Tài liệu Tỷ lệ nhiễm human papilloma virus và mối tương quan với phết tế bào cổ tử cung bất thường: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 208
TỶ LỆ NHIỄM HUMAN PAPILLOMA VIRUS
VÀ MỐI TƯƠNG QUAN VỚI PHẾT TẾ BÀO CỔ TỬ CUNG BẤT THƯỜNG
Nguyễn Ngọc Lâm*, Nguyễn Văn Thắng*
TÓM TẮT
Mở đầu: Vi rút gây u nhú ở người (HPV–Human Papilloma Virus) là một trong những tác nhân gây biến
đổi tế bào và có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung (UTCTC). Ở bệnh nhân có phết tế bào cổ tử cung bất thường
(PTBCTC), việc phát hiện nhiễm HPV và kiểu gen nguy cơ cao có vai trò quan trọng khi đưa ra chương trình can
thiệp sức khỏe.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm HPV và mối tương quan giữa tình trạng nhiễm HPV với các loại bất
thường phết tế bào cổ tử cung.
Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả 106 trường hợp có kết quả PTBCTC
bất thường theo phân loại Bethesda 2014 tại Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM cơ sở 2.
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV chung là 62,3%, đơn nhiễm chiếm 50%, đa nhiễm 48,5%. Tỷ lệ nhiễm HPV...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ nhiễm human papilloma virus và mối tương quan với phết tế bào cổ tử cung bất thường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 208
TỶ LỆ NHIỄM HUMAN PAPILLOMA VIRUS
VÀ MỐI TƯƠNG QUAN VỚI PHẾT TẾ BÀO CỔ TỬ CUNG BẤT THƯỜNG
Nguyễn Ngọc Lâm*, Nguyễn Văn Thắng*
TÓM TẮT
Mở đầu: Vi rút gây u nhú ở người (HPV–Human Papilloma Virus) là một trong những tác nhân gây biến
đổi tế bào và có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung (UTCTC). Ở bệnh nhân có phết tế bào cổ tử cung bất thường
(PTBCTC), việc phát hiện nhiễm HPV và kiểu gen nguy cơ cao có vai trò quan trọng khi đưa ra chương trình can
thiệp sức khỏe.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm HPV và mối tương quan giữa tình trạng nhiễm HPV với các loại bất
thường phết tế bào cổ tử cung.
Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả 106 trường hợp có kết quả PTBCTC
bất thường theo phân loại Bethesda 2014 tại Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM cơ sở 2.
Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV chung là 62,3%, đơn nhiễm chiếm 50%, đa nhiễm 48,5%. Tỷ lệ nhiễm HPV cao
ở nhóm 20 – 29 tuổi sau đó giảm dần rồi tăng trở lại ở nhóm ≥ 50 tuổi. Kiểu gen chiếm tỷ lệ cao là HPV 52
(22,7%), 58 (21,2%), 16 (19,7%) và 56 (16,7%). Tỷ lệ HPV dương tính ở nhóm ASCUS; LSIL; HSIL là 46,3%;
85,7%;100%.
Kết luận: Khoảng 62,3% các bất thường PTBCTC có kèm nhiễm HPV; kiểu gen HPV chiếm tỷ lệ cao là 52,
58, 16, 56. Có mối tương quan thuận giữa mức độ bất thường PTBCTC và nhiễm HPV.
Từ khóa: Nhiễm Human Papilloma Virus, phết tế bào cổ tử cung bất thường.
ABSTRACT
PREVALENCE OF HUMAN PAPILLOMA VIRUS INFECTION AND RELATIONSHIP
WITH ABNORMAL CERVICAL SMEARS
Nguyen Ngoc Lam, Nguyen Van Thang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 5- 2018: 207 – 212
Background: Human papilloma virus (HPV) is one of the causes of cellular changes and can lead to cancer
of the cervix. In patients with abnormal cervical smears, detection of HPV infection and high-risk genotype have
important role in health intervention program.
Objectives: Determining the prevalence of HPV infection and the relationship between HPV infection and
abnormal cervical smear results.
Methods: Cross-sectional studies described 106 cases with abnormal cervical smear results according to the
Bethesda 2014 classification at the HCMC University Medical Center 2.
Results: The prevalence of HPV infection was 62.3%, single type infection was 50%, multiple type infection
48.5%. The high prevalence of HPV infection in the 20 - 29 age group was reduced and then increased again in
the ≥ 50-year-old group. Genotypes have a high proportion of HPV 52 (22.7%), 58 (21.2%), 16 (19.7%) and 56
(16.7%). The prevalence of HPV infection in ASCUS, LSIL, HSIL group were 46.3%, 85.7%, 100%.
