Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm siêu vi viêm gan B (hbsag dương tính) tại tỉnh Bình Thuận năm 2018

Tài liệu Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm siêu vi viêm gan B (hbsag dương tính) tại tỉnh Bình Thuận năm 2018: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 92 TỶ LỆ PHỤ NỮ MANG THAI NHIỄM SIÊU VI VIÊM GAN B (HBsAg DƯƠNG TÍNH) TẠI TỈNH BÌNH THUẬN NĂM 2018 Trần Thị Hữu An*, Phạm Văn Chương*, Đỗ Huy Sơn* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Việt Nam có trên 12% dân số dương tính với HBsAg và là một trong những nước có tỷ suất chết do ung thư gan theo tuổi năm 2012 cao nhất thế giới. Việc phòng tránh lây nhiễm dọc viêm gan siêu vi B từ mẹ dương tính với HBsAg trong khi mang thai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giảm số mắc và chết do bệnh viêm gan siêu vi B. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm siêu vi viêm gan B tại Bình Thuận và một số yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang 500 phụ nữ mang thai được chọn theo phương pháp chọn mẫu phân tầng. Các yếu tố liên quan được thu thập với bộ câu hỏi soạn sẵn. Xét nghiệm HBsAg và HBeAg thực hiện theo phương pháp ELISA. Kết quả: Tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsA...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 584 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm siêu vi viêm gan B (hbsag dương tính) tại tỉnh Bình Thuận năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 92 TỶ LỆ PHỤ NỮ MANG THAI NHIỄM SIÊU VI VIÊM GAN B (HBsAg DƯƠNG TÍNH) TẠI TỈNH BÌNH THUẬN NĂM 2018 Trần Thị Hữu An*, Phạm Văn Chương*, Đỗ Huy Sơn* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Việt Nam có trên 12% dân số dương tính với HBsAg và là một trong những nước có tỷ suất chết do ung thư gan theo tuổi năm 2012 cao nhất thế giới. Việc phòng tránh lây nhiễm dọc viêm gan siêu vi B từ mẹ dương tính với HBsAg trong khi mang thai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giảm số mắc và chết do bệnh viêm gan siêu vi B. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm siêu vi viêm gan B tại Bình Thuận và một số yếu tố liên quan. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang 500 phụ nữ mang thai được chọn theo phương pháp chọn mẫu phân tầng. Các yếu tố liên quan được thu thập với bộ câu hỏi soạn sẵn. Xét nghiệm HBsAg và HBeAg thực hiện theo phương pháp ELISA. Kết quả: Tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg là 10,8%. Trong số phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg, tỷ lệ dương tính với HBeAg là 40,7%. Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa HBsAg dương tính với lần mang thai và tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B. Kết luận: Bình Thuận có tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg ở mức cao so với thế giới. Cần tầm soát phụ nữ mang thai lần thứ hai trở lên và có tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B để dự phòng lây nhiễm từ mẹ sang con. Từ khóa: viêm gan siêu vi B, phụ nữ mang thai ABSTRACT PREVALENCE OF HBsAg-POSITIVE AMONG PREGNANT WOMENLIVING IN BINH THUAN PROVINCE Tran Thi Huu An, Pham Van Chuong, Do Huy Son * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 92 - 99 Background: About 12% of the Vietnamese population is positive for HBsAg and is one of the countries with the highest death rate due to