Tài liệu Tỷ lệ nhiễm và tính gia đình của bệnh giun kim ở trẻ học mẫu giáo: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 19
TỶ LỆ NHIỄM VÀ TÍNH GIA ĐÌNH CỦA BỆNH GIUN KIM
Ở TRẺ HỌC MẪU GIÁO
Lưu Mỹ Phụng*, Nhữ Thị Hoa*, Tăng Kim Hồng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm và tính gia đình của bệnh giun kim ở trẻ mẫu giáo xã Tân An Hội, huyện Củ
Chi, TP.HCM, năm học 2012 – 2013.
Đối tượng-Phương pháp: Cắt ngang mô tả, chẩn đoán giun kim bằng kỹ thuật Graham. Tính gia đình của
bệnh được đánh giá dựa trên tỷ lệ các gia đình có ít nhất một thành viên bị nhiễm, mức độ nặng của tính gia đình
(tỷ lệ gia đình có ≥ 50% số thành viên bị nhiễm) và các yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm của gia đình trẻ
bệnh.
Kết quả: 23,8% trẻ mẫu giáo nhiễm giun kim. Có 29,5% gia đình trẻ bệnh có thành viên đồng nhiễm, trong
đó nhiễm nặng chiếm 39,4%, nhóm người nhà ≤ 10 tuổi nhiễm nhiều hơn nhóm > 10 tuổi (p < 0,03). Tỷ lệ dương
tính lần lượt tăng 9,85...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ nhiễm và tính gia đình của bệnh giun kim ở trẻ học mẫu giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 19
TỶ LỆ NHIỄM VÀ TÍNH GIA ĐÌNH CỦA BỆNH GIUN KIM
Ở TRẺ HỌC MẪU GIÁO
Lưu Mỹ Phụng*, Nhữ Thị Hoa*, Tăng Kim Hồng**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm và tính gia đình của bệnh giun kim ở trẻ mẫu giáo xã Tân An Hội, huyện Củ
Chi, TP.HCM, năm học 2012 – 2013.
Đối tượng-Phương pháp: Cắt ngang mô tả, chẩn đoán giun kim bằng kỹ thuật Graham. Tính gia đình của
bệnh được đánh giá dựa trên tỷ lệ các gia đình có ít nhất một thành viên bị nhiễm, mức độ nặng của tính gia đình
(tỷ lệ gia đình có ≥ 50% số thành viên bị nhiễm) và các yếu tố liên quan đến tình trạng nhiễm của gia đình trẻ
bệnh.
Kết quả: 23,8% trẻ mẫu giáo nhiễm giun kim. Có 29,5% gia đình trẻ bệnh có thành viên đồng nhiễm, trong
đó nhiễm nặng chiếm 39,4%, nhóm người nhà ≤ 10 tuổi nhiễm nhiều hơn nhóm > 10 tuổi (p < 0,03). Tỷ lệ dương
tính lần lượt tăng 9,85 và 6,1 lần ở các thành viên có thói quen mút tay, cắn móng tay ≤ 10 tuổi và > 10 tuổi (p <
0,004 và p < 0,009). Trẻ bệnh không rửa hậu môn mỗi sáng sớm làm tăng khả năng nhiễm cho các thành viên ≤
10 tuổi trong gia đình, nhưng không liên quan đến nhóm > 10 tuổi. Nếu trẻ bệnh được mẹ trực tiếp chăm sóc sẽ
giảm được sự lây nhiễm trong gia đình (OR = 0,27, p < 0,03).
Kết luận và đề xuất: tỷ lệ nhiễm ở trẻ mẫu giáo và đồng nhiễm trong gia đình khá cao chứng tỏ việc kiểm
soát nhiễm giun kim không chỉ giới hạn ở trẻ mẫu giáo, trường mẫu giáo mà đòi hỏi sự tham gia tích cực hơn nữa
từ các thành viên sinh hoạt trong cùng không gian với trẻ bệnh. Do đó, nên cung cấp thông tin qua các phương
tiện truyền thông đại chúng về bệnh giun kim nhằm đưa kiến thức phòng ngừa giun kim trở thành kiến thức phổ
biến cho người dân, từng bước loại trừ bệnh.
Từ khóa: tính gia đình, giun kim.
ABSTRACT
PREVALENCE AND FAMILIAL CHARACTER OF ENTEROBIASIS
AMONG KINDERGARTEN CHILDREN IN TAN AN HOI COMMUNE,
CU CHI DISTRICT, HO CHI MINH CITY, 2012
Luu My Phung, Nhu Thi Hoa, Tang Kim Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 3- 2018: 19 - 25
Objective: To determine prevalence and familial character of enterobiasis among kinder garden children in
Tan An Hoi Commune, Cu Chi District, Ho Chi Minh City from September 2012 to December 2012.