Conclusions: About 62.3% of abnormal cervical smear results are associated with HPV infection; genotypes
have a high proportion of HPV are 52, 58, 16 and 56. There is a positive correlation between abnormalities of
* Bộ môn Xét nghiệm – Đại học Y dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: Ths. Nguyễn Ngọc Lâm, ĐT: 0937359357, Email: nguyenlam131nct@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 209
cervical smear results and HPV infection.
Keywords: Human Papilloma Virus infection, abnormal cervical smears.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là loại ung thư
phổ biến, đứng thứ ba trong số các ung thư ở
phụ nữ trên thế giới sau ung thư vú và ung thư
đại trực tràng.
Vi rút gây u nhú ở người (HPV – Human
Papilloma Virus) là một trong những tác nhân
gây biến đổi tế bào cổ tử cung. HPV gồm hơn
100 kiểu gen trong đó các kiểu gen nguy cơ cao
được tìm thấy đến 80% - 90% các trường hợp
UTCTC. Hầu hết nhiễm HPV ở cổ tử cung
không có triệu chứng và có thể tự biến mất trong
vòng hai năm. Các trường hợp nhiễm HPV kéo
dài có xu hướng phát triển thành các tổn thương
tiền ung thư và tiến triển sang UTCTC nếu
không được điều trị kịp thời. HPV 16 và HPV18
được phát hiện trong khoảng 70% các ca
UTCTC(4,8). Tuy nhiên, sự phân bố các kiểu gen
là khác nhau giữa các vùng địa lý. Ở khu vực
châu Á, nhiều nghiên cứu trong những năm gần
đây ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung
Quốc,... cho thấy tỷ lệ nhiễm HPV 52 và 58 cao
hơn so với các khu vực khác của thế giới(7,10,17).
Tuy nhiên, kết quả HPV chịu ảnh hưởng rất
nhiều bởi kỹ thuật sinh học phân tử(16,21).
Vì vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của xét
nghiệm sinh học phân tử ở Việt Nam hiện nay
nên nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định
tỷ lệ nhiễm HPV, sự phân bố các kiểu gen và mối
liên quan với các bất thường PTBCTC.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ nhiễm HPV và mối tương
quan giữa tình trạng nhiễm HPV với các loại bất
thường tế bào học ở cổ tử cung.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh nhân có kết quả tế bào học cổ tử
cung (phương pháp cổ điển) bất thường được
thực hiện tại Bệnh viện Đại học Y dược TP. Hồ
Chí Minh cơ sở 2 từ 09/2015 - 06/2017.
Các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu
Tiến hành thực hiện xét nghiệm PCR định
tính để xác định sự hiện diện của HPV bằng cách
sử dụng cặp mồi MY09/MY11 trên vùng gen L1
của HPV.
Tiến hành thực hiện xét nghiệm Multiplex
PCR để xác định kiểu gen với 15 cặp mồi đặc
hiệu cho HPV 6, 11, 16, 18, 31, 33, 35, 39, 45, 51,
52, 56, 58, 59 và 66 trên vùng gen L1, L2, L6, E1,
E2/E4 hoặc E6/E7.
Tiến hành thực hiện xét nghiệm Realtime
PCR với cặp mồi GP05/GP06 để kiểm tra lại.
Xử lý số liệu
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS phiên
bản 20.0.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm nhiễm HPV của bệnh nhân có bất
thường PTBCTC
Tỷ lệ nhiễm HPV
Trong 106 đối tượng tham gia nghiên cứu, có
66/106 ca có kết quả HPV dương tính chiếm
62,3% (1 ca âm tính với PCR định tính nhưng
Realtime PCR có kết quả dương tính nên được
coi là dương tính). Trong 66 ca nhiễm HPV, tỷ lệ
đơn nhiễm HPV chiếm 50%, đa nhiễm chiếm
48,5%, 1 ca dương tính nhưng không xác định
được kiểu gen.
Sự phân bố kiểu gen HPV
Biểu đồ 1. Sự phân bố kiểu gen HPV
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 210
Đặc điểm của PTBCTC, nhiễm HPV và nhóm
tuổi
Tuổi nhỏ nhất của đối tượng tham gia
nghiên cứu có HPV dương tính là 22 tuổi và lớn
nhất là 65 tuổi. Trung bình là 42,5 tuổi ± 1,32
(khoảng tin cậy 95%: 39,83 - 45,11).
