Tài liệu Tỷ lệ nhiễm giun đũa chó mèo trên trẻ em tại xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 561
TỶ LỆ NHIỄM GIUN ĐŨA CHÓ MÈO TRÊN TRẺ EM
TẠI XÃ THẠNH AN, HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Nguyễn Tấn Vinh*, Đặng Văn Chính*, Lê Thị Ngọc Ánh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: nghiên cứu được tiến hành nhằm cung cấp thêm các bằng chứng giúp việc điều trị và phòng
ngừa bệnh nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo (Toxocara spp.) trên trẻ em trong cộng đồng được hiệu quả.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ trẻ em từ 5-15 tuổi nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo, tỉ lệ nhiễm cần
điều trị và các yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo tại xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, Tp.
Cần Thơ.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện với cỡ mẫu 193 trẻ từ 5 đến 15 trên địa
bàn xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ, được chọn bằng phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Nghiên
cứu tiến hành lấy mẫu máu của trẻ để xét nghiệm và phỏng vấn trực tiếp cha/mẹ trẻ về các yếu tố ...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 550 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ nhiễm giun đũa chó mèo trên trẻ em tại xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 561
TỶ LỆ NHIỄM GIUN ĐŨA CHÓ MÈO TRÊN TRẺ EM
TẠI XÃ THẠNH AN, HUYỆN VĨNH THẠNH, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Nguyễn Tấn Vinh*, Đặng Văn Chính*, Lê Thị Ngọc Ánh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: nghiên cứu được tiến hành nhằm cung cấp thêm các bằng chứng giúp việc điều trị và phòng
ngừa bệnh nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo (Toxocara spp.) trên trẻ em trong cộng đồng được hiệu quả.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ trẻ em từ 5-15 tuổi nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo, tỉ lệ nhiễm cần
điều trị và các yếu tố liên quan đến nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo tại xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, Tp.
Cần Thơ.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện với cỡ mẫu 193 trẻ từ 5 đến 15 trên địa
bàn xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ, được chọn bằng phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Nghiên
cứu tiến hành lấy mẫu máu của trẻ để xét nghiệm và phỏng vấn trực tiếp cha/mẹ trẻ về các yếu tố tiếp xúc của trẻ
qua bộ câu hỏi được soạn sẵn. Nghiên cứu cứu đã được chấp thuận của Hội đồng Đạo đức-Đại học Y Dược Tp.
Hồ Chí Minh số: 193/ĐHYD-HĐ, ngày 19/5/2017. Kiểm định chi bình phương được sử dụng để phân tích mối
liên quan giữa các biến số trong nghiên cứu với mức ý nghĩa p <0,05.
Kết quả: Tỉ lệ trẻ bị nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo (Toxocara spp.) là 71% (137/139). Trong đó, tỉ lệ trẻ
nhiễm cần điều trị là 30% (41/137), số còn lại trẻ nhiễm ở thể không triệu chứng, không cần điều trị, chỉ theo dõi,
hạn chế cho trẻ tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ. Kết quả nghiên cứu còn tìm thấy những trẻ bị nhiễm Toxocara
spp. có tỉ lệ tăng BCAT cao hơn 1,63 lần (p= 0,02, PR=1,63, KTC 95% (1,04–2,56)) và tăng nồng độ IgE toàn
phần cao hơn 2,45 lần (p= 0,001, PR=2,45, KTC 95% (1,52–3,93)) so với nhóm trẻ không bị nhiễm. Có mối liên
quan giữa học vấn của trẻ với nhiễm Toxocara spp., trong đó trẻ học cấp hai có tỉ lệ nhiễm giun đũa chó mèo cao
hơn 1,64 lần so với trẻ học lớp mẫu giáo (p=0,01, PR=1,64, KTC 95% (1,09-2,46)). Ngoài ra, các yếu tố gia đình
từng nuôi chó mèo, số lượng chó mèo hiện đang nuôi 4-6 con là yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ trẻ nhị nhiễm giun
đũa chó mèo. Và những gia đình ăn rau sống được rửa sạch thường xuyên tại nhà là yếu tố làm giảm tỉ lệ nhiễm
Toxocara spp. (với p <0,05).