Method: A descriptive and cross sectional study. Enterobiasis was diagnosed via Graham’s technique. The
familial character of enterobiasis was assessed via proportion of families having at least one member infected, the
strength of familial character (rate of families with ≥ 50% of family members infected) and factors related to the
infection within the household were also studied.
Result: Prevalence rate among kindergarten children is 23.8%. About 29.5% of families of infected
kindergarten children have at least one other member co-infected, of whom 39.4% are heavily infected, prevalence
* Bộ môn Ký Sinh – Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
** Bộ môn Dịch tễ học cơ bản – Dân số học – Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: BS. Lưu Mỹ Phụng ĐT: 0907580948 Email: luu.myphung@yahoo.com.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 20
in family members of ≤ 10 years old is higher than that of the rest (p < 0.03). Positivity among members of ≤ 10
years and those > 10 years of age with habit of finger sucking, nail biting are 9.85 (p < 0.004) and 6.1 times (p <
0.009) as high as those without this behavior, respectively. The act of not washing the anal area every early
morning in the infected kindergarten kids will increase the infectivity to household members of ≤ 10 year old. but
not to the > 10 year old group. If the children with enterobiasis are directly cared by their mother, then
transmission to their family members will be lower (OR = 0.27, p < 0.03).
Conclusion and recommendations: Relatively high prevalence in kindergarten children and co-infection
among their family members imply that pinworm control must not be restricted to kindergarten children, but
active participation from household members of the infected children is also needed. Therefore, dissemination of
knowledge on pinworm prevention to communities via mass media is necessary in order to gradually eliminate the
disease.
Key words: familial, enterobiasis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giun kim Enterobius vermicularis là loại giun
hình ống ký sinh ở ruột già. Sự phổ biến của
bệnh trong cộng đồng, đặc biệt ở trẻ mẫu giáo,
đã cho phép xem bệnh giun kim là một vấn đề
sức khoẻ cần được quan tâm. Ở Việt Nam, tỷ lệ
nhiễm giun kim dao động từ 4,49% – 47%, có
vùng lên đến 73,5%, chủ yếu tập trung ở nhóm 3
- 6 tuổi(4,7,8).
Sự phổ biến rộng rãi của bệnh xuất phát từ
chu trình phát triển trực tiếp ngắn của giun kim:
trứng giun kim chứa sẵn phôi nên có khả năng
lây nhiễm ngay, thêm vào đó trứng được đẻ ở rìa
hậu môn nên dễ phát tán trong không gian sinh
hoạt của bệnh nhân đồng thời có khả năng lây
nhiễm rất cao vào các thành viên trong gia đình
và đặc điểm này dẫn đến tính gia đình của bệnh.
Việc khảo sát tính gia đình sẽ góp phần không
nhỏ trong việc kiểm soát bệnh giun kim.
Các khảo sát về nhiễm giun kim trên trẻ học
mẫu giáo tại huyện Củ Chi năm 2008 và 2009 đã
ghi nhận tỷ lệ dương tính lần lượt là 22,75% và
30,7%, trong đó bao gồm xã Tân An Hội(5,3), mặc
dù chiến lược xổ giun định kỳ đã được áp dụng
mỗi 6 tháng tại các trường mẫu giáo. Vì thế, bên
cạnh những bất cập về điều kiện vệ sinh, về kiến
thức liên quan đến nhiễm giun kim vẫn còn tồn
đọng trong cộng đồng xã Tân An Hội, không thể
không nghĩ đến tính gia đình/tập thể của bệnh.
Vậy tính gia đình được thể hiện ra sao đối với tỷ
lệ nhiễm giun kim tại xã Tân An Hội?
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Xác định tỷ lệ nhiễm và tính gia đình của
bệnh giun kim ở trẻ mẫu giáo xã Tân An Hội,
huyện Củ Chi, TP.HCM, năm học 2012 – 2013.
Mục tiêu chuyên biệt
Xác định tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu
giáo tại xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP. HCM,
năm học 2012 – 2013.
Xác định tỷ lệ nhiễm giun kim ở các thành
viên trong gia đình có trẻ mẫu giáo bị nhiễm
giun kim tại xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP.
HCM, năm học 2012 – 2013.
Xác định các yếu tố liên quan đến tính gia
đình của bệnh giun kim ở trẻ mẫu giáo xã Tân
An Hội, huyện Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh, năm
học 2012 – 2013.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Trẻ học tại tất cả các trường mẫu giáo xã
Tân An Hội, huyện Củ Chi, TP. HCM năm học
2012-2013.