Bảng 1. Phân bố các bất thường PTBCTC, nhiễm
HPV theo nhóm tuổi
Nhóm
tuổi
PTBCTC Nhiễm HPV
ASCUS LSIL HSIL
Dương
tính
Đa nhiễm
n (%) n (%) n (%) n (%) n (%)
20 - 29 7 (58,3) 5 (41,7) 0 (0) 10 (83,3) 6 (60,0)
30 - 39 15 48,4) 12 (38,7) 4 (12,9) 19 (61,3) 6 (31,6)
40 - 49 20 (64,5) 7 (22,6) 4 (12,9) 18 (58,1) 8 (44,4)
>50 25 (78,1) 4 (12,5) 3 (9,4) 19 (59,4) 12 (66,7)
Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HPV với
các bất thường PTBCTC
Mối liên quan giữa các bất thường PTBCTC
với tỷ lệ nhiễm HPV
Bảng 2. Phân bố các bất thường PTBCTC theo tình
trạng nhiễm HPV
PTBCTC
HPV
Âm tính Dương tính Đa nhiễm Đơn nhiễm
n % n % n % n %
ASCUS 36 53,7 31 46,3 14 43,8 17 51,5
LSIL 4 14,3 24 85,7 14 43,8 10 30,3
HSIL 0 0,0 11 100,0 4 12,4 6 18,2
Giữa các đối tượng có nhiễm và không
nhiễm HPV, sự khác biệt về bất thường PTBCTC
ASCUS và LSIL; ASCUS và HSIL có ý nghĩa
thống kê (kiểm định Chi bình phương p < 0,001).
Khi nhiễm HPV, tỷ lệ đối tượng có bất thường
PTBCTC từ LSIL trở lên cao gấp 5,3 lần so với
không nhiễm.
Mối liên quan giữa các bất thường PTBCTC
với sự phân bố kiểu gen HPV
Giữa đối tượng có nhiễm và không nhiễm
HPV 16, sự khác biệt về bất thường PTBCTC
ASCUS và LSIL; ASCUS và HSIL có ý nghĩa
thống kê với kiểm định Fisher p = 0,035; p <
0,001). Khi nhiễm HPV 16, tỷ lệ LSIL cao gấp 4,4
lần và tỷ lệ HSIL cao gấp 7,3 lần so với nhóm
không nhiễm HPV 16.
Bảng 3. Phân bố các bất thường PTBCTC theo kiểu
gen HPV
Kiểu gen
PTBCTC
HSIL LSIL ASCUS
n % n % n %
6 1 10,0 4 40,0 5 50,0
11 0 0,0 0 0,0 1 100,0
16 6 46,2 6 46,2 1 7,6
18 0 0,0 2 40,0 3 60,0
31 0 0,0 0 0,0 3 100,0
33 0 0,0 4 66,7 2 33,3
35 0 0,0 0 0,0 0 0,0
39 2 20,0 4 40,0 4 40,0
45 0 0,0 0 0,0 1 100,0
51 2 22,3 3 33,3 4 44,4
52 0 0,0 7 46,7 8 53,3
56 2 18,2 3 27,3 6 54,5
58 3 21,4 6 42,9 5 35,7
59 0 0,0 1 20,0 4 80,0
66 0 0,0 3 60,0 2 40,0
KXĐ 1 100,0 0 0,0 0 0,0
BÀN LUẬN
Đặc điểm nhiễm HPV của bệnh nhân có bất
thường PTBCTC
Tỷ lệ HPV dương tính trong nghiên cứu
tương tự so với nghiên cứu của tác giả Phạm
Việt Thanh và Vũ Thị Nhung(16,21), tương đối
khác biệt so với khu vực như nghiên cứu của tác
giả Khunamornpong (73,5%), Nishiwaki
(74,1%)(14). Sự khác biệt do phân bố của các loại
bất thường PTBCTC và đặc tính của dân số
mỗi khu vực. Tuy nhiên, sự khác biệt này
không thể hiện rõ về tình trạng nhiễm HPV
mà cần phân tích tỷ lệ nhiễm ở từng nhóm bất
thường để thấy rõ vai trò của HPV.