Kết luận: Tỷ lệ nhiễm Toxocara spp. ở trẻ em là 71,0%. Trong đó, có 30% trẻ cần điều trị (trong 10 trẻ
nhiễm thì chỉ có 3 trẻ cần điều trị). Cần tăng cường truyền thông các kiến thức phòng chống lây nhiễm ấu trùng
giun đũa chó mèo cho trẻ em và phụ huynh như: rửa sạch rau sống trước khi ăn, hạn chế nuôi nhiều chó mèo
trong nhà, hạn chế không cho trẻ tiếp xúc với chó, mèo, tiêm ngừa giun sán chó mèo định kỳ 6 tháng/lần.
Từ khóa: giun đũa chó mèo, nhiễm Toxocara spp., trẻ em
ABSTRACT
PREVENTION OF TOXOCARIASIS IN CHILDREN
AT THACH AN COMMUNE, VINH THANH DISTRICT, CAN THO CITY
Nguyen Tan Vinh, Dang Van Chinh, Le Thi Ngoc Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 561 – 571
Background: Determining prevalence of Toxocariasis in children is needed by testing for antibodies to
Toxocara spp. in order to supply more evidence for effective treatment and prevention in the community.
Objectives: To determine the proportion of children from 5 to 15 years old infected with Toxocara spp. and
Viện Y tế Công cộng TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS. Nguyễn Tấn Vinh ĐT: 0988602579 Email: vinhnguyeniph@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 562
the proportion of infection cases need treatment. To find out factors related to Toxocariasis at Thach An
commune, Vinh Thanh district, Can Tho city.
Methods: A cross-sectional study was conducted on 193 children aged 5 to 15 years. Clinical data were
examined by doctors; blood samples were collected to test for antibodies to Toxocara spp., IgE and total eosinophils
peripheral; and a drafted questionnaire was used to interview parents of infected children.
Results: The percentage of children infected with Toxocara spp. was 71% (137/139). Among those, the
proportion of infection cases need treatment was 30% (41/137), the rest were asymptomatic infection, no need for
treatment, only monitoring, limiting exposure to risk factors. The study results also found that children infected
with Toxocara spp. had 1.63 times higher rate of increase of eosinophils (p = 0.02, PR = 1.63, 95% CI (1.04–2.56))
and 2.45 times of increase of total IgE concentration (p = 0.001, PR = 2.45, 95% CI (1.52–3.93)) than uninfected
children. There was an association between children' education with Toxocara spp. infection, in which secondary
school children had 1.64 times higher infection prevalence than children in kindergarten (p = 0.01, PR = 1.64,
95% CI (1.09-2.46)). In addition, the factors as family used to breed cats and dogs, currently rearing 4 – 6 dogs
and cats were the risk factors that affected to the increase of infected rate. And eating regularly washed raw
vegetables at home was the factor that helped to reduce the infection prevalence (p <0.05).
Conclusions: The prevalence of Toxocariasis (serum (+)) in children was 71.0%. In particular, the rate of
infected children need treatment was 30.0% (among 10 infected children, only 3 need treatment). It is necessary
to strengthen propaganda about preventing children from be infected Toxocara spp. from cats/ dogs, such as:
washing vegetables cleanly before eating, limiting the number of dogs/ cats reared at home, limiting directly
touching dogs/ cats, taking medicines for dogs/ cats to preventing infection with Toxocara spp.
Keywords: toxocara spp. in dogs/cats, toxocariasis, children
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh giun đũa chó, mèo ở người được gây ra
bởi ấu trùng Toxocara canis hoặc hiếm gặp hơn
là Toxocara cati (Toxocara spp.) do ngẫu nhiên ăn
phải trứng có ấu trùng qua tay bị nhiễm bẩn do
tiếp xúc trực tiếp với chó/mèo, hoặc do ăn phải
rau hoặc đất bị nhiễm trứng Toxocara spp. Bệnh
có thể xuất hiện khắp nơi trên thế giới nhất là tại
các quốc gia có khí hậu nhiệt đới, có nền kinh tế
kém hoặc đang phát triển. Hiện nay, việc chẩn
đoán ca bệnh nhiễm Toxocara spp. ở người chưa
có tiêu chuẩn vàng dẫn đến khó khăn cho việc
chẩn đoán xác định. Theo định nghĩa ca bệnh
nhiễm giun đũa chó, mèo của Bộ Y tế (Quyết
định số 4283/QĐ-BYT ngày 08/8/2016) thì ca
bệnh xác định gồm các tiêu chí: dấu hiệu và triệu
chứng lâm sàng; kháng thể anti-Toxocara spp.