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Các bước tiến hành
Chuẩn bị dụng cụ, tập huấn. Họp phụ
huynh. Tiến hành xét nghiệm cho trẻ mẫu giáo.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 21
Phát và thu bảng thu thập thông tin cho gia đình
trẻ bệnh, lấy mẫu Graham cho gia đình trẻ bệnh.
Trả kết quả cho gia đình trẻ bệnh. Điều trị cho
trẻ mẫu giáo và gia đình trẻ bệnh.
Xử lý số liệu
Phần mềm Stata 10.0. Thống kê mô tả: tần số,
tỷ lệ đối với các biến định tính. Thống kê phân
tích: với độ tin cậy 95%, phép kiểm χ2 để khảo
sát mối liên quan của từng yếu tố thuận lợi đến
tính gia đình của bệnh. Thể hiện mức độ khác
biệt bằng OR. Phân tích hồi quy logistic để khử
nhiễu khi xét các yếu tố liên quan đến tính gia
đình của bệnh.
KẾT QUẢ
Tỷ lệ nhiễm
Tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu giáo tại
xã Tân An Hội là 23,8%.
Tỷ lệ nhiễm giun kim ở các thành viên trong
gia đình có trẻ nhiễm giun kim
Đối với gia đình của trẻ mẫu giáo bị nhiễm
giun kim, 29,5% hộ có ít nhất 1 thành viên cùng
bị nhiễm giun kim trong đó khoảng 39,4% hộ có
≥ 50% mẫu Graham dương tính.
Đối với các thành viên trong gia đình trẻ
bệnh, tỷ lệ các thành viên dưới 10 tuổi nhiễm
giun kim (25,4%) nhiều hơn các thành viên trên
10 tuổi (13,9%) với p < 0,03.
Sự phân bố tính gia đình theo hành vi của các thành viên trong gia đình trẻ bệnh
Bảng 1: Phân tích đơn biến sự phân bố tính gia đình theo hành vi của các thành viên ≤ 10 tuổi trong gia đình trẻ
bệnh (n = 63).
Nhiễm / ≤ 10 tuổi Kiểm định χ
2
(+) (-) p OR [KTC 95%]
Mút tay, cắn móng tay
Có 10 (58,8) 07 (41,2)
0,0002 9,5 [2,2-42,3]
Không 06 (13,0) 40 (87,0)
Ngậm đồ chơi
Có 05 (55,6) 04 (44,4)
0,02 4,9 [0,9-28,3]
Không 11 (20,4) 43 (79,6)
Rửa tay trước khi ăn
Không 05 (62,5) 03 (37,5)
0,01 6,7 [1,1-47,8]
Có 11 (20,0) 44 (80,0)
Rửa hậu môn buổi sáng
Không 06 (42,9) 08 (57,1)
0,09 2,9 [0,7-12,2]
Có 10 (20,4) 39 (79,6)
Tẩy giun
Thường xuyên (-) 12 (25,0) 36 (75,0)
0,9 0,9 [0,2-4,7]
Thường xuyên (+) 04 (26,7) 11 (73,3)
Bảng 2: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tính gia
đình và các hành vi nguy cơ của các thành viên ≤ 10
tuổi trong gia đình (n = 63).
Tình trạng nhiễm giun của trẻ
≤ 10 tuổi
OR p [KTC 95%]
Mút tay, cắn móng tay 9,85 0,004 [2,1 – 46,1]
Ngậm đồ chơi 2,79 0,30 [0,4 – 19,2]
Rửa tay trước khi ăn 2,60 0,33 [0,4 – 18,1]
Rửa hậu môn 1,64 0,57 [0,3 – 9,3]
Tẩy giun 2,83 0,26 [0,5 – 17,3]
Phân tích đơn biến sự phân bố tính gia
đình trên các thành viên ≤ 10 tuổi sống chung
với trẻ bệnh cho thấy hành vi mút tay - cắn
móng tay, không rửa tay trước khi ăn làm tăng
nhiễm giun kim gấp 9,5 và 6,7 lần so với các
nhóm còn lại. Chưa tìm thấy mối liên quan với
các hành vi khác.
Kết quả phân tích đa biến chỉ phát hiện sự
liên quan giữa tỷ lệ nhiễm với hành vi mút tay
- cắn móng tay của các thành viên ≤ 10 tuổi
trong gia đình trẻ bệnh, cao gấp 9,85 lần so với
trẻ ≤ 10 tuổi không có hành vi trên (p < 0,004).
Các hành vi khác chưa thể hiện sự khác biệt
giữa các nhóm.
