loạn dung nạp đường huyết tại thời điểm 6 đến 12 tuần sau sinh ở các phụ nữ đái tháo đường thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện quận Thủ Đức: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 172 TỶ LỆ RỐI LOẠN DUNG NẠP ĐƯỜNG HUYẾT TẠI THỜI ĐIỂM 6 ĐẾN 12 TUẦN SAU SINH Ở CÁC PHỤ NỮ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN QUẬN THỦ ĐỨC Huỳnh Thị Kim Liên*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang** TÓM TẮT Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có xu hướng ngày càng tăng trên thế giới và ở Việt Nam. Đánh giá sau sinh chưa có sự thống nhất, mặc dù đa số các tổ chức hiện nay đều khuyến cáo nên thực hiện xét nghiệm 75 gram glucose – 2 giờ trong khoảng 4 đến 12 tuần. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn glucose huyết đói, rối loạn dung nạp glucose, đái tháo đường sau sinh 6 đến 12 tuần trên sản phụ ĐTĐTK tại bệnh viện quận Thủ Đức và một số yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu dọc tiền cứu trên 185 thai phụ ĐTĐTK theo dõi sinh tại bệnh viện quận Thủ Đức hội đủ các tiêu chí chọn mẫu trong thời gian từ 01/08/2017 – 30/06/2018, đồng ý tham gia nghiên cứu. Được làm xét...

pdf7 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 13/07/2023 | Lượt xem: 153 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ rối loạn dung nạp đường huyết tại thời điểm 6 đến 12 tuần sau sinh ở các phụ nữ đái tháo đường thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện quận Thủ Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 172 TỶ LỆ RỐI LOẠN DUNG NẠP ĐƯỜNG HUYẾT TẠI THỜI ĐIỂM 6 ĐẾN 12 TUẦN SAU SINH Ở CÁC PHỤ NỮ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN QUẬN THỦ ĐỨC Huỳnh Thị Kim Liên*, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang** TÓM TẮT Đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) có xu hướng ngày càng tăng trên thế giới và ở Việt Nam. Đánh giá sau sinh chưa có sự thống nhất, mặc dù đa số các tổ chức hiện nay đều khuyến cáo nên thực hiện xét nghiệm 75 gram glucose – 2 giờ trong khoảng 4 đến 12 tuần. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ rối loạn glucose huyết đói, rối loạn dung nạp glucose, đái tháo đường sau sinh 6 đến 12 tuần trên sản phụ ĐTĐTK tại bệnh viện quận Thủ Đức và một số yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu dọc tiền cứu trên 185 thai phụ ĐTĐTK theo dõi sinh tại bệnh viện quận Thủ Đức hội đủ các tiêu chí chọn mẫu trong thời gian từ 01/08/2017 – 30/06/2018, đồng ý tham gia nghiên cứu. Được làm xét nghiệm 75 gram glucose – 2 giờ trong khoảng 6 – 12 tuần sau sinh. Kết quả: Tỷ lệ bất thường NPDNG sau sinh 6-12 tuần (ADA 2016) là 25,9% KTC 95% [19,6-32,3] với các phân nhóm: đái tháo đường chiếm tỷ lệ là 2,7% KTC 95% [0,3-5,0]; rối loạn dung nạp glucose là 22,2% KTC 95% [16,2-28,2]; rối loạn glucose huyết đói là 4,3% KTC 95% [ 1,3-7,2]. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mực đường huyết lúc đói và lúc 2 giờ ở lúc mang thai với thời điểm tương ứng sau sinh. Kết luận: nên thực hiện xét nghiệm 75 gram glucose – 2 giờ ở hậu sảu 6 – 12 tuần trên những thai phụ ĐTĐTK. Từ khóa: đái tháo đường thai kỳ, xét nghiệm 75 gram glucose – 2 giờ ABSTRACT THE PREVALENCE OF ABNORMAL GLUCOSE TOLERANCE AT 6 TO 12 WEEKS POSTPARTUM AMONG WOMEN WITH GESTATIONAL DIABETES AT THU DUC DISTRICT HOSPITAL Huynh Thi Kim Lien, Huynh Nguyen Khanh Trang * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 172 - 178 Gestational diabetes mellitus (GDM) tends to increase all over the world as well as in Viet Nam. Postpartum evaluation is not uniform, although almost all recent recommendations from well known organizations are using 75-gram glucose - 2 hours test from 6 to 12 weeks of postpartum. Objectives: To determine the prevalence of abnormal glucose intolerance at 6 to 12 weeks postpartum in women with gestational diabetes at Thu Duc District Hospital and some related factors. Method: Prospective longtitue study on 185 pregnant women with gestational diabetes. The postpartum follow-up in Thu Duc District Hospital met the sampling criteria from 01/08/2017 to 30/06/2018, agreed to participate in the study. They were carried out test 75 grams of glucose - 2 hours between 6 and 12 weeks after births. Results: The prevalence of abnormal glucose tolerance at 6 - 12 weeks postpartum (ADA 2016) was 25.9% 95% CI [19.6-32.3] with subgroups: prevalence of diabetes mellitus was 2.7%; 95% CI [0.3-5.0]; glucose * Bệnh viện Quận Thủ Đức ** Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch Tác giả liên lạc: PGS TS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015 Email: tranghnk08@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 173 tolerance disorder is 22.2% 95% CI [16.2-28.2]; perinatal hypoglycemia was 4.3% 95% CI [1.3-7.2]. Moreover, this results was statistically significant relationship between fasting plasma glucose levels and at 2 hours of gestation at corresponding postpartum periods. Conclusion: Test 75 grams- 2 hours of glucose tolerance should be administered at 6 - 12 weeks postpartum in in women with gestational diabetes. Key words: gestational diabetes mellitus, abnormal glucose tolerance ĐẶT VẤN ĐỀ Kết quả điều tra về các yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm do Bộ Y tế thực hiện năm 2015, ở nhóm tuổi từ 18 - 69, cho thấy tỷ lệ ĐTĐ (Đái tháo đường) toàn quốc là 4,1%, tiền ĐTĐ là 3,6%. Cùng với bệnh đái tháo đường, đái tháo đường thai kỳ cũng ngày càng tăng do tuổi sanh đẻ tăng, phụ nữ ngày càng thừa cân, béo phì và ít vận động. Tỉ lệ đái tháo đường thai kỳ thay đổi tùy thuộc vào dân số nghiên cứu, tiêu chí chọn mẫu, tiêu chuẩn chẩn đoán. Tại Việt nam, tỉ lệ này tăng từ 3,9% vào năm 2004(10) đến 20,9% năm 2016(11). Nếu không được chẩn đoán và điều trị thích hợp, có thể ảnh hưởng đến tử suất và bệnh suất của mẹ và thai nhi. Đa số các trường hợp đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK), glucose huyết sẽ trở về bình thường sớm sau sinh, tuy nhiên một số diễn tiến về lâu dài sẽ có nguy cơ dẫn đến ĐTĐ típ 2, hội chứng chuyển hóa ở các bà mẹ, những trẻ sinh ra từ những