dương tính hoặc tìm thấy ấu trùng hoặc giun
đũa trưởng thành hoặc phát hiện đoạn gen đặc
hiệu bằng kỹ thuật PCR(1). Việc chẩn đoán xác
định trên cơ sở phát hiện ấu trùng hoặc giun đũa
chó mèo trưởng thành trong mô xét nghiệm phải
tiến hành sinh thiết lấy mô chứa ấu trùng là khó
khăn và phức tạp, thậm chí có thể gây biến
chứng cho người bệnh. Để đơn giản hơn, việc
chẩn đoán hiện nay thường dựa vào đặc điểm
lâm sàng và xét nghiệm huyết thanh. Tuy nhiên,
biểu hiện lâm sàng của bệnh thường không điển
hình, sự hiện diện của kháng thể kháng Toxocara
spp. cũng không nói lên tình trạng đang mắc
hay đã mắc bệnh dẫn đến khó chẩn đoán xác
định chính xác ca bệnh nhiễm cần hoặc không
cần điều trị.
Theo hướng dẫn Pawlowski ZS (2002) đưa ra
chẩn đoán ca bệnh gồm 5 tiêu chí:
(1) Đặc điểm dịch tễ học của bệnh nhân liên
quan nhiễm Toxocara spp.,
(2) Dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng trên
từng thể bệnh,
(3) Kháng thể anti-Toxocara spp IgG dương
tính,
(4) Bạch cầu ái toan trong máu ngoại biên tang,
(5) Nồng độ IgE toàn phần tang (bình
thường IgE <130 IU/mL)(8).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 563
Chúng tôi nhận thấy các tiêu chuẩn này phù
hợp có thể ứng dụng trên thực hành lâm sàng và
chẩn đoán các thể bệnh trên cộng đồng. Theo
nghiên cứu của Magnaval JF năm 2001 cho thấy
trẻ em có nguy cơ bị nhiễm Toxocara spp. cao
hơn người lớn(6). Do đó, nghiên cứu này được
thực hiện trên đối tượng là trẻ em từ 5-15 tuổi
dựa trên chẩn đoán các trường hợp nhiễm phải
điều trị và các trường hợp nhiễm không cần điều
trị chỉ tiến hành theo dõi theo đề xuất của
Pawlowski ZS.
Mục tiêu
Xác định tỉ lệ trẻ em từ 5-15 tuổi nhiễm ấu
trùng giun đũa chó mèo (Toxocara spp.) tại xã
Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, Tp. Cần Thơ.
Xác định tỉ lệ trẻ em từ 5-15 tuổi nhiễm ấu
trùng giun đũa chó mèo (Toxocara spp.) cần
điều trị tại xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh,
Tp. Cần Thơ.
Xác định mối liên quan giữa nhiễm Toxocara
spp. với các đặc tính của mẫu (nhóm tuổi, giới,
trình độ học vấn, BMI), tăng BCAT, tăng nồng
độ IgE tổng và các yếu tố tiếp xúc của trẻ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chí chọn vào
Trẻ từ 5-15 tuổi đang học mẫu giáo (lớp lá
lớn), cấp I, cấp II trên địa bàn xã Thạnh An,
huyện Vĩnh Thạnh, TP. Cần Thơ có mặt tại địa
phương trong thời gian tiến hành lấy mẫu.
Phụ huynh hoặc người giám hộ của trẻ có mặt
tại địa phương trong thời gian nghiên cứu. Có
sự đồng ý tham gia của trẻ và phụ huynh hoặc
của người giám hộ hợp pháp của trẻ khi tham
gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại ra
Trẻ đang bị các bệnh cấp tính hoặc mạn tính
như tim mạch, viêm gan, thận, dạ dày, tâm thần.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Thời gian, địa điểm
Được thực hiện từ 7/2016 đến tháng 8/2017
tại xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, Tp. Cần Thơ.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Sử dụng công thức ước lượng 1 tỉ lệ với
α= 0,05, d=0,05 và p=0,15 (tỷ lệ nhiễm ấu trùng
giun đũa chó/mèo ở trẻ em từ 5-15 tuổi theo
nghiên cứu tại Bình Định năm 2011-2012(12)
tính được cỡ mẫu n=191. Thực tế thực hiện
được 193 mẫu.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ
thống từ danh sách 741 học sinh theo thứ tự tăng
dần theo số lớp lá - lớp 9 (5-15 tuổi) và tăng dần
theo ký hiệu lớp A, B, C, D tại trường tiểu học
Thạnh An và trường trung học cơ sở Thạnh An,
huyện Vĩnh Thạnh, Tp. Cần Thơ, với khoảng
cách mẫu k=3.