Chưa tìm thấy sự khác biệt về sự phân bố
tính gia đình theo hành vi của các thành viên >
10 tuổi sống chung với trẻ bệnh. Nhưng khi
kiểm soát các yếu tố rửa tay trước ăn, rửa hậu
môn và tẩy giun định kỳ, tính gia đình tăng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 22
gấp 6,1 lần ở nhóm thành viên > 10 tuổi có thói
quen cắn móng tay so với nhóm > 10 tuổi còn
lại (p < 0,009).
Bảng 3: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tính gia
đình và hành vi của các thành viên > 10 tuổi trong gia
đình trẻ bệnh (n = 194).
Tình trạng nhiễm giun
của các thành viên > 10 tuổi
OR p [KTC 95%]
Cắn móng tay 6,10 0,009 [1,6 – 23,6]
Rửa tay trước khi ăn 1,59 0,52 [0,4 – 6,4]
Rửa hậu môn 0,67 0,46 [0,2 – 1,9]
Tẩy giun 2,51 0,14 [0,7 – 8,5]
Các yếu tố liên quan đến tính gia đình của
nhiễm giun kim
Sự phân bố tính gia đình theo các đặc điểm của
trẻ bệnh (trẻ mẫu giáo bị nhiễm giun kim)
Khi kiểm soát các thuộc tính lớp, giới,
phân hiệu, học vấn người chăm sóc và số
người trong gia đình trẻ mẫu giáo bị nhiễm
giun kim, nếu người chăm sóc trẻ không phải
là mẹ, tỷ lệ nhiễm trong gia đình sẽ tăng gấp
3,77 lần những gia đình có trẻ mẫu giáo dương
tính được mẹ chăm sóc (bảng 4).
Trong phân tích đa biến, nếu không rửa
hậu môn mỗi buổi sáng cũng như không tẩy
giun định kỳ cho trẻ mẫu giáo, tỷ lệ nhiễm
trong gia đình sẽ lần lượt gấp 2,68 và 2,82 lần
so với các gia đình có trẻ bệnh nhưng được vệ
sinh vùng hậu môn thường xuyên và tẩy giun
định kỳ (bảng 5).
Khi kiểm soát vấn đề tẩy giun, những trẻ
mẫu giáo bị nhiễm giun kim nhưng không rửa
hậu môn mỗi sáng, khả năng nhiễm cho anh
chị em ≤ 10 tuổi trong nhà cao gấp 4,8 lần so
với nhóm có vệ sinh vùng hậu môn (bảng 6).
Bảng 4: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tính gia
đình và các thuộc tính của trẻ bệnh (n = 112).
Tình trạng nhiễm giun của gia
đình trẻ bệnh phân bố theo
OR p [KTC 95%]
Lớp 0,44 0,15 [0,1 – 1,4]
Giới 0,47 0,11 [0,2 – 1,2]
Phân hiệu 0,78 0,57 [0,3 – 1,9]
Người chăm sóc 3,77 0,03 [1,2 – 12,2]
Học vấn người chăm sóc 0,58 0,32 [0,2 – 1,7]
Số người trong gia đình 0,93 0,88 [0,4 – 2,4]
Bảng 5: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tính gia
đình và thực hành ở trẻ bệnh (n = 112).
Tình trạng nhiễm giun
của gia đình trẻ bệnh
OR p [KTC 95%]
Trẻ bệnh không được
rửa hậu môn/ sáng
2,68 0,037 [1,1 – 6,7]
Trẻ bệnh không được tẩy giun 2,82 0,034 [1,1 – 7,3]
Bảng 6: Phân tích đa biến mối liên quan giữa tỷ lệ
nhiễm trong nhóm các thành viên ≤ 10 tuổi với thực
hành ở trẻ bệnh (TB) (n = 63).
Tình trạng nhiễm giun ở các
thành viên ≤ 10 tuổi
OR p [KTC 95%]
Trẻ bệnh không được rửa hậu
môn/ sáng
4,80 0,03 [1,2 – 19,3]
Trẻ bệnh không được tẩy giun 2,93 0,15 [0,7 – 12,8]
Sự phân bố tính gia đình theo đặc điểm sinh
hoạt của gia đình trẻ bệnh
Không có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê
giữa tỷ lệ nhiễm của tính gia đình với các biến
nền nhà, cách thức vệ sinh nhà và tình trạng ngủ
chung của trẻ.