liver cancer in 2012. Prevention HBV direct-transmission from pregnant women who were positive for HBsAg to their newborns is undoubtedly important to decrease morbidity and mortality caused by HBV. Objective: To determine the prevalence of HBsAg among pregnant women living in Binh Thuan province and factors related to it. Methods: Five hundred pregnant women were enrolled by stratified sampling in a cross-sectional study conducted in 2018. A designed questionnaire was used to obtain the data on the characteristics of participants. HBsAg and HBeAg were detected using ELISA methods with test kits from Fortress Diagnostics, UK. Results: Prevalence of HBsAg among participants was 10.8% (95% CI: 8.1-13.5%) out of which 40.7% (95% CI: 17.6-53.8%) were positive for HBeAg. By multivariate logistics regression analysis, HBsAg seropositivity was found to be significantly related to the pregnancy times (adjusted OR: 2.5; 95% CI: 1.1- 5.0; p<0.05) and family history of hepatitis B (adjusted OR: 3.3; 95% CI: 1.4- 10.0; p <0.01). *Trường Cao đẳng Y tế Bình Thuận Tác giả liên lạc: TS. Đỗ Huy Sơn ĐT: 0903100802 Email: sondh@tcdyt.binhthuan.gov.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 93 Conclusions: The prevalence of HBsAg among pregnant women living in Binh Thuan province was relatively high compared with the worldwide rate. Particularly, early screening for HBV infection in pregnant women who have more than one pregnancy or having a family history of hepatitis B should be more prioritized to prevent HBV transmission. Keywords: HBsAg, pregnant women ĐẶT VẤN ĐỀ Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ước tính có khoảng 170 triệu người đang bị viêm gan siêu vi B mạn tính toàn cầu, trong đó Việt Nam có khoảng 12% dân số dương tính với HBsAg(4). Tỷ suất chết do ung thư gan chuẩn hóa theo tuổi năm 2012 của Việt Nam nằm trong nhóm cao nhất thế giới, ước tính xấp xỉ 23,7/100000 dân(4). Kháng nguyên HBsAg là dấu chứng của nhiễm siêu vi mạn tính nếu kháng nguyên này tồn tại kéo dài hơn 6 tháng. Ngoài ra, kháng nguyên HBeAg là bằng chứng cho thấy siêu vi đang nhân lên trong cơ thể. Máu và dịch thể của người có HBeAg dương tính là nguồn lây nhiễm rất cao. Nguy cơ tiến triển thành viêm gan mạn tính thay đổi tùy theo độ tuổi lúc người bệnh bắt đầu nhiễm siêu vi viêm gan B: 80-90% nếu bị nhiễm ở tuổi nhũ nhi, 30-50% nếu bị nhiễm lúc nhỏ hơn 5 tuổi và dưới 5% nếu bị nhiễm lúc đã trưởng thành. Như vậy, việc phòng tránh lây nhiễm viêm gan siêu vi B ở trẻ em dưới 5 tuổi, kể cả lây nhiễm dọc từ mẹ đã nhiễm siêu vi viêm gan B mạn tính trong khi mang thai và sinh nở, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm giảm số mắc và chết do bệnh viêm gan siêu vi B. Ở Bình Thuận, cho đến nay, chưa có công bố nào về tình hình lây nhiễm siêu vi viêm gan B ở phụ nữ có thai trong khi đây là những dữ liệu nền tảng để đề xuất giải pháp nhằm giảm tỷ lệ lây nhiễm siêu vi viêm gan B cho phụ nữ mang thai, giảm tỷ lệ trẻ sơ sinh bị lây nhiễm siêu vi viêm gan B theo đường mẹ truyền sang con ở Bình Thuận. Do đó, đề tài “Tỷ lệ phụ nữ mang thai nhiễm siêu vi viêm gan B (HBsAg dương tính) tại tỉnh Bình Thuận năm 2018” được thực hiện với mong muốn tìm ra tỷ lệ HBsAg (+) ở phụ nữ mang thai tại Bình Thuận và khảo sát một số yếu tố liên quan. Mục tiêu nghiên cứu Xác định tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg và tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBeAg tại tỉnh Bình Thuận năm 2018. Xác định mối liên quan giữa tình trạng HBsAg dương tính với độ tuổi, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ học vấn, lần mang thai và tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Tiêu chí chọn mẫu Phụ nữ mang thai có hộ khẩu thường trú tại các địa phương trong cụm; thai kỳ bình thường; đến khám thai hoặc sinh con tại bệnh viện trong thời gian triển khai nghiên cứu; đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chí loại trừ Có tiền sử tai biến sản khoa Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Điều tra cắt ngang. Cỡ mẫu Tính theo công thức nhằm xác định 1 tỷ lệ của dân số: n = Z2 1-α/2 x p(1-p)/d2 x DE Với Z 1-α/2 = 1,96; d = 0,05. p = 0,2 (tỷ lệ HBsAg(+) ở phụ nữ mang thai dự kiến). DE (hiệu ứng thiết kế) = 2. Vậy n (cỡ mẫu tối thiểu) = 492. Trong nghiên cứu này cỡ mẫu là 500 phụ nữ mang thai. (Tỷ lệ HBsAg(+) ở phụ nữ mang thai dự kiến tỷ lệ HBsAg dương tính của người lớn ở Bình Thuận theo Son Huy Do, 2014(4) là 15,3% và Hứa Văn Danh, 2015(6) là 26,0% cho nên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 94 chúng tôi dự kiến p xấp xỉ bằng trung bình của 2 kết quả trên: p = 0,2). Kỹ thuật chọn mẫu Chọn mẫu phân tầng theo huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Bình Thuận có 4 bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh được chọn làm 4 cụm lấy mẫu ở 9/10 huyện/thị xã/thành phố (trừ 1 huyện đảo không thể tổ chức thu thập mẫu nghiên cứu vì lý do địa lý). Tại mỗi cụm, những phụ nữ mang thai đáp ứng yêu cầu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên đơn vào mẫu nghiên cứu cho đến khi đủ số lượng quy định. Số lượng mẫu được chọn tại các huyện/thị xã/thành phố tỷ lệ theo dân số của mỗi địa phương (Bảng 1). Bảng 1: Kỹ thuật chọn mẫu Cụm Địa phương trong cụm Tỷ lệ dân số địa phương so với dân số toàn tỉnh (%) Số mẫu được chọn ở địa phương (người) Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận Phan Thiết 20,7 100 Hàm Thuận Nam 8,5 43 Hàm Thuận Bắc 14,4 73 Bệnh viện đa khoa khu vực phía Nam Bình Thuận Đức Linh 10,7 56 Tánh Linh 8,7 42 Bệnh viện đa khoa khu vực Bắc Bình Thuận Bắc Bình 10,0 50 Tuy Phong 12,0 61 Bệnh viện đa khoa khu vực La Gi La Gi 9,0 40 Hàm Tân 6,0 35 Tổng cộng 100,0 500 Thu thập số liệu Thông tin về các yếu tố liên quan được thu thập bằng bộ câu hỏi soạn sẵn. Phụ nữ mang thai tham gia nghiên cứu được lấy 3ml máu tĩnh mạch theo cách thức thường quy, sau đó ly tâm lấy huyết thanh, bảo quản và vận chuyển đến phòng xét nghiệm đạt chuẩn quốc gia của Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Bình Thuận để thực hiện các xét nghiệm ELISA với máy đọc Elisa ELx800, Biotek - Mỹ, máy rửa ELx50, Biotek - Mỹ, máy ủ Elisa 37oC, PST-60HL plus - Đức, tủ An toàn sinh học cấp 2, AC2-4S1 Esco - Mỹ và bộ sinh phẩm chẩn đoán Fortress Diagnostics – Anh nhằm phát hiện HBsAg, HBsAb, HBcAb. Các mẫu huyết thanh dương tính với HBsAg được tiếp tục xét nghiệm tìm kháng nguyên HBeAg. Phân tích số liệu Các thống kê mô tả được tính với khoảng tin cậy 95% (KTC 95%). Mối liên quan giữa các biến số được phân tích bằng tỷ số chênh OR (Odds Ratio). P hân tích đơn biến được thực hiện bằng kiểm định Chi bình phương. Nếu số ô có vọng trị <5 vượt quá 20% tổng số các ô thì dùng kiểm định Fisher exact bằng phần mềm R 3.5.1. Phân