Phương pháp thực hiện
Trước khi lấy mẫu máu xét nghiệm, những
trẻ tham gia nghiên cứu sẽ được cân đo cân
nặng, chiều cao và được bác sĩ khám lâm sàng và
ghi nhận các dấu hiệu hô hấp (ho, hen xuyễn),
da liễu (phát ban, nổi mề day, ngứa), các rối loạn
tiêu hóa (đau bụng, chán ăn, ăn uống kém), đau
đầu. Phỏng vấn cha/mẹ của trẻ bằng bộ câu hỏi
phỏng vấn trực tiếp bao gồm các yếu tố tiếp xúc
và dịch tễ (tuổi, giới tính, tình trạng sổ giun cho
chó mèo, sổ giun cho trẻ, số lượng chó mèo hiện
đang nuôi, sự hiện diện của chó mèo trong nhà,
việc chơi, nghịch đất cát của trẻ, ăn rau sống và
rửa tay trước khi ăn, sau khi tiếp xúc).
Mẫu máu được lấy bởi kỹ thuật viên xét
nghiệm có chứng chỉ hành nghề và được tập
huấn trước khi tiến hành lấy mẫu, các mẫu máu
sau khi thu thập sẽ được trữ lạnh và vận chuyển
về phòng xét nghiệm. Xét nghiệm miễn dịch
ELISA được thực hiện trên máy ELISA
Immunomate-Serion/German. Nồng độ IgE toàn
phần được đo bằng máy phân tích Elecsys và
Cobas 8000 hãng Roche tại Trung tâm chẩn đoán
y khoa MEDIC – Hòa Hảo TP. Hồ Chí Minh. Xét
nghiệm chỉ số bạch cầu ái toan được thực hiện
tại Phòng xét nghiệm của Viện Y tế Công cộng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 564
TP. Hồ Chí Minh.
Kiểm soát sai lệch thông tin
Thiết kế bộ câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu, cấu
trúc chặt chẽ. Thực hiện nghiên cứu thử nhằm
chỉnh sửa bộ câu hỏi trước khi thực hiện chính
thức. Tập huấn điều tra viên trước khi tiến
hành thu thập số liệu. Giám sát quá trình lấy
mẫu, phỏng vấn, kiểm tra chặt chẽ trong quá
trình thu thập số liệu, kiểm tra và bổ sung số
liệu đầy đủ ngay sau khi phỏng vấn. Việc xét
nghiệm các chỉ tiêu được thực hiện tại các
phòng xét nghiệm có uy tín.
Y đức
Nghiên cứu đã được chấp thuận của Hội
đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y Sinh Học –
Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh số:
193/ĐHYD-HĐ, ngày 19 tháng 5 năm 2017.
Một số các chỉ số chính trong nghiên cứu
Các mức độ tăng bạch cầu ái toan (BCAT)
phân theo Franklin năm 1998 như sau:
Tỷ lệ BCAT bình thường: 40-350 µl máu.
Các mức độ tăng BCAT: nhẹ (350-1500 µl
máu), trung bình (>1500-5000 µl máu), cao
(>5000 µl máu).
Nồng độ IgE tổng tăng: IgE tăng khi ≥130
U/mL.
Huyết thanh dương tính khi xét nghiệm
ELISA giá trị mẫu ≥ 0,3OD (optical density: OD).