Tỷ lệ nhiễm của tính gia đình ở nhóm không
giặt chăn gối, không rửa đồ chơi và không cắt
móng tay cho bé thường xuyên lần lượt cao gấp
3,3 lần (p = 0,007), 2,8 (p = 0,02) và 3,4 lần (p =
0,02) so với gia đình giặt chăn gối, rửa đồ chơi và
cắt móng tay cho bé thường xuyên (bảng 7).
Bảng 7: Phân tích đơn biến mối liên quan giữa tỷ lệ nhiễm trong gia đình với các đặc điểm sinh hoạt của gia đình
trẻ bệnh (n =112)
Gia đình bị nhiễm Kiểm định χ
2
(+) (-) p OR [KTC 95%]
Nền nhà
Khác gạch bông 09 (30,0) 21 (70,0)
0,94 1,04 [0,4-2,8]
Gạch bông 24 (29,3) 58 (70,7)
Ngủ chung giường
Có 32 (29,1) 78 (70,9)
0,50 0,4 [0,005-33,2]
Không 01 (50,0) 01 (50,0)
Vệ sinh nhà
Quét trước lau 33 (29,7) 78 (70,3)
0,52 kxđ
*
Lau trước quét 00 (0,00) 1 (100,0)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 23
Gia đình bị nhiễm Kiểm định χ
2
(+) (-) p OR [KTC 95%]
Giặt chăn gối
Thường xuyên (-) 15 (48,4) 16 (51,6)
0,007 3,3 [1,2-8,6]
Thường xuyên (+) 18 (22,2) 63 (77,8)
Rửa đồ chơi
Thường xuyên (-) 15 (45,5) 18 (54,5)
0,02 2,8 [1,1-7,3]
Thường xuyên (+) 18 (22,8) 61 (77,2)
Cắt móng tay
Thường xuyên (-) 10 (52,6) 09 (47,4)
0,02 3,4 [1,1-10,6]
Thường xuyên (+) 23 (24,7) 70 (75,3)
* kxđ: không xác định
Khi phân tích đa biến, tính gia đình chưa thể
hiện mối liên quan về mặt thống kê đối với các
đặc điểm sinh hoạt của gia đình trong nhiễm
giun kim.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu giáo
Khảo sát cho thấy 23,8% trẻ mẫu giáo tại xã
Tân An Hội có mẫu Graham dương tính, tương
tự báo cáo của Lương Thúy Vân năm 2008
(22,75%), Hồ Quốc Cường và Nguyễn Trương
Tường Duy năm 2009 (23,8%)(5,3) cùng thực hiện
tại Củ Chi, nhưng thấp hơn các kết quả ở Tây
Nguyên. Sự khác biệt này có thể là do điều kiện
vệ sinh trường lớp và vệ sinh cá nhân ở miền núi
kém hơn(4,2).
Ngoài ra, tiêu chuẩn chẩn đoán cũng tác
động đến kết quả như Trương Quang Ánh thực
hiện xét nghiệm giun kim 3 lần đã tìm thấy
39,49% trẻ dương tính, cao hơn kết quả khảo sát
trong nghiên cứu(9). Một số trường hợp nhiễm
giun kim nhưng chưa đến chu kỳ sinh sản,
không thải trứng ở rìa hậu môn dẫn đến kết quả
Graham âm tính giả. Theo GC Cook(1), quệt hậu
môn 1 lần chỉ phát hiện 50% số trường hợp
nhiễm giun kim trong khi quệt hậu môn 3 lần, tỷ
lệ lên đến 90%.
Tỷ lệ nhiễm giun kim của các thành viên trong
gia đình có trẻ nhiễm giun kim (n = 257)
Do đa số mẫu được thu thập từ các thành
viên trên 10 tuổi (chủ yếu là cha, mẹ) nên ít
nhiều làm giảm tỷ lệ nhiễm trong gia đình trẻ
bệnh. Tỷ lệ này còn bị ảnh hưởng bởi chất lượng
lam Graham do người nhà tự lấy mẫu vì vậy sai
sót kỹ thuật là không thể tránh khỏi. Nghiên cứu
cho thấy 29,5% hộ gia đình tham gia có ít nhất
một thành viên dương tính trong đó 39,4% gia
đình nhiễm nặng (hộ có ≥ 50% mẫu Graham
dương tính). Khoảng 45,6% hộ gia đình có ≤ 50%
thành viên trong nhà tham gia nghiên cứu. Các
yếu tố này cho phép suy diễn 29,5% trong kết
quả khảo sát là ước lượng non. Số liệu cho thấy
sự vượt trội ở các thành viên 10 tuổi (25,4%) so
với > 10 tuổi (13,9%) (p<0,03), phù hợp kết quả
khảo sát của Pezzani tại Mansilla, Argentina:
29,12% đối tượng nhiễm giun kim, với 41,42% ở
những người con, cao hơn 14,28% ở cha mẹ
(p=0,001), trong đó mẹ nhiễm nhiều hơn bố do
chăm sóc, gần gũi con hơn. Tính tập thể đã phản
ánh logic cho đặc điểm trong chu trình phát triển
của giun kim.