Tỷ lệ đa nhiễm HPV là 48,5% tương tự với
nghiên cứu của tác giả Otero Motta (49,1%); thấp
hơn so với tác giả Khunamornpong (61%),
Barbara (64,1%) và cao hơn của Nishiwaki
(25.5%)(3,11,14,15). Có nhiều nghiên cứu cho thấy
tình trạng đa nhiễm nhiều kiểu gen làm tăng
nguy cơ UTCTC(1,19). Tuy nhiên, có nghiên cứu
lại không đồng ý với giả thuyết trên(20). Do đó,
cần có nhiều nghiên cứu để đánh giá ảnh hưởng
của đa nhiễm đến mức độ bất thường CTC.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 211
Trong 15 kiểu gen được xác định, HPV
chiếm tỷ lệ cao lần lượt là 52, 58, 16, 56. Kết quả
nghiên cứu này có sự khác biệt với kết quả xác
định của tác giả Phạm Việt Thanh(16) và Vũ Thị
Nhung(21). Tuy nhiên kết quả nghiên cứu tương
tự của tác giả Khunamornpong(11) (52, 16, 51, 56)
và Chansaenroj(7) (16, 18, 52, 58), Nishiwaki(14)
(58, 16, 52, 56), Kim MJ(10) (52, 16, 58 và 56). Ở khu
vực khác trên thế giới có sự khác biệt rõ rệt như
nghiên cứu Otero Motta(15) ở Tây Ban Nha (16, 53,
51, 6); Barbara ở Italia (16, 31, 52). Sự phân bố
kiểu gen HPV không giống nhau giữa các khu
vực trên thế giới. Ở châu Âu và châu Mỹ, HPV
16, 18, 31, 33 là thường gặp nhất. Ở Châu Phi,
HPV 45 là kiểu gen chiếm tỷ lệ cao nhất. Tại
châu Á, HPV 52, 58 là thường gặp nhất(5,12). Như
vậy, kết quả kiểu gen HPV trong nghiên cứu này
phù hợp với sự phân bố kiểu gen HPV ở châu Á
và tương tự với một số nước lân cận. Mặc dù có
khác nhau về đoạn mồi, phương pháp PCR hay
đối tượng nghiên cứu thì kiểu gen HPV đặc trưng
cho khu vực châu Á là 16, 18, 52, 56, 58.
Đặc điểm của PTBCTC, nhiễm HPV và nhóm
tuổi
Trong nghiên cứu, tỷ lệ bất thường chủ yếu ở
nhóm ≥ 30 tuổi tương tự nghiên cứu của tác giả
Vũ Thị Nhung, Phạm Việt Thanh,
Khunamornpong. Các bất thường PTBCTC càng
trầm trọng có khuynh hướng xuất hiện ở các
bệnh nhân tuổi càng cao. Điều này cũng hợp lý
vì theo nghiên cứu của tác giả Harald zur
Hansen, 90% các bất thường PTBCTC liên quan
đến HPV có thể tự khỏi trong vòng 2 năm, các
trường hợp tích lũy HPV trong thời gian dài là
yếu tố quan trọng dẫn đến UTCTC(4,8).
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ nhiễm HPV và
đa nhiễm ở nhóm tuổi 20 – 29 là cao nhất và
giảm dần ở tăng trở lại ở nhóm ≥ 50 tuổi tương
tự với tác giả Vũ Thị Nhung, Barbara và Otero
Motta(3,15,21. Theo kết quả nghiên cứu dịch tễ học
của nhóm tác giả Đại học Bắc Carolina trên 70
quốc gia cho thấy, tỷ lệ nhiễm HPV đạt đỉnh cao
nhất ở nhóm ≤ 25 tuổi, sau đó giảm dần đến tuổi
trung niên và tăng trở lại ở độ tuổi ≥ 50(2,9). Điều
này có thể giải thích do sự suy giảm về đáp ứng
miễn dịch và sự thay đổi nội tiết tố của thời kỳ
tiền mãn kinh(9).
Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HPV với
các bất thường PTBCTC
Trong các trường hợp nhiễm HPV, nhóm
ASCUS có tỷ lệ HPV dương tính (46,3%), LSIL
(85,7%), HSIL (100%) tương tự với tác giả Vũ Thị
Nhung, Phạm Việt Thanh (ASCUS 60 – 70%,
LSIL > 75%, HSIL là 80 – 100%(16,21). Các nghiên
cứu ở Châu Á cũng tương tự như
Khunamornpong (ASCUS 59%, LSIL 89%),
Chansaenroj (LSIL 94%, HSIL 98%, UTCTC
95%), Nishiwaki (ASCUS 61,3%, LSIL 75,8%,
HSIL 82,2%), Kim (ASCUS và LSIL 68,0%, HSIL
và UTCTC là 86,4%)(7,10,11,14). Mức độ bất thường
PTBCTC càng cao thì tỷ lệ nhiễm HPV càng
tăng. Điều này càng cho thấy vai trò của HPV
trong các biến đổi tiền ung thư và UTCTC.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ đa nhiễm ở
nhóm LSIL 58,3%, ASCUS 45,2%, HSIL 40,0%.