Tỷ lệ nhiễm Toxocara spp: tỷ lệ nhiễm ấu
trùng Toxocara spp.. được xác định thông qua xét
nghiệm ELISA dương tính:
Tỷ lệ phải điều trị: Tỷ lệ nhiễm ấu trùng
Toxocara spp. cần phải điều trị được tính theo đề
xuất của Pawlowski gồm thể ấu trùng di chuyển
nội tạng không hoàn chỉnh (iVLM) và thể ẩn/thể
thông thường:
Thể ấu trùng di chuyển nội tạng không hoàn
chỉnh (iVLM): trong nghiên cứu này thể iVLM
được xác định khi trẻ tham gia nghiên cứu có cả
5 dấu hiệu:
(1) ít nhất 1 dấu hiệu tiếp xúc,
(2) có ít nhất một dấu hiệu triệu chứng bệnh,
(3) xét nghiệm ELISA dương tính,
(4) bạch cầu ái toan >1500 - 5000 tế bào/mm3,
(5) IgE tổng ≥130 U/mL.
Thể ẩn (thông thường): trong đề tài này thể
ẩn được xác định thông qua các dấu hiệu sau:
(a) có hoặc không có tiếp xúc với yếu tố nguy
cơ, (b) có ít nhất một dấu hiệu triệu chứng, (c)
xét nghiệm ELISA dương tính, (d) bạch cầu ái
toan tăng từ 350-1500 tế bào/mm3, (e) IgE tổng
≥130 U/mL.
BMI của trẻ: được đánh giá dựa vào Z-Score
theo tuổi theo hướng dẫn của WHO. Tính Z-
Score dựa vào phần mềm WHO AnthroPlus: suy
dinh dưỡng (gầy): khi Z-Score <-2 SD; bình
thường: -2 SD≤ Z-Score ≤ 1 SD; béo phì: khi có
chỉ số Z-Score > 1SD.
Nhập liệu và phân tích thống kê
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata
Epi Data 3.02 và phân tích bằng Stata 13.0.
Thống kê mô tả: biến định lượng dùng trung
bình, độ lệch chẩn, giá trị nhỏ nhất, lớn nhất.
Biến định tính dùng tần suất (n) và tỷ lệ (%).
Thống kê phân tích: kiểm định chi bình
phương được sử dụng để phân tích mối liên
quan giữa các đặc tính của mẫu, tăng BCAT,
nồng độ IgE toàn phần, các yếu tố tiếp xúc của
trẻ với nhiễm Toxocara spp.
Số đo kết hợp được sử dụng trong nghiên
cứu là tỉ số tỉ lệ hiện mắc (PR) với mức ý nghĩa
p<0,05 và khoảng tin cậy 95%.
KẾT QUẢ
Các đặc tính của mẫu nghiên cứu
Trong số những trẻ tham gia nghiên cứu, có
58,5% trẻ ở độ tuổi 11 – 15, tỉ lệ nam và nữ gần
bằng nhau lần lượt là 48,7%, 51,3%. Tỉ lệ trẻ có
học vấn cấp II chiếm phần lớn (46,6%). Tỉ lệ trẻ
bị suy dinh dưỡng là 17,6% và béo phì là 12,4%
(Bảng 1).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 565
Bảng 1: Đặc tính của mẫu nghiên cứu (n=193)
Các đặc tính của mẫu Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi
5-10 tuổi 80 41,5
11-15 tuổi 113 58,5
Giới
Nam 94 48,7
Nữ 99 51,3
Học vấn
Mẫu giáo (lớp lá) 25 13,0
Cấp I 78 40,4
Cấp II 90 46,6
BMI
Suy dinh dưỡng 34 17,6
Bình thường 135 70,0
Béo phì 24 12,4
Các dấu hiệu và triệu chứng về da liễu, tiêu
hóa, hô hấp mắc phải của trẻ
Bảng 2: Các dấu hiệu và triệu chứng mắc phải của
trẻ (n=193)
Dấu hiệu và triệu chứng mắc phải Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Các dấu hiệu về da liễu 46 23,8
Các dấu hiệu về tiêu hóa 99 51,3
Các dấu hiệu hô hấp 85 44,0
Đau đầu 105 54.4
Có một trong những triệu chứng trên 166 86,0
Tỉ lệ trẻ có dấu hiệu mắc các bệnh da liễu là
23,8%, tiêu hóa 51,3%, hô hấp 44,0%, đau đầu là
54,4%. Như vậy có tới 86,0% trẻ có ít nhất một
trong các dấu hiệu và triệu chứng trên (Bảng 2).