tích đa biến hồi quy logistic thực hiện bằng phần mềm SPSS (IBM SPSS Statistic Subscription). Các kiểm định thống kê được xem là có ý nghĩa khi p-value <0,05. KẾT QUẢ Đặc điểm của mẫu nghiên cứu Trong thời gian từ tháng 1/2018 đến tháng 6/2018, có 500 phụ nữ mang thai được đưa vào nghiên cứu. Bảng 2: Đặc điểm của phụ nữ mang thai tại Bình Thuận 2018 (n=500) Yếu tố Tần suất Tỷ lệ (%) Độ tuổi < 20 57 11,4 21 – 25 157 31,4 26 – 30 168 33,6 31 – 35 84 16,8 > 36 34 6,8 Nơi cư trú Tuy Phong 61 12,2 Bắc Bình 50 10,0 Hàm Thuận Bắc 73 14,6 Phan Thiết 100 20,0 Hàm Thuận Nam 43 8,6 La Gi 40 8,0 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 95 Yếu tố Tần suất Tỷ lệ (%) Hàm Tân 35 7,0 Tánh Linh 42 8,4 Đức Linh 56 11,2 Nghề nghiệp Nội trợ 187 37,4 Làm nông 136 27,2 Công nhân 111 22,2 Nghề khác 66 13,2 Trình độ học vấn Trung học phổ thông trở lên 189 37,8 Trung học cơ sở 210 42,0 Tiểu học 101 20,2 Lần mang thai Lần 1 214 42,8 Lần 2 185 37,0 Lần 3 trở lên 101 20,2 Tiền sử gia đình có người mắc bệnh VGSV B Không 479 95,8 Có 21 4,2 Tuổi trung bình của 500 phụ nữ mang thai đủ tiêu chuẩn tham gia trong nghiên cứu của chúng tôi là 26,89 + 10,84, tuổi nhỏ nhất là 18 và tuổi lớn nhất là 42, phần lớn tập trung ở độ tuổi từ 21 đến 30 tuổi (65,0%). Mẫu nghiên cứu có tỷ lệ phân bố về nơi cư trú phù hợp với tỷ lệ dân số của mỗi địa phương so với dân số toàn tỉnh. Tỷ lệ phụ nữ mang thai trong mẫu nghiên cứu làm nội trợ là 37,4%, số ít hơn lần lượt làm nghề nông, công nhân và nhóm có các nghề nghiệp khác chiếm tỷ lệ thấp nhất, chỉ hơn 13%, bao gồm buôn bán, nhân viên văn phòng, nhân viên y tế, giáo viên và sinh viên. Phụ nữ mang thai có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên chiếm tỷ lệ là 79,8% và hơn 50% số phụ nữ mang thai được khảo sát đang mang thai lần thứ 2 trở lên. Chỉ có chưa đến 5% số phụ nữ mang thai trong mẫu nghiên cứu có tiền sử gia đình có người mắc bệnh VGSV B (Bảng 2). Tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg và HBeAg Tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg là 10,8% (KTC 95%: 8,1-13,5). Trong số phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg, tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBeAg là 40,7% (KTC 95%: 17,6-53,8) (Hình 1). Hình 1. Tỷ lệ dương tính với HBsAg và HBeAg của phụ nữ mang thai tại Bình Thuận 2018 (n=500) Phân tích mối liên quan giữa tình trạng HBsAg dương tính với một số yếu tố Phân tích đơn biến cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa HBsAg dương tính với các yếu tố trình độ học vấn, lần mang thai và tiền sử gia đình có người mắc bệnh viêm gan B. Phụ nữ mang thai có trình độ học vấn tiểu học có tỷ lệ dương tính với HBsAg cao gấp 2,4 lần so với Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 96 phụ nữ mang thai có trình độ trung học phổ thông trở lên (p <0,05). Trong khi đó, nếu mang thai lần thứ 2 hay lần thứ 3 trở lên, tỷ lệ dương tính với HBsAg cao gấp 3,6 lần so với ở những phụ nữ mang thai lần 1 (p <0,005). Phụ nữ mang thai có tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B cũng có tỷ lệ dương tính với HBsAg cao gấp 3,4 lần so với phụ nữ mang thai không có tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B (p <0,05) (Bảng 3). Về nơi cư trú, kết quả phân tích ở bảng 2 cho thấy phụ nữ mang thai sống ở La Gi và Tuy Phong có tỷ lệ dương tính với HBsAg cao hơn phụ nữ mang thai sống