bà mẹ này có nguy cơ bị ĐTĐ và tiền ĐTĐ khi đến tuổi trưởng thành(7,10). Hak C. Jang và cs (2003) ở Hàn Quốc nghiên cứu trên 311 bệnh nhân ĐTĐTK tham gia nghiệm pháp dung nạp glucose 75g - 2 giờ sau sinh 6 đến 8 tuần, kết quả 38,3% bất thường nghiệm pháp dung nạp glucose (NPDNG) trong đó 15,1% ĐTĐ và 23,2% rối loạn dung nạp đường(5). Jaroslaw Ogonowski và cs (2005 – 2007) ở Ba Lan trên 318 bệnh nhân ĐTĐTK thực hiện NPDNG 75g – 2 giờ sau sinh từ 5 đến 9 tuần. Kết quả 13,5% bất thường dung nạp glucose, trong đó 1,3% ĐTĐ, 2,5% rối loạn đường huyết đói và 7,5% rối loạn dung nạp glucose(6). Vì vậy các tổ chức và hội nghị về ĐTĐTK trên thế giới khuyến cáo nên thực hiện NPDNG 6 đến 12 tuần sau sinh nhằm phát hiện sớm những bất thường glucose huyết sau sinh giúp điều trị sớm, dự phòng làm chậm diễn tiến ĐTĐ típ 2 và các biến chứng về sau cũng như giảm nguy cơ sẩy thai và sinh con dị tật ở những bệnh nhân ĐTĐTK khi có thai lại(7). Tại Việt Nam, nghiên cứu của Phạm Thị Hải Châu 2012, ĐTĐTK chẩn đoán theo ADA 2010. Trong 247 trường hợp ĐTĐTK tại bệnh viện Hùng Vương test 75g glucose 6 đến 12 tuần sau sinh (WHO 2006) kết quả 33,2% bất thường NPDNG trong đó 7,7% ĐTĐ, 23,9% rối loạn dung nạp glucose, 1,6% rối loạn glucose đói(9). Bệnh viện quận Thủ Đức hằng năm có khoảng 6000 trường hợp sinh. Tại viện, tầm soát và chẩn đoán ĐTĐTK theo tiêu chuẩn của ADA 2016 đã được áp dụng trong phát đồ khám thai. Bệnh viện quận Thủ Đức là một Bệnh viện Đa Khoa tại bệnh viện hiện có khoảng 3000 hồ sơ bệnh nhân ĐTĐ đang được theo dõi, có chương trình tư vấn tầm soát ĐTĐ rất hiệu quả qua phát tờ rơi, thông tin truyền thông, câu lạc bộ ĐTĐ tuy nhiên vấn đề tư vấn và tầm soát cho các trường hợp có ĐTĐ thai kỳ sau sinh còn bở ngỡ. Với câu hỏi nghiên cứu: có bao nhiêu trường hợp bất thường nghiệm pháp dung nạp 75 gram trên thai phụ ĐTĐTK sau sinh 6 đến 12 tuần tại Bệnh viện Quận Thủ Đức và một số yếu tố nguy cơ nào liên quan? Chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu “Tỷ lệ rối loạn dung nạp đường huyết tại thời điểm 6 đến 12 tuần sau sinh ở các phụ nữ đái tháo đường thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Quận Thủ Đức”. Nghiên cứu với mục tiêu Xác định tỷ lệ rối loạn glucose huyết đói, rối loạn dung nạp glucose, đái tháo đường sau sinh 6 đến 12 tuần trên thai phụ ĐTĐTK tại bệnh viện quận Thủ Đức. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 174 Tìm mối liên quan giữa bất thường nghiệm pháp 75 gram glucose theo tiêu chí ADA (2016), đường huyết (ĐH) đói, ĐH 2 giờ của NPDNG sau sinh 6 - 12 tuần trên thai phụ ĐTĐTK. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu dọc tiền cứu. Đối tượng Thai phụ khám thai, được chẩn đoán ĐTĐTK (ADA, 2016)(1), theo dõi sinh tại bệnh viện quận Thủ Đức hội đủ các tiêu chí chọn mẫu trong thời gian từ 01/08/2017 – 30/06/2018, đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn nhận bệnh Thai phụ được chẩn đoán ĐTĐTK dựa theo nghiệm pháp dung nạp glucose của ADA - 2016. Thai phụ sinh tại BV Thủ Đức và đồng ý làm nghiệm pháp 75 gram glucose sau