Tình trạng đa nhiễm HPV đã được báo cáo trong
nhiều nghiên cứu, chiếm khoảng 20 - 50% và là
cơ hội cho tình trạng nhiễm dai dẳng, đặc biệt là
các HPV “nguy cơ cao”. Nghiên cứu của tác giả
Nielsen, Bachtiary cho rằng các đối tượng có tổn
thương nặng hoặc UTCTC thì tỷ lệ đa nhiễm
càng cao(1,13). Nghiên cứu của các tác giả
Chansaenroj, Khunamornpong, Nishiwaki có tỷ
lệ đa nhiễm chiếm khoảng 20 - 50% ở mỗi nhóm
tổn thương(7,11,14). Sự khác biệt giữa cho thấy vẫn
có yếu tố khác ảnh hưởng đến khả năng hình
thành và tiến triển bất thường PTBCTC. Phần
lớn các nghiên cứu đều đồng ý rằng kiểu gen
HPV có vai trò quan trọng hơn.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ HSIL cao nhất
khi có mặt HPV 16, tiếp theo là 58, 56 52. Nghiên
cứu của tác giả Khunamornpong có tỷ lệ kiểu
gen HPV/≥ HSIL cao lần lượt là 52, 16, 51, 56;
Chansaenroj có tỷ lệ cao nhất HPV 16, 18/
UTCTC, HPV58/ HSIL và HPV52/ LSIL(7,11).
Theo nghiên cứu của nhóm tác giả thuộc Cơ
quan nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC), các
kiểu gen HPV không chỉ có sự thay đổi theo các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 212
vùng địa lý mà còn thay đổi theo từng loại ung
thư. HPV 16 thường gặp ở ung thư biểu mô gai
còn HPV 18 ở ung thư tuyến. Các kiểu gen
thường gặp trong HSIL là HPV 16, 31, 58, 18, 33,
52, 35, 51, 56, 45, 39, 66 tùy theo khu vực. Ở châu
Á kiểu gen chiếm tỷ lệ cao trong các bất thường
PTBCTC là HPV 16, 18, 52, 56, 58(9).
Mặc dù một vài nghiên cứu có tổng tỷ lệ
nhiễm HPV 52, 56, 58 cao nhưng xét ở nhóm tổn
thương HSIL hoặc UTCTC thì tỷ lệ các kiểu gen
này lại ít hơn 16, 18. Có nghiên cứu cho rằng tùy
thuộc vào loại biến thể thì khả năng tiến triển
thành UTCTC sẽ khác nhau(9). Nghiên cứu của
các tác giả So, Chan, Song cho thấy tỷ lệ HPV 58
(đặc biệt là biến thể E7 C632T (T201), G760A
(G63S)) tiến triển thành UTCTC cao hơn có thể
trên cả bệnh nhân có PTBCTC lành tính(6,17,18).
Như vậy, kết quả sự phân bố kiểu gen HPV
trong nghiên cứu khá tương đồng với sự đánh
giá và việc triển khai vắc xin thế hệ mới của Tổ
chức Y tế thế giới WHO (Gardasil® 9 – đặc hiệu
HPV 6, 11, 16, 18, 31, 33, 45, 52, 58).
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 106 trường hợp có PTBCTC
bất thường, chúng tôi ghi nhận
Tỷ lệ nhiễm HPV là 62,3%. Trong đó, đơn
nhiễm chiếm 50%, đa nhiễm 48,5%. Tỷ lệ nhiễm
HPV và đa nhiễm cao ở nhóm 20 – 29 tuổi và có
xu hướng giảm dần ở nhóm 30 – 39, 40 - 49 tuổi
rồi tăng trở lại ở nhóm ≥50 tuổi. Kiểu gen chiếm
tỷ lệ cao lần lượt là HPV 52 (22,7%), HPV 58
(21,2%), HPV 16 (19,7%) và HPV 56 (16,7%).