ở các địa phương khác trong tỉnh 2,2 lần (p <0,05) (Bảng 4). Bảng 3: Phân tích đơn biến mối liên quan giữa HBsAg dương tính và một số yếu tố của phụ nữ mang thai tại Bình Thuận 2018 (n=500) Yếu tố Tổng HBsAg (+) Tần suất Tỷ lệ % OR KTC95% p-value Độ tuổi (*) < 20 57 4 7,0 1,0 21 – 25 157 17 10,8 1,5 0,5 – 6,6 0,604 26 – 30 168 16 9,5 1,4 0,4 – 5,8 0,779 31 – 35 84 12 14,3 2,0 0,6 – 9,1 0,287 > 36 34 5 14,7 2,1 0,4 – 11,2 0,306 Nơi cư trú (*) Đức Linh 56 6 10,7 1,0 Tuy Phong 61 11 18,0 1,8 0,6 – 5,3 0,477 Bắc Bình 50 4 8,0 0,8 0,2 – 3,4 0,749 Hàm Thuận Bắc 73 7 9,6 0,9 0,3 – 2,8 1,0 Phan Thiết 100 8 8,0 0,7 0,2 – 2,2 0,819 Hàm Thuận Nam 43 3 7,0 0,7 0,1 – 3,3 0,730 La Gi 40 7 17,5 1,8 0,6 – 5,7 0,594 Hàm Tân 35 2 5,7 0,5 0,1 – 3,2 0,704 Tánh Linh 42 6 14,3 1,4 0,4 – 4,7 0,871 Nghề nghiệp Nội trợ 187 21 11,2 1,0 Làm nông 136 18 13,2 1,8 0,6 – 5,3 0,477 Công nhân 111 10 9,0 0,8 0,2 – 3,4 0, 749 Nghề khác 66 5 7,6 0,9 0,3 – 2,8 1,0 Trình độ học vấn Trung học phổ thông trở lên 189 15 7,9 1,0 Trung học cơ sở 210 21 10,0 1,3 0,6 – 2,7 0,602 Tiểu học 101 18 17,8 2,4 1,1 – 4,9 0,035 Lần mang thai Lần 1 214 10 4,7 1,0 Lần 2 185 28 15,1 3,6 1,7 – 7,7 0,002 Lần 3 trở lên 101 16 15,8 3,8 1,7 – 8,8 0,005 Tiền sử gia đình có người mắc bệnh VGSV B Không 479 47 9,8 1,0 Có 21 7 33,3 3,4 1,2 – 8,8 0,013 OR: Odds Ratio, KTC 95%: khoảng tin cậy 95%, Chi-square test (chisq.test) hoặc Fisher’s exact test, (*) by R 3.5.1 Bảng 4: Phân tích đơn biến mối liên quan giữa HBsAg dương tính và nơi cư trú (giữa Tuy Phong, La Gi và các nơi khác) của phụ nữ mang thai tại Bình Thuận 2018 (n=500) Nơi cư trú Tổng HBsAg (+) p-value n % OR KTC 95% Các huyện, thành phố khác của Bình Thuận 399 36 9,0 1,0 Tuy Phong và La Gi 101 18 17,8 2,2 1,2 – 4,0 0,0396 OR: Odds Ratio; KTC95%: khoảng tin cậy 95%; Chi-square test (chisq.test) by R 3.5.1 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 97 Bảng 5: Phân tích đa biến mối liên quan giữa HBsAg dương tính và một số yếu tố của phụ nữ mang thai tại Bình Thuận 2018 (n=500) Yếu tố HBsAg (+) p-value OR KTC 95% Nơi cư trú 0,7 0,2 – 2,3 0,5070 Trình độ học vấn 7,0 0,9 – 57,1 0,0700 Lần mang thai 2,5 1,1 – 5,0 0,0400 Gia đình có người bệnh viêm gan B 3,3 1,4 – 10,0 0,0090 KTC 95%: khoảng tin cậy 95%; Multivariate Logistic Regression by IBM SPSS Statistic Subscription R2=0,1400, Model p-value=0,0010 Theo kết quả phân tích đa biến hồi quy logistic, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa HBsAg dương tính với lần mang thai và tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B. Phụ nữ mang thai lần thứ 2 hoặc thứ 3 trở lên có nguy cơ dương tính với HBsAg cao gấp 2,5 lần so với phụ nữ mang thai lần thứ nhất (p <0,05) và phụ nữ mang thai có tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B cũng có nguy cơ dương tính với HBsAg cao 3,3 lần so với phụ nữ mang thai không có tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B (p <0,01) (Bảng 5). BÀN LUẬN Tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg Theo một số báo cáo ở phía Bắc, tỷ lệ phụ nữ có thai dương tính với HBsAg thay đổi từ 12,5% đến 18%(11). Ở phía Nam, kết quả tầm soát 2860 sản phụ tại Bệnh viện Đa khoa Khu vực Long Thành, Đồng Nai năm 2010 cho biết có 6,85% dương tính với HBsAg(+)(3). Cũng tại Đồng Nai, năm 2013, Bệnh viện Đa khoa Khu vực Thống Nhất báo cáo có 10,09% thai phụ dương tính với HBsAg trên 