Các yếu tố tiếp xúc của trẻ
Bảng 3: Các yếu tố tiếp xúc của trẻ (n=193)
Yếu tố tiếp xúc Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Nhà có nuôi chó hoặc mèo (đã từng
hoặc hiện tại có nuôi)
170 88,1
Có tiếp xúc với chó, mèo 96 49,7
Không rửa tay sau khi tiếp xúc với chó,
mèo
57 29,5
Chơi đùa có tiếp xúc với đất, cát 118 61,1
Không rửa tay sau khi nghịch đất hoặc
tiếp xúc đất, cát
51 31,7
Ăn rau sống 91 47,2
Không rửa tay trước khi ăn 94 48,7
Có tiếp xúc với 1 trong các yếu tố trên 189 97,9
Có đến 88,1% trẻ là ở nhà đã từng hoặc hiện
có nuôi chó, mèo. Trẻ có tiếp xúc với chó,mèo
49,7%, Chơi đùa có tiếp xúc với đất, cát là 61,1%,
có ăn rau sống chiếm tỉ lệ 47,2%. Các yếu tố
không rửa tay sau khi tiếp xúc chó, mèo; sau khi
tiếp xúc đất cũng như rửa tay trước khi ăn chiếm
tỉ lệ lần lượt là 29,5%, 31,7% và 48,7%. Xét về có
tiếp xúc với một trong các yếu tố trên có tới 189
trẻ (97,9%) có tiếp xúc (Bảng 3).
Các đặc điểm cận lâm sàng của trẻ
Bảng 4: Đặc điểm cận lâm sàng của trẻ (n=193)
Xét nghiệm Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Bạch cầu ái toan (EOS)
Bình thường (<350) 113 58,6
Tăng nhẹ (350-1500) 74 38,3
Tăng trung bình (>1500-5000) 6 3,1
Tăng cao (>5000) 0 0
IgE toàn phần
Bình thường 95 49,2
Tăng 98 50,8
Có 38,3% trẻ có BCAT tăng nhẹ và 3,1% tăng
trung bình. Tỉ lệ trẻ có nồng độ IgE toàn phần
tăng là 50,8% (Bảng 4).
Tỉ lệ trẻ nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo, các
thể nhiễm và tỉ lệ cần điều trị
Bảng 5: Mô tả các thể nhiễm Toxocara spp. (n=193)
Nhiễm Toxocara spp. Tần số (n) Tỷ lệ (%)
Nhiễm Toxocara spp. (huyết thanh IgG (Elisa))
Dương tính 137 71,0
Âm tính 56 29,0
Các thể nhiễm (n = 137)
Thể ầu trùng di chuyển nội tạng
không hoàn chỉnh (iVLM)
6 4,4
Thể thông thường/thể ẩn 35 25,6
Thể không triệu chứng 96 70,0
Điều trị (n =137)
Cần điều trị 41 30,0
Không cần điều trị 96 70,0
Kết quả phân tích cho thấy có 137 trẻ (71,0%)
bị nhiễm Toxocara spp. (ELISA dương tính).
Trong đó thể không triệu chứng chiếm cao nhất
với 96 mẫu (70,0%), thấp nhất là thể AT di
chuyển nội tạng không hoàn chỉnh với 6 mẫu
(4,4%). Tỷ lệ nhiễm cần điều trị theo khuyến cáo
của Pawlowski là 30,0% (Bảng 5).
Mối liên quan giữa các đặc tính mẫu với nhiễm
ấu trùng giun đũa chó mèo
Trong các biến số về đặc tính của trẻ chỉ có
học vấn là có mối liên quan có ý nghĩa thống kê
với nhiễm Toxocara spp. Những trẻ có học vấn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 566
cấp hai có tỉ lệ nhiễm giun đũa chó mèo cao hơn
gấp 1,64 lần so với trẻ học lớp mẫu giáo (lớp lá
lớn) với p=0,01., PR=1,64, KTC 95% (1,09-2,46)
(Bảng 6).