sinh 6 đến 12 tuần. Tiêu chuẩn loại trừ Thai phụ được chẩn đoán ĐTĐ trước khi mang thai. Thai phụ đang mắc các bệnh ảnh hưởng đến chuyển hóa đường như cường giáp, suy giáp, cushing, u tủy thượng thận, to đầu chi, suy gan, suy thận hoặc đang sử dụng các thuốc có ảnh hưởng đến chuyển hóa đường như corticoid, salbutamol, thuốc chẹn giao cảm, lợi tiểu nhóm thiazide. Các tiêu chí này được xác định qua hỏi tiền căn, khám lâm sàng. Cỡ mẫu Với mục tiêu chính của nghiên cứu là xác định tỷ lệ bất thường Nghiệm pháp 75 gram glucose sau sinh 6 đến 12 tuần ở các bệnh nhân ĐTĐTK tại bệnh viện Quận Thủ Đức. Cỡ mẫu theo công thức = ( ∝ ) × [(1 − )] = 185 Với: α mức ý nghĩa 0,05. Z(1-α/ 2)= 1,96 ở khoảng tin cậy 95% d: sai số cho phép = 5% Tỷ lệ bất thường nghiệm pháp dung nạp glucose sau sinh 6 đến 12 tuần p = 14% được tham khảo từ nghiên cứu của Jaroslaw Ogonowski và cs thực hiện năm 2005 đến 2007, ở vùng Tây Bắc của Ba Lan trên 318 bệnh nhân ĐTĐTK thực hiện nghiệm pháp dung nạp 75 gram – 2 giờ sau sinh 5 đến 9 tuần, kết quả 13,5% bất thường NPDNG(6), do vậy: 1-p = 0,86. Độ chính xác tuyệt đối, d=5%. Do đó cỡ mẫu dự kiến là 185 Chọn mẫu toàn bộ cho đến khi đủ mẫu. Sử dụng phần mềm SPSS để nhập xử lý và phân tích số liệu. KẾT QUẢ Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ của đối tượng nghiên cứu (n=185) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Tuổi trung bình (năm) 32,0324 ± 5,043 ≤24 14 7,6 25-34 120 64,9 ≥35 51 27,6 Dân tộc kinh 180 97,3 Địa phương Tỉnh 87 47,0 Tp. Hồ Chí Minh 98 53,0 Trình độ học vấn Cấp 1 16 8,6 Cấp 2 109 58,9 Cấp 3 45 24,3 Cao đẳng đại học 15 8,1 Nghề nghiệp Nội trợ 13 7,0 CNV 24 12,9 Công nhân 135 73,0 Buôn bán 9 4,9 Nghề khác 4 2,2 Số lần sinh Con so 51 27,6 Con rạ 134 72,4 Sẩy thai 40 21,6 Sẩy thai lưu 3 1,2 Sinh con to 9 4,9 Bố, mẹ, anh chị em ruột bị ĐTĐ 10 5,4 Cao huyết áp 2 1,1 Đái tháo đường thai kỳ 2 1,1 Thai lưu tam cá nguyệt III 1 0,5 Mổ lấy thai 39 21,1 Tiền sản giật 5 2,7 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 175 Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%) Tuổi trung bình (năm) 32,0324 ± 5,043 Sinh non 5 2,7 ĐTĐTK có sử dụng insulin 19 10,3 Bảng 2. Kết quả NPDNG sau sinh theo tiêu chí ADA 2016 Kết quả glucose huyết Tần số Tỷ lệ KTC 95% Glucose huyết bình thường 137 74,1 Bất thường NPDNG 48 25,9 19,6 – 32,3 Đái tháo đường 5 2,7 0,3 – 5,0 Rối loạn dung nạp glucose 41 22,2 16,2 – 28,2 Rối loạn glucose huyết đói 8 4,3 1,3 – 7,2 Bảng 3. Phân tích mối liên quan giữa quan giữa giá trị đường huyết chẩn đoán trong thai kỳ, cân nặng thai nhi sau sinh với ĐH đói và 2 giờ sau sinh 6-12 tuần Yếu tố R P CĐ trong TK so với ĐH lúc đói sau sinh ĐH lúc đói 0,242 0,001 ĐH 1h 0,041 0,583 ĐH 2h -0,085 0,249 Cân nặng thai nhi sau sinh 0,184 0,012 CĐ trong TK so với ĐH 2h sau sinh ĐH lúc đói 0,035 0,641 ĐH 1h 0,075 0,312 ĐH 2h 0,174 0,018 Cân nặng thai nhi sau sinh 0.074 0.316 Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa ĐH đói lúc chẩn đoán trong thai kỳ với ĐH đói sau sinh 6 đến 12 tuần với hệ số liên quan r=0,242 và P= 