119 thai phụ đến khám tại bệnh viện(7). Mặt khác, kết quả nghiên cứu 509 người lớn từ 20-81 tuổi trong cộng đồng tại thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận năm 2014(4) cho thấy tỷ lệ dương tính với HBsAg là 15,3%. Như vậy, tỷ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg 10,8% (KTC 95%: 8,1-13,5) trong nghiên cứu của chúng tôi là phù hợp, ở mức trung bình so với các kết quả nghiên cứu khác trong nước, tuy nhiên tỷ lệ này là cao theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới nên cần phải có sự quan tâm đúng mức để kiểm soát vấn đề này. Tỷ lệ dương tính với HBeAg trong số phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg Nghiên cứu tại thành phố Thẩm Dương, Trung Quốc báo cáo năm 2013 cho thấy tỷ lệ HBeAg (+) /HBsAg (+) ở phụ nữ mang thai khá cao đến 67,1%(2). Ở phía Nam Việt Nam, tỷ lệ HBeAg (+) /HBsAg (+) ở phụ nữ mang thai được báo cáo tại Long Thành, Đồng Nai là 42,0%(3). Một nghiên cứu trên 216 phụ nữ mang thai của Bệnh viện đa khoa khu vực La Gi năm 2016 cũng có kết quả tỷ lệ HBeAg (+)/ HBsAg cao đến 58,3%(8). Đối chiếu với các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước, kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở Bình Thuận xác định có 40,7% (KTC 95%: 17,6-53,8) dương tính với HBeAg trong số phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg là phù hợp. Hơn nữa, tỷ lệ này ở Bình Thuận cao so với khu vực và thế giới. Phân tích các yếu tố liên quan với HBsAg dương tính ở phụ nữ mang thai Độ tuổi Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình trạng HBsAg dương tính ở phụ nữ mang thai giữa các độ tuổi mặc dù tỷ lệ HBsAg dương tính ở độ tuổi từ 31 trở lên cao hơn độ tuổi từ 30 trở xuống. Nghiên cứu trên 12.393 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ tại Hải Nam, Trung Quốc kết luận tỷ lệ HBsAg dương tính cao nhất trong nhóm 30- 34 tuổi so với nhóm 25-29 và 20-24 tuổi(12). Tuy nhiên, tương tự với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, các nghiên cứu ở Việt Nam tại Long Xuyên(8), Long Thành(3) và La Gi(10) đều không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tình trạng HBsAg dương tính ở phụ nữ mang thai giữa các độ tuổi. Nơi cư trú Chưa có nghiên cứu nào trước đây về mối liên quan giữa các địa phương trong tỉnh Bình Thuận với tỷ lệ HBsAg dương tính ở phụ nữ mang thai. Trong nghiên cứu này, mối liên quan Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 98 này cũng không có ý nghĩa thống kê khi phân tích đơn biến và đa biến có thể là do số trường hợp HBsAg dương tính phân bố ở 9 huyện, thị xã thành phố chưa đủ lớn về mặt thống kê. Tuy nhiên, kết quả phân tích cho thấy phụ nữ mang thai ở huyện Tuy Phong và thị xã La Gi có tỷ lệ dương tính với HBsAg cao hơn phụ nữ mang thai ở các địa phương khác trong tỉnh (OR=2,2 (KTC 95%:1,2-4,0); p <0,05). Hai địa phương này là địa bàn trọng điểm về nghề cá của tỉnh Bình Thuận với phần lớn gia đình làm nghề đánh bắt thủy hải sản. Kết quả này phù hợp với một nghiên cứu tại thị xã La Gi báo cáo có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nghề làm biển và nghề khác (OR hiệu chỉnh: 3,5 (KTC 95%: 1,1- 10,1); p <0,05)(4). Điều này gợi ý tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg trong số phụ nữ là nội trợ nhưng có người thân trong gia đình nghề làm biển ở các địa phương có đa số hộ gia đình làm nghề biển có thể cao