Bảng 6: Mối liên quan giữa các đặc tính mẫu với nhiễm Toxocara spp. (n=193)
Đặc tính mẫu
Nhiễm Toxocara spp.
p PR (KTC 95%)
Dương tính n (%) Âm tính n (%)
Nhóm tuổi
5-10 tuổi 53 (66,3) 27 (33,7) 0,22 1
11-15 tuổi 84 (74,3) 29 (25,7) 1,12 (0,92-1,35)
Giới tính
Nam 65 (69,1) 29 (30,9) 0,58 1
Nữ 72 (72,7) 27(27,3) 1,05 (0,87-1,26)
Học vấn
Mẫu giáo (lớp lá lớn) 14 (56,0) 11 (44,0) 1,0
Cấp 1 50 (64,1) 28 (35,9) 0,39 1,21 (0,77-1,88)
Cấp 2 73 (81,1) 17 (18,9) 0,01
1,64 (1,09-2,46)
BMI
Suy dinh dưỡng 21 (61,8) 13 (38,2) 1
Bình thường 100 (74,1) 35 (25,9) 0,20 1,19 (0,90-1,59)
Thừa cân, béo phì 16 (66,7) 8 (33,3) 0,70 1,07 (0,73-1,59)
Mối liên quan giữa tăng BCAT với nhiễm ấu
trùng giun đũa chó mèo
Bảng 7: Mối liên hệ giữa tăng BCAT với nhiễm
Toxocara spp. (n=193)
Nhiễm
Toxocara spp.
Tăng BCAT p PR (KTC 95%)
Có n (%) Không n (%)
Âm tính 16 (28,6) 40 (71,4)
0,02
1
Dương tính 64 (46,7) 73 (53,3) 1,63 (1,04-2,56)
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
nhiễm Toxocara spp. với tăng BCAT, với p <0,05.
Theo đó ở nhóm trẻ bị nhiễm Toxocara spp. có tỉ
lệ tăng BCAT cao gấp 1,63 lần so với nhóm trẻ
không nhiễm (với p= 0,02, PR=1,63, KTC 95%
(1,04–2,56) (Bảng 7).
Mối liên quan giữa tăng nồng độ IgE toàn phần
với nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo
Bảng 8: Mối liên hệ giữa tăng nồng độ IgE toàn phần
với nhiễm Toxocara spp. (n=193)
Nhiễm Toxocara
spp.
Tăng nồng độ IgE
toàn phần
p PR (KTC
95%)
Có
n (%)
Không
n (%)
Âm tính 14 (25,0) 42 (75,0)
0,001
1
Dương tính 84 (61,3) 53 (38,7)
2,45 (1,52 -
3,93)
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa
nhiễm Toxocara spp. với tăng nồng độ IgE toàn
phần, với p <0,05. Theo đó ở nhóm trẻ bị
nhiễm Toxocara spp. có tỉ lệ tăng nồng độ IgE
toàn phần cao gấp 2,45 lần so với nhóm trẻ
không nhiễm (với p=0,001, PR=2,45, KTC 95%
(1,52–3,93) (Bảng 8).
Mối liên quan giữa các yếu tố tiếp xúc của trẻ
với nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo
Các yếu tố tiếp xúc gồm từng nuôi chó mèo,
số lượng chó, mèo hiện đang nuôi, rửa rau sống
sạch tại nhà là có liên quan có ý nghĩa thống kê
với nhiễm Toxocara spp. Trong đó, những gia
đình từng nuôi chó, mèo có tỷ lệ trẻ nhiễm
Toxocara spp. cao gấp 1,47 lần so với những gia
đình chưa từng nuôi chó, mèo với p=0,01,
PR=1,47, KTC 95% (1,07-2,03)). Những gia đình
đang nuôi chó, mèo từ 4-6 con có tỷ lệ trẻ bị
nhiễm Toxocara spp. cao hơn 1,28 lần so với
những nhà hiện chỉ nuôi từ 1-3 con, với p=0,02,
PR=1,28, KTC 95% (1,10-1,50). Và những gia
đình ăn rau sống được rửa sạch thường xuyên
có tỷ lệ trẻ bị nhiễm Toxocara spp. chỉ bằng 0,77
lần so với những gia đình ăn rau sống chưa bao
giờ được rủa sạch tại nhà, với p= 0,01, PR=0,77,
KTC 95% (0,52-1,08) (Bảng 9).
Kết quả không tìm thấy mối liên quan giữa
các yếu tố (gồm vị trí cho phép chó mèo
thường nằm; xổ giun cho chó, mèo định kỳ 6
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 567
tháng; nhà có sân vườn hoặc bãi đất trống, rửa
tay trước khi ăn; rửa tay sau khi tiếp xúc chó,
mèo; chơi đùa tiếp xúc với đất; rửa tay sau khi
tiếp xúc với đất) với nhiễm ấu trùng giun đũa
chó mèo (với p >0,05).