Sự phân bố tính gia đình theo hành vi của các
thành viên trong gia đình trẻ bệnh
Đối với những thành viên ≤ 10 tuổi trong gia
đình trẻ bệnh, kết quả phân tích đa biến trong
bảng 2 kết luận nhóm trẻ ≤ 10 tuổi nếu có hành
vi mút tay – cắn móng tay, sẽ có khả năng nhiễm
giun kim cao gấp 9,85 lần so với trẻ không mút
tay – cắn móng tay (p < 0,004). Trong gia đình có
trẻ nhiễm giun kim, nếu vệ sinh cá nhân không
đảm bảo, mầm bệnh sẽ phát tán khắp nơi, các trẻ
nhỏ khác thường chơi chung, ăn chung, ngủ
chung với trẻ bệnh, lại có thói quen mút tay, cắn
móng tay, nên khả năng nhiễm bệnh là rất cao.
Về hành vi rửa tay trước khi ăn, phân tích đơn
biến (bảng 1) cho thấy sự khác biệt giữa nhóm có
hoặc không rửa tay trước khi ăn với OR là 6,7
[1,1-47,8] (p < 0,01) nhưng không được ghi nhận
trong phân tích đa biến. Tương tự, mối liên quan
giữa nhiễm giun kim và các yếu tố ngậm đồ
chơi, rửa hậu môn, tẩy giun của trẻ chưa được
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 24
phát hiện trong cả bảng đơn biến, đa biến (bảng
1 và bảng 2) và đều bộc lộ một điểm chung là
khoảng tin cậy đều rộng, gợi ý đến sai số do cơ
hội. Phải chăng cỡ mẫu chưa đủ để khảo sát vấn
đề này?
Kết quả phân tích đa biến, bảng 3, đã phát
hiện khả năng nhiễm E. vermicularis ở những đối
tượng > 10 tuổi cắn móng tay cao hơn nhóm còn
lại 6,1 lần (p < 0,009). Khe giữa móng tay là “nơi
trú ngụ khá kín đáo ”của trứng giun kim. Vì vậy,
cắn móng tay sẽ tạo thuận lợi cho trứng giun
kim xâm nhập vào đường tiêu hoá. Tỷ lệ và mật
độ nhiễm ở các đối tượng > 10 tuổi không đáng
kể, họ không giữ vai trò quan trọng trong việc
phát tán trứng vào môi trường, qua đó việc rửa
hậu môn mỗi sáng sớm cũng như việc tẩy giun
định kỳ của họ sẽ không chi phối rõ ràng đến
tình trạng nhiễm của chính họ; chủ yếu người
lớn bị lây nhiễm mầm bệnh thải ra từ trẻ nhỏ.
Hành vi mút tay – cắn móng tay của các thành
viên trong gia đình trẻ bệnh có liên quan với tỷ
lệ nhiễm của họ nhưng không thấy vai trò của
ngậm đồ chơi. Có lẽ do xác suất trứng giun kim
bám trên đồ chơi không cao như ở móng tay.
Thật vậy, nghiên cứu tại trường mầm non Đại
học Y Thái Nguyên, Phạm Thị Hiển đã phát hiện
trứng giun kim hiện diện trong móng tay, sàn
nhà, bàn ghế – đồ chơi với tỷ lệ lần lượt là
29,91%, 20%, 17,5%(6).
Các yếu tố liên quan đến tính gia đình của
nhiễm giun kim
Sự phân bố tính gia đình theo các đặc điểm của
trẻ bệnh (trẻ mẫu giáo bị nhiễm giun kim)
Sau khi kiểm soát khả năng tương tác, gây
nhiễu, bảng 4 đã phát hiện nếu trẻ bệnh không
được mẹ chăm sóc trực tiếp, tính gia đình của
bệnh giun kim sẽ tăng gấp 3,77 lần (p < 0,03).