hơn so với phụ nữ mang thai ở các địa phương khác trong tỉnh. Nghề nghiệp Năm 2013 các tác giả Ai Cập nghiên cứu trên 2.000 phụ nữ mang thai cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm phụ nữ mang thai có nghề nghiệp khác nhau về tình trạng dương tính với HBsAg(5). Ở Việt Nam, tương tự với các nghiên cứu ở Long Xuyên(6), Thống Nhất(4) và La Gi(8), nghiên cứu của chúng tôi cũng không tìm được mối liên quan giữa tình trạng HBsAg dương tính và nghề nghiệp. Trình độ học vấn Nghiên cứu trên 180 phụ nữ mang thai tại Nigeria có kết quả tỷ lệ HBsAg dương tính trong phụ nữ mang thai mù chữ cao gấp hơn 3 lần so với tỷ lệ này trong phụ nữ mang thai biết chữ, nhưng không có ý nghĩa thống kê(9). Kết quả phân tích đơn biến trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trình độ học vấn của phụ nữ mang thai có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng HBsAg dương tính. Tuy nhiên khi phân tích đa biến thì mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự với kết quả nghiên cứu của các tác giả tại Bệnh viện La Gi(10). Lần mang thai Các tác giả Nigeria báo cáo tỷ lệ HBsAg dương tính trong phụ nữ mang thai lần thứ hai trờ lên cao gấp hơn 3 lần so với phụ nữ mang thai lần đầu nhưng không có ý nghĩa thống kê(9). Theo kết quả phân tích đa biến của nghiên cứu của chúng tôi, phụ nữ mang thai lần thứ hai trở lên có nguy cơ dương tính với HBsAg cao gấp 2,5 lần (KTC 95%: 1,1-5,0); p <0,05) so với phụ nữ mang thai lần đầu. Tuổi có thể là một nguyên nhân để giải thích vấn đề này vì tỷ HBsAg có xu hướng tăng theo tuổi(12). Một lý do khác là phụ nữ đã qua một lần mang thai có phơi nhiễm với các nguy cơ trong y tế như tiêm, truyền máu, phẫu thuật cao hơn phụ nữ mới lần đầu mang thai. Hơn nữa, do thời gian chung sống với người chồng lâu dài hơn, phụ nữ mang thai lần hai trở lên có thể có nguy cơ bị lây nhiễm HBV từ người chồng cao hơn. Tiền sử gia đình có ngưới mắc viêm gan siêu vi B Một nghiên cứu tại Hồng Kông kết luận tiền sử gia đình có bệnh viêm gan siêu vi B là yếu tố có liên quan với tình trạng HBsAg dương tính ở phụ nữ mang thai với OR hiệu chỉnh là 5,4(1). Tại Bình Thuận, nghiên cứu của Bệnh viện La Gi cũng có kết quả tương tự: người có tiền sử gia đình có bệnh viêm gan siêu vi B có nguy cơ dương tính với HBsAg gấp 3 lần so với người không có tiền sử gia đình có bệnh viêm gan siêu vi B với OR hiệu chỉnh=3,0 (KTC 95%: 1,7-5,2); p <0,0001)(10). Tỷ lệ phụ nữ mang thai trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi có tiền sử gia đình có người mắc bệnh VGSV B chưa đến 5%. Số liệu này có thể thấp hơn so với thực tế vì phần lớn người nhiễm siêu vi viêm gan B thường không có triệu chứng và cũng không đi khám, xét nghiệm để biết tình trạng bệnh của mình. Bằng phân tích đa biến hồi quy logistic, nghiên cứu của chúng tôi tìm được mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng HBsAg Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 99 dương tính và tiền sử gia đình có người mắc bệnh viêm gan siêu vi với OR hiệu chỉnh: 3,3 (KTC 95%: 1,4-10,0); p <0,01). Như vậy, cần phải chú ý ưu tiên thực hiện các biện pháp tầm soát và dự phòng cho phụ nữ mang thai có tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B nhằm phòng chống có hiệu quả sự lây nhiễm siêu vi viêm gan B từ mẹ sang con. KẾT LUẬN Bình Thuận có tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg khá