0,001. Tương tự như vậy, có mối liên quan giữa cân nặng của thai nhi sau sinh với ĐH đói sau sinh 6 đến 12 tuần hệ số liên quan r= 0,184 và P= 0,012. Có mối liên quan giữa ĐH 2 giờ lúc chẩn đoán trong thai kỳ với ĐH 2h sau sinh 6 đến 12 tuần với hệ số liên quan r= 0,174 và P= 0,018. Theo phương trình hồi quy tuyến tính Y=a+bX. Hệ số hồi quy: độ dốc của đường thẳng hồi quy, cùng dấu với r. Ý nghiã: Nếu biến X tăng 1 đơn vị thì: Biến Y sẽ tăng b đơn vị nếu b>0, Biến Y sẽ giảm b đơn vị nếu b<0. Theo phương trình hồi quy tuyến tính thì giá trị đường huyết đói lúc chẩn đoán ĐTĐTK tăng 10 mg/dL thì làm tăng đường huyết đói sau sinh 6 - 2 tuần 1,83 mg/dL. Cũng như vậy, cân nặng thai nhi sau sinh tăng 1000 gr thì làm tăng đường huyết đói sau sinh 6 - 12 tuần 5 mg/dL. Tương tự giá trị đường huyết 2h lúc chẩn đoán ĐTĐTK tăng 10 mg/dL thì làm tăng đường huyết 2h sau sinh 6-12 tuần 1,73 mg/dL với giá trị p<0,05. Tuổi mẹ tăng 1 tuổi thì đường huyết đói sau sinh tăng 0,44 mg/dL. BÀN LUẬN Tương tự như ĐTĐTK, tỷ lệ bất thường NPDNG sau sinh cũng thay đổi tùy theo dân số nghiên cứu, chủng tộc, đối tượng nghiên cứu, thời điểm nghiên cứu, tiêu chí chẩn đoán. Trước đây, tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường của WHO và ADA không khác nhau. Tuy nhiên có khác nhau giữa tiêu chí chẩn đoán tiền đái tháo đường cụ thể là theo WHO 2006 tiêu chuẩn rối loạn ĐH đói là 110 - 125 mg/dL. Theo ADA 2010 thì tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn ĐH đói là 100 - 125 mg/dL. Các xu hướng chẩn đoán đái tháo đường về sau này có tiêu chí thấp hơn trước. Sau 2012, thì tiêu chí chẩn đoán đái tháo đường của các tổ chức lớn như WHO, ACOG, ADA có sự tương đồng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chọn tiêu chí ADA 2016 để chẩn đoán đái tháo đường sau sinh(1). So với thời điểm hiện tại thì tiêu chí ADA không thay đổi gì so với năm 2016. Ngoài chẩn đoán đái tháo đường dựa vào NPDNG, còn dựa vào HbA1c, tuy nhiên xét nghiệm chẩn đoán HbA1c này đòi hỏi phải thực hiện bằng phương pháp được đăng ký bởi các tổ chức chuyên ngành và hiện nay chưa có khuyến cáo chính thống việc sử dụng HbA1c như là một xét nghiệm tầm soát trong thời gian hậu sản, vì sự ảnh hưởng của thai và mất máu trong thời gian chu sinh, cụ thể trên số lượng hồng cầu có thể làm ảnh hưởng đến mối liên quan này. Do đó, hiện nay NPDNG 75g 2 giờ vẫn là xét nghiệm chẩn đoán tốt nhất để xác định bất thường glucose huyết sau sinh ở bệnh nhân ĐTĐTK, việc sử dụng đơn thuần glucose huyết đói, HbA1c vẫn chưa được khuyến cáo. Chính vì Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 176 vậy, chúng tôi làm nghiệm pháp dung nạp glucose để chẩn đoán đái tháo đường sau sinh trong nghiên cứu này. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng định nghĩa đái tháo đường thai kỳ là trường hợp rối loạn dung nạp glucose được chẩn đoán đầu tiên khi có thai, loại trừ khả năng bênh nhân đã bị đái tháo đường trước khi mang thai theo tiêu chuẩn của ADA 2016: Đái tháo đường thai kỳ khi làm nghiệm pháp glucose: Đường huyết đói ≥ 5,1mmol/l (92 mg/dL) hoặc 1 giờ sau uống 75g glucose ≥ 10,0 mmol/L (180 mg/dL) hoặc 2 giờ sau uống 75g glucose ≥ 8,5 (153 mg/dL). Tỷ lệ bất thường NPDNG sau sinh 6-12 tuần theo tiêu chí ADA 2016(1) trong các bệnh nhân ĐTĐTK tại bệnh viện quận Thủ Đức chiếm khá cao. Bất thường NPDNG chiếm tỷ lệ 25,9% KTC 95% [19,6 - 32,3]. Với các phân nhóm: đái tháo đường chiếm tỷ lệ 2,7% KTC 95% [0,3-5,0], rối loạn dung nạp glucose chiếm tỷ lệ 22,2% KTC 95% [16,2 - 28,2], rối loạn glucose huyết đói chiếm tỷ lệ 4,3% KTC 95% [1,3 - 7,2]. NICE khuyến cáo tầm soát 6 tuần sau sinh ở bệnh nhân ĐTĐTK bằng glucose huyết đói đơn thuần, không phải NPGNG. So với NPDNG thì xét nghiệm glucose huyết đói đơn thuần dễ thực hiện, ít tốn thời gian, bệnh nhân dễ tuân thủ, tuy nhiên thiếu độ nhạy và dễ bỏ sót các trường hợp bất thường glucose huyết. Trong nghiên cứu này, nếu chỉ dựa vào xét nghiệm glucose huyết đói đơn thuần (Bảng 2) sau sinh 6 - 12 tuần, chỉ phát hiện được 1,6% trường hợp đái tháo đường sau sinh, bỏ sót 1,1% trường hợp đái tháo đường được chẩn đoán bằng glucose huyết 2 giờ của NPDNG. Đối với trường hợp bất thường glucose huyết sau sinh thì glucose huyết đói chỉ chẩn đoán được 4,3%, bỏ sót 22,2% các trường hợp bất thường glucose huyết sau sinh. Nghiên cứu của Ngô Thị Kim Phụng ghi nhận 50% trường hợp rối loạn dung nạp glucose có glucose huyết đói bình thường, do đó dễ bỏ sót lớn hơn 50% phụ nữ có những bất thường này nếu chỉ dựa vào glucose huyết đói mà không làm NPDNG(8). Nghiên cứu của Phạm Thị Hải Châu nếu chỉ dựa vào xét nghiệm glucose huyết đói đơn thuần sau sinh 6-12 tuần, chỉ phát hiện được 4,45% trường hợp đái tháo đường sau sinh, bỏ sót 3,25% trường hợp đái tháo đường được chẩn đoán bằng glucose huyết 2 giờ của NPDNG. Đối với bất thường glucose huyết sau sinh thì glucose huyết đói chỉ chẩn đoán được 8,5%, bỏ sót 24,7% các trường hợp bất thường glucose huyết sau sinh(9). Nghiên cứu của Shauna L. và cs cho thấy nếu dựa vào xét nghiệm glucose huyết đói đơn thuần có thể bỏ sót 39% các trường hợp rối loạn dung nạp glucose hoặc đái tháo đường và 54% trường hợp đái tháo đường típ 2(2). Dữ kiện về hội nghị thế giới về ĐTĐTK lần V đã cho thấy rằng, sau sinh chỉ có 34% bệnh nhân rối loạn dung nạp glucose hoặc đái tháo đường có rối loạn đường huyết đói và 44% những bệnh nhân đái tháo đường có giá trị glucose huyết đói <100 mg/dL (<5,5 mmol/l)(3). Do đó hiện nay NPDNG vẫn được xem là tiêu chí vàng trong đánh giá tình trạng dung nạp glucose sau sinh 6 - 12 tuần ở các bệnh nhân ĐTĐTK vì sự bỏ sót nhiều trường hợp bất thường glucose huyết sau sinh nếu chỉ xét nghiệm glucose huyết đơn thuần. Sau khi phân tích hồi quy tìm mối liên quan giữa tuổi mẹ, tuổi thai tại thời điểm chẩn đoán ĐTĐTK, các giá trị đường huyết trong chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ (ĐH lúc đói, ĐH 1 giờ, ĐH 2 giờ), cân nặng thai nhi sau sinh với đường huyết đói, đường huyết 2 giờ của NPDNG sau sinh 6 - 12 tuần thì có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa ĐH đói lúc chẩn đoán trong thai kỳ với ĐH đói sau sinh 