Có mối tương quan thuận giữa mức độ bất
thường PTBCTC và nhiễm HPV. Kiểu gen HPV
16 gặp nhiều trong tổn thương từ LSIL trở lên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bachtiary B, Obermair A, Dreier B et al (2002), "Impact of
multiple HPV infection on response to treatment and survival
in patients receiving radical radiotherapy for cervical cancer",
International journal of cancer, 102 (3), 237-43.
2. Bao YP, Li N, Smith JS et al (2008), "Human papillomavirus
type distribution in women from Asia: a meta-analysis",
International journal of gynecological cancer, 18 (1), 71-9.
3. Bello BD, Spinillo A, Alberizzi P et al. (2009), "Cervical
infections by multiple human papillomavirus (HPV)
genotypes: Prevalence and impact on the risk of precancerous
epithelial lesions", Journal of medical virology, 81 (4), 703-12.
4. Castle PE, Stoler MH, Wright TC Jr et al (2011), "Performance
of carcinogenic human papillomavirus (HPV) testing and
HPV16 or HPV18 genotyping for cervical cancer screening of
women aged 25 years and older: a subanalysis of the
ATHENA study", The Lancet Oncology, 12 (9), 880-90.
5. Chan PK, Ho WC, Chan MC et al (2014), "Meta-analysis on
prevalence and attribution of human papillomavirus types 52
and 58 in cervical neoplasia worldwide", PLoS One, 9 (9),
e107573.
6. Chan PK, Lam CW, Cheung TH et al. (2002), "Association of
human papillomavirus type 58 variant with the risk of cervical
cancer", Journal of the national cancer institute, 94 (16), 1249-53.
7. Chansaenroj J, Junyangdikul P, Chinchai T et al. (2014), "Large
scale study of HPV genotypes in cervical cancer and different
cytological cervical specimens in Thailand", Journal of medical
virology, 86 (4), 601-7.
8. Hausen Harald zur (2002), "Papillomaviruses and cancer: from
basic studies to clinical application", Nature reviews cancer, 2 (5),
342-350.
9. Hoang HT, Ishizaki A, Nguyen CH et al (2013), "Infection with
high-risk HPV types among female sex workers in northern
Vietnam", Journal of medical virology, 85 (2), 288-94.
10. Kim MJ, Kim JJ, Kim S (2013), "Type-specific prevalence of
high-risk human papillomavirus by cervical cytology and age:
Data from the health check-ups of 7,014 Korean women",
Obstetrics & gynecology science, 56 (2), 110-20.
11. Khunamornpong S, Settakorn J, Sukpan K et al (2016), "High
performance of combined HPV testing and genotyping for
HPV16/18/52/58 in triaging women with minor cervical
cytological abnormalities in northern Thailand", Journal of
medical virology, 88 (1), 135-43.
12. Lin H, Ma YY, Moh JS et al (2006), "High prevalence of genital
human papillomavirus type 52 and 58 infection in women
attending gynecologic practitioners in South Taiwan",
Gynecologic oncology, 101 (1), 40-5.
13. Nielsen A, Kjaer SK, Munk C et al. (2008), "Type-specific HPV
infection and multiple HPV types: prevalence and risk factor
profile in nearly 12,000 younger and older Danish women",
Sexually transmitted diseases, 35 (3), 276-82.
14. Nishiwaki M, Yamamoto T, Tone S et al (2008), "Genotyping of
human papillomaviruses by a novel one-step typing method
with multiplex PCR and clinical applications", Journal of clinical
microbiology, 46 (4), 1161-8.
15. Otero-Motta AP, Ordonez JL, Gonzalez-Celador R et al (2011),
"Prevalence of human papillomavirus genotypes in cytologic
abnormalities from unvaccinated women living in north-
western Spain", APMIS, 119 (3), 204-15.
16. Phạm Việt Thanh (2011). "Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm Human
Papilloma Virus ở phụ nữ có phết tế bào cổ tử cung bất thường
và các yếu tố liên quan", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, 15 (1),
158.
17. So KA, Kim MJ, Lee KH et al (2016), "The Impact of High-Risk
HPV Genotypes Other Than HPV 16/18 on the Natural Course
of Abnormal Cervical Cytology; A Korean HPV Cohort
Study", Cancer research and treatment.
18. Song JS, Kim EJ, Choi J et al (2013), "Significance of HPV-58
infection in women who are HPV-positive, cytology-negative
and living in a country with a high prevalence of HPV-58
infection", PLoS One, 8 (3), e58678.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ty_le_nhiem_human_papilloma_virus_va_moi_tuong_quan_voi_phet.pdf