cao, đến 10,8% (KTC 95%: 8,1-13,5). Tỷ lệ phụ nữ mang thai dương tính với HBeAg trong số phụ nữ mang thai dương tính với HBsAg là 40,7% (KTC 95%: 17,6- 53,8), khá cao so với thế giới. Tình trạng dương tính với HBsAg ở phụ nữ mang thai có liên quan với lần mang thai (OR hiệu chỉnh:2,5 (KTC 95%: 1,1-5,0); p <0,05) và tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan B (OR hiệu chỉnh:3,3 (KTC 95%: 1,4- 10,0); p <0,01). Do đó, để giảm số mắc và chết do viêm gan siêu vi B, cần quan tâm đúng mức đến việc phòng chống lây nhiễm HBV từ mẹ sang con, đặc biệt là phụ nữ mang thai lần thứ 2 trở lên và phụ nữ mang thai có tiền sử gia đình mắc bệnh viêm gan siêu vi B. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chan OK, Lao TT, Suen SSH, et al (2011). Correlation between maternal hepatitis B surface antigen carrier status with social, medical and family factors in an endemic area: have we overlooked something? Infection, 39(5):419-426. 2. Ding Y, Sheng Q, Dou X, et al (2013). Chronic HBV infection among pregnant women and their infants in Shenyang, China. Virology Journal, pp.10-17. 3. Đinh Văn Phương, Ngô Thị Kim Phụng (2010). Tỷ lệ lây truyền HBV từ mẹ sang con tại Bệnh viện Long Thành Đồng Nai từ tháng 6/2008 đến 4/2009. Y học TP. Hồ Chí Minh, 14(2):29-35 4. Do Son Huy, Yamada H, Tanaka J, et al (2015). High prevalences of hepatitis B and C virus infections among adults living in Binh Thuan province, Vietnam. Hepatology Research, 45(3):259-268 5. El-Shabrawi M, Mohamed MF, et al (2013). Prevalence of hepatitis virus infection among Egyptian pregnant women – a single center study. International Journal of Tropical Disease and Health, 3(2):157-168 6. Hứa Văn Danh (2015). Nhiễm virus viêm gan B ở người cao tuổi đến khám tại bệnh viện thành phố Phan Thiết, Bình Thuận. Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 7. Lưu Trần Linh Đa, Nguyễn Thị Hiền, Bùi Nam Trần, et al (2013). Nghiên cứu tỷ lệ thai phụ nhiễm HBV và mối liên quan với yếu tố nguy cơ tại Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất, Đồng Nai. Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất, Đồng Nai. 8. Nguyễn Minh Trung, Trần Thị Lợi (2008). Tỷ lệ nhiễm siêu vi viêm gan B ở thai phụ tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Y học TP. Hồ Chí Minh, 12(1):1-7. 9. Pennap GR, Osanga ET and Ubam A (2011). Seroprevalence of HBsAg among pregnant women attending antenatal clinic in Federal Medical Center Keffi, Nigeria. Research Jounal of Medical Sciences, 5(2):80-82 10. Phạm Hiếu Nghĩa, Nguyễn Thị Xuân Thọ và Đào Ngọc Anh. (2017). Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B ở thai phụ đến khám tại Bệnh viện đa khoa khu vực la Gi tỉnh Bình Thuận năm 2016. Báo cáo tổng kết đề tài, Bệnh viện Đa khoa khu vực La Gi. 11. Phí Đức Long (2014). Đánh giá đáp ứng tạo kháng thể đối với vắcxin phòng viêm gan B ở trẻ có mẹ mang HbsAg. Luận án Tiến sĩ Y học, Đại học Y Hà Nội. 12. Zhang Y, Fang W, Fang L, et al (2013). Hepatitis B surface antigen prevalence among 12393 rural women of childbearing age in Hainan province, China: a cross-sectional study. Virology Journal, 10:25. Ngày nhận bài báo: 15/08/2019 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019 Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftylephunumang_thai_nhiem_sieu_vi_viem_gan_b_hbsag_duong_tinh_4867_2212103.pdf
Tài liệu liên quan