Sự chăm sóc của mẹ có thể chu đáo hơn như
thường xuyên vệ sinh đồ ngủ, đồ chơi, tắm
rửa cho trẻ mỗi sáng sẽ góp phần loại bỏ mầm
bệnh, vì thế các thành viên khác ít bị lây
nhiễm hơn. Các yếu tố về lớp, giới, phân hiệu
thường mang tính thuận lợi cho việc lan
truyền bệnh giữa các trẻ học chung trường,
lớp hơn là việc nhiễm giữa các thành viên
trong gia đình trẻ. Về trình độ học vấn của
người chăm sóc, trình độ cao chưa hẳn đã hiểu
biết đúng về cách phòng ngừa giun kim. Do
chu trình phát triển đặc thù, các biện pháp
phòng tránh các loại giun khác – đã được
tuyên truyền rất nhiều – không hiệu quả đối
với giun kim. Đường lây truyền của giun kim
là hậu môn – tay – miệng hoặc hít trứng từ
không khí, đồng thời sự phát tán mầm bệnh
vào không gian sinh hoạt rất dễ dàng vì trứng
bám ở rìa hậu môn. Vai trò quyết định trong
việc cắt đường lan truyền bệnh giun kim là
rửa hậu môn đều đặn mỗi sáng sớm.
Kết quả phân tích đa biến (bảng 5) đã bộc
lộ được tỷ lệ nhiễm trên người nhà của trẻ lần
lượt tăng 2,68 và 2,82 lần nếu việc rửa hậu
môn mỗi sáng sớm và tẩy giun định kỳ không
được thực hiện cho trẻ bệnh. Tuy nhiên, khi
khảo sát sâu hơn theo từng nhóm ≤ 10 tuổi và
> 10 tuổi, bảng 6 chỉ minh hoạ ý nghĩa thống
kê của biện pháp rửa hậu môn ở trẻ bệnh đối
với tình trạng Graham dương tính trên nhóm
thành viên ≤ 10 tuổi sống chung nhà với trẻ (p
< 0,03), chưa phát hiện mối liên quan nào về
các thực hành này và tỷ lệ nhiễm trong nhóm
> 10 tuổi. Một lần nữa, bản chất logic, khoa
học trong chu trình phát triển của E.
vermicularis lại được khẳng định. Các trẻ nhỏ
thường sinh hoạt, tiếp xúc với nhau và với các
nguồn ô nhiễm mầm bệnh thải ra từ trẻ bệnh
nhiều hơn như cùng lê la trên sàn nhà, chơi
chung đồ chơi. Bên cạnh đó, ý thức vệ sinh
chưa cao, điều kiện vệ sinh chưa đảm bảo, nên
các hành vi của trẻ nhỏ thường tạo thuận lợi
cho mầm bệnh xâm nhập. Đối với trẻ lớn và
người lớn, vấn đề vệ sinh chắc hẳn tốt hơn, do
đó có vẻ độc lập hơn đối với thực hành rửa
hậu môn ở trẻ.
Sự phân bố tính gia đình theo đặc điểm sinh
hoạt của gia đình trẻ bệnh
Bảng 7 cho thấy có sự khác biệt về mặt thống
kê của việc giặt chăn gối, rửa đồ chơi, cắt móng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 3 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch năm 2018 25
tay trong khảo sát đơn biến tuy nhiên những yếu
tố này đều bị triệt tiêu trong kết quả đa biến. Các
yếu tố ngủ chung với trẻ, quét nhà trước khi lau
là thói quen hầu như tuyệt đối của người dân
Việt Nam. Vì vậy, việc xử lý số liệu chắc hẳn bị
tác động bởi sai số do cơ hội và được thể hiện
qua độ rộng của các khoảng tin cậy. Ngoài ra,
với tập quán quét nhà đơn thuần hoặc quét nhà
trước khi lau chiếm đa số, khả năng phát tán
mầm bệnh vào không khí dường như không bị
ảnh hưởng bởi cấu trúc nền nhà. Phải chăng đây
là lý do mà cấu trúc nền nhà không liên quan
đến tính gia đình trong đánh giá này?
Nếu mức độ thường xuyên trong giặt chăn
gối, rửa đồ chơi, cắt móng tay thật sự không liên
quan đến khả năng lây nhiễm cho các thành viên
trong nhà, thiết nghĩ, phương thức nhiễm do hít
trứng từ không khí cần được lưu ý hơn đối với
trẻ lớn và người lớn sinh hoạt trong cùng không
gian với trẻ.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu giáo
tại xã Tân An Hội là 23,8%, tỷ lệ này vẫn chưa
thay đổi so với những năm trước đây, chứng
tỏ việc kiểm soát giun kim khá phức tạp. Tỷ lệ
nhiễm của gia đình trẻ bệnh khá cao 29,5%,
với 39,4% gia đình có hơn phân nửa số thành
viên bị nhiễm, thành viên ≤ 10 tuổi nhiễm
nhiều hơn người > 10 tuổi. Thói quen mút tay,
cắn móng tay ở các thành viên ≤ 10 tuổi cũng
như > 10 tuổi trong gia đình trẻ bệnh làm tăng
khả năng nhiễm giun kim lần lượt là 9,85 và
6,1 lần. Người chăm sóc trẻ mẫu giáo bị nhiễm
giun kim là mẹ sẽ làm giảm tỷ lệ nhiễm cho
các thành viên trong gia đình. Việc vệ sinh
hậu môn cho trẻ mẫu giáo bị nhiễm giun kim
có liên quan đến khả năng nhiễm ở các thành
viên ≤ 10 tuổi nhưng không ảnh hưởng đến tỷ
lệ nhiễm ở các thành viên > 10 tuổi.