6 đến 12 tuần với hệ số liên quan r= 0,242 và P= 0,001 (Bảng 3). Tương tự như vậy, có mối liên quan giữa cân nặng của thai nhi sau sinh với ĐH đói sau sinh 6 đến 12 tuần với hệ số liên quan r= 0,184 và P= 0,012. Có mối liên quan giữa ĐH 2 giờ lúc chẩn đoán trong thai kỳ với ĐH 2h sau sinh 6 đến 12 tuần với hệ số liên quan r= 0,174 và P= 0,018, tương tự kết quả nghiên cứu của Sherita HG và cộng sự(4). Theo phương trình hồi quy tuyến tính thì giá trị đường huyết đói lúc chẩn đoán ĐTĐTK tăng 10 mg/dL thì làm tăng đường Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 177 huyết đói sau sinh 6 - 12 tuần 1,83 mg/dL. Cũng như vậy, cân nặng thai nhi sau sinh tăng 1000gr thì làm tăng đường huyết đói sau sinh 6-12 tuần 5 mg/dL. Tương tự giá trị đường huyết 2h lúc chẩn đoán ĐTĐTK tăng 10mg/dL thì làm tăng đương huyết 2h sau sinh 6 - 12 tuần 1.73 mg/dL với giá trị p<0,05. Tuổi mẹ tăng 1 tuổi thì đường huyết đói sau sinh tăng 0,44 mg/dL. Giá trị ĐH đói tại thời điểm chẩn đoán ĐTĐTK là yếu tố quan trọng với bất thường NPDNG sau sinh 6 - 12 tuần. Trong nghiên cứu trước đó của Phạm Thị Hải Châu (2012) cũng tìm thấy điều tương tự là cứ gia tăng mỗi 12,6 mg/dL giá trị ĐH đói thì làm tăng nguy cơ bất thường NPDNG sau sinh lên 1,8 lần (1,27-2,58)(9). Giá trị đường huyết 2 giờ tại thời điểm chẩn đoán ĐTĐTK. Đây là yếu tố nguy cơ quan trọng với bất thường ĐH 2 giờ của NPDNG 6 - 12 tuần, trong đó tăng 10 mg/dL thì làm tăng đương huyết 2h sau sinh 6-12 tuần 1.6 mg/dL tương tự trong nghiên cứu của Phạm Thị Hải Châu (2012) trong đó giá trị glucose huyết 2 giờ tại thời điểm chẩn đoán ĐTĐTK cứ gia tăng mỗi 52,1 mg/dL thì làm tăng nguy cơ dẫn đến bất thường NPDNG sau sinh hơn 1,6 lần (1,05 - 2,46)(9). Tương tự với nghiên cứu Jang HC và cs tại Hàn Quốc trong phân tích đa biến cho thấy giá trị glucose huyết 2 giờ của NPDNG tại thời điểm chẩn đoán ĐTĐTK (p=0,004) là yếu tố dự báo của bất thường NPDNG sau sinh 6 - 8 tuần(5). HẠN CHẾ Nghiên cứu chọn P= 14%, sai lệch 5%, kết cục ghi nhận 25,9% (ước lượng sai) nên các kết quả thống kê bị hạn chế. Việc xác định các yếu tố liên quan đến bất thường NPDNG không đủ mạnh do không phải là nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng. KẾT LUẬN Sau khi thực hiện nghiên cứu trên 185 trường hợp, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Tỷ lệ bất thường NPDNG sau sinh 6-12 tuần (ADA 2016) ) là 25,9% KTC 95% [19,6- 32,3] với các phân nhóm: (i) Đái tháo đường chiếm tỷ lệ là 2,7% KTC 95% [0,3-5,0]; (ii) Rối loạn dung nạp glucose là 22,2% KTC 95% [16,2 - 28,2]; (iii) Rối loạn glucose huyết đói là 4,3% KTC 95% [1,3 - 7,2]. Yếu tố liên quan đến ĐH đói sau sinh đó là: tuổi mẹ, đường huyết đói lúc chẩn đoán ĐTĐTK và cân nặng thai nhi sau sinh. Trong đó thì giá trị đường huyết đói lúc chẩn đoán ĐTĐTK tăng 10 mg/dL thì làm tăng đường huyết đói sau sinh 6 - 12 tuần 1,83 mg/dL. Cũng như vậy, cân nặng thai nhi sau sinh tăng 1000gr thì làm tăng đường huyết đói sau sinh 6 - 12 tuần 5 mg/dL và tuổi mẹ tăng 1 tuổi thì đường huyết đói sau sinh tăng 0,44 mg/dL với p< 0,05 và hệ số tương quan r<0,3. Ngoài ra, yếu tố liên quan giữa đường huyết 2h của NPDNG lúc chẩn đoán ĐTĐTK có mối liên quan với bất thường đường huyết 2h của nghiệm pháp dung nạp glucose sau sinh 6 - 12 tuần. Giá trị đường huyết 2h lúc chẩn đoán ĐTĐTK tăng 10mg/dL thì làm tăng đương huyết 2h sau sinh 6 - 12 tuần 1,73 mg/dL với giá trị p< 0,05 và hệ số tương quan r<0,3. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ADA (2016). "Standards of Medical Care in Diabetes 2016". Diabetes Care Volume 39, Supplement 1, January 2016. S20 (screening). S95 (HbA1C). 2. Chaefer-Graf UM, Buchanan TA, Xiang AH et al (2002). “Clinical predictors for a high risk for the development of diabetes mellitus in the early puerperium in women with recent gestational diabetes mellitus”. Am J Obstet Gynecol, 186:pp.751-756. 3. Dodd JM, Crowther CA, Antoniou G, Baghurst P, Robinson JS (2007). “Screening for gestational diabetes: the effect of varying blood glucose definitions in the prediction of adverse maternal and infant health outcomes”. Aust Obstet Gynecol 47, pp. 307. 4. Golden SH, Bennett WL, Baptist-Roberts K et al (2009). “Antepartum glucose tolerance test results as predictors of type 2 diabetes mellitus in women with a history of gestational diabetes mellitus: A systematic review”. Gender Medicine, 6:pp.109- 122. 5. Haak CJ, Yim CH, Han KO, Yoon HK et al. “Gestational diabetes mellitus in Korea: prevalence and prediction of glucose intolerance at early postpartum”. Diabetes Research and Clinical Practice, 61, 117-124. 6. Jarosław O, Tomasz M (2009). “The prevalence of 6 weeks postpartum abnormal glucose tolerance in Caucasian women with gestational diabetes”. Diabetes Research and Clinical Practice, 84, pp. 239-244. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 178 7. John LK, Dang-Kilduff L, Taslimi MM (2007). “Gestational diabetes after delivery. Short-term management and long- term risks”. Diabetes Care, 30(2):pp S225-S235. 8. Ngô Thị Kim Phụng (2004). "Tầm soát đái tháo đường thai kỳ tại Quận 4, TP Hồ Chí Minh"., Luận án Tiến sĩ Y học chuyên ngành sản phụ khoa, trang 36-46, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 9. Phạm Thị Hải Châu và Ngô Thị Kim Phụng (2012). "Tỷ lệ bất thường nghiệm pháp dung nạp Glucose sau sanh 6 đến 12 tuần trên bệnh nhân ĐTĐTK tại BV Hùng Vương". Tạp chí Y học TP HCM, 17(1) 10. Tô Thị Minh Nguyệt (2009). “Tỷ lệ đái tháo đường trong thai kỳ và cá yếu tố liên quan ở những thai phụ nguy cơ cao tại bệnh viện Từ Dũ”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 13(1), trang 66-67. 11. Trương Thị Quỳnh Hoa, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2017). “Tỷ lệ đái tháo đường thai kỳ và yếu tố liên quan tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình định”. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 21(S1):pp.74-79. Ngày nhận bài báo: 30/11/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2018 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfty_le_roi_loan_dung_nap_duong_huyet_tai_thoi_diem_6_den_12_t.pdf