KIẾN NGHỊ
Các trường mẫu giáo nên chủ động tổ chức
giáo dục tuyên truyền hàng năm cho phụ huynh
về kiến thức và thực hành phòng ngừa nhiễm
giun kim. Nên cung cấp thông tin qua các
phương tiện truyền thông đại chúng về bệnh
giun kim nhằm đưa kiến thức phòng ngừa giun
kim trở thành kiến thức phổ biến cho người dân,
từng bước loại trừ bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Cook GC (1990), “Parasitic disease in clinical practice”, Springer –
Verlag, London.
2. Giang Thùy Dương (2005-2006), “Tình hình nhiễm giun kim ở
một số nhà trẻ, mẫu giáo phường Tân An, TP. Buôn Mê Thuột và
xã EaDrơng, huyện CưMgar, tỉnh Daklak”, Luận văn tốt nghiệp,
Khoa y dược, Trường Đại học Tây Nguyên, Buôn Mê Thuột.
3. Lương Thúy Vân, Nguyễn Đức Chỉnh & Trần Công Trưởng
(2007 – 2008), “Hiệu quả của Mebendazole đơn liều trong việc kiểm
soát nhiễm giun kim ở trẻ học mẫu giáo tại huyện Củ Chi,
TP.HCM”, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa, trường Đại học
Y khoa Phạm Ngọc Thạch, TP.HCM.
4. Nguyễn Văn Dũng và Nguyễn Xuân Tuế (1996), “Tình hình
nhiễm giun kim ở trẻ em TP. Buôn Mê Thuột lứa tuổi từ 1-10”, Đại
học Tây Nguyên, Buôn Mê Thuột.
5. Nhữ Thị Hoa, Hồ Quốc Cường, Nguyễn Trương Tường Duy
và Trần Xuân Mai, “Hiệu quả của giáo dục sức khỏe trong
kiểm soát nhiễm giun kim ở trẻ mẫu giáo tại huyện Củ Chi
TP.HCM từ 9/2008 đến 5/2009”, Hội nghị khoa học công nghệ
kỹ thuật trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 2010, Y học
TP.HCM, Phụ bản tập 14 (2/2010), tr.206 – 211.
6. Phạm Thị Hiển và cộng sự, "Điều tra tỷ lệ nhiễm giun kim
trên trẻ em ở ngoại cảnh tại trường mầm non Đại học Y Thái
Nguyên bước đầu áp dụng các biện pháp can thiệp và đánh
giá kết quả”, Nội san Khoa học - Công nghệ Y Dược miền núi
1999, tuyển tập công trình NCKH chuyên đề ký sinh trùng,
Đại học Y Hà Nội, (1), tr.118 - 25.
7. Phạm Thị Hương Liên, Hoàng Tân Dân, Lê Thanh Phương,
Đặng Hồng Sáu và La Tô Hòa (1997 – 2003), “Nghiên cứu tình
hình nhiễm giun đường ruột ở trẻ em trường mầm non Việt –
Bun, Hà Nội và đánh giá hiệu quả của Nasoko (Mebendazole)
trong điều trị giun đường ruột”, Tạp chí y học thực hành, (477),
tr.95 – 99.
8. Trần Thị Thanh Tâm và Nguyễn Thị Thảo Hiền (1994), “Phân
tích dịch tễ học tỷ lệ nhiễm giun kim tại hai trường mầm non Linh
Xuân – Q. Thủ Đức (ngoại thành TP.HCM)”, Luận văn tốt
nghiệp bác sĩ đa khoa, Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
y tế TP.HCM.
9. Trương Quang Ánh và Ngô Châm (2000), “Tình hình nhiễm
giun ở nhà trẻ Hoa Mai TP Huế”, Bộ môn Ký sinh trùng, Đại
học Y Huế, tr.61 - 67.
Ngày nhận bài báo: 02/01/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/01/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_nhiem_va_tinh_gia_dinh_cua_benh_giun_kim_o_tre_hoc_mau.pdf