Bảng 9: Mối liên quan giữa các yếu tố tiếp xúc của trẻ với nhiễm Toxocara spp. (n=193)
Đặc điểm
Nhiễm Toxocara spp.
p PR (KTC95%)
Dương tính n (%) Âm tính n (% )
Từng nuôi chó, mèo
Không 12 (50,0) 12 (50,0)
0,01
1
Có 125 (74,0) 44 (26,0) 1,47 (1,07-2,03)
Số lượng chó mèo hiện đang nuôi (n=153)
1-3 con 78 (70,9) 32 (29,1) 1
4- 6 con 32 (91,4) 3 (8,6) 0,002 1,28 (1,10-1,50)
>6 con 3 (37,5) 5 (62,5) 0,16 0,52 (0,21-1,30)
Vị trí cho phép chó mèo thường nằm (n=153)
Ngoài sân vườn 82 (67,2) 40 (32,8)
0,13
1
Nơi dễ tiếp xúc với người 55 (77,5) 16 (22,5) 1,15 (0,96-1,37)
Xổ giun cho chó, mèo định kỳ 6 tháng (n=153)
Không 95 (74,2) 33 (25,8)
0,81
1
Có 18 (72,0) 7 (28,0) 0,97 (0,74-1,26)
Nhà có sân vườn hoặc bãi đất trống
Không 16 (76,2) 5 (23,8)
0,57
1
Có 121 (70,4) 51 (29,6) 0,92 (0,71-1,19)
Rau sống được rửa sạch tại nhà
Chưa bao giờ 11 (75,0) 1 (25,0) 1
Đôi khi 21 (75,0) 7 (25,0) 0,15 0,81 (0,62-1,07)
Thường xuyên 105 (68,6) 48 (31,4) 0,001 0,77 (0,52-1,08)
Rửa tay trước khi ăn
Chưa bao giờ 20 (71,4) 8 (28,6) 1
Đôi khi 51 (77,3) 15 (22,7) 0,56 1,08 (0,82-1,41)
Thường xuyên 66 (66,7) 33 (33,3) 0,62 0,93 (0,56-0,90)
Tiếp xúc, đùa giỡn với chó, mèo
Chưa bao giờ 63 (65,0) 34 (35,0) 1
Đôi khi 49 (77,8) 14 (22,2) 0,07 1,19 (0,98-1,45)
Thường xuyên 25 (75,8) 8 (24,2) 0,21 1,16 (0,91-1,48)
Rửa tay sau khi tiếp xúc chó, mèo
Chưa bao giờ 12 (66,7) 6 (33,3) 1
Đôi khi 32 (82,1) 7 (17,9) 0,25 1,23 (0,85-1,76)
Thường xuyên 58 (71,6) 23 (28,4) 0,69 1,07 (0,75-1,53)
Chơi đùa tiếp xúc với đất
Chưa bao giờ 57 (76,0) 18 (24,0) 1
Đôi khi 56 (67,5) 27 (32,5) 0,23 0,88 (0,72-1,08)
Thường xuyên 24 (68,6) 11 (31,4) 0,43 0,92 (0,69-1,16)
Rửa tay sau khi tiếp xúc với đất
Chưa bao giờ 13 (76,5) 4 (23,5) 1
Đôi khi 23 (67,6) 11 (32,4) 0,49 0,88 (0,62-1,25)
Thường xuyên 77 (70,0) 33 (30,0) 0,55 0,91 (0,68-1,22)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 568
BÀN LUẬN
Đặc tính của mẫu nghiên cứu:
Trong thời gian nghiên cứu thu thập được
193 trẻ tại các trường mẫu giáo, cấp 1 và cấp 2
tại xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, Tp. Cần
Thơ thỏa tiêu chí chọn mẫu đưa vào nghiên
cứu. Tuổi của trẻ được phân thành 2 nhóm là
trẻ em nhỏ từ 5-10 tuổi, trẻ em lớn từ 11-15
tuổi chiếm tỉ lệ lần lượt là 41,5% và 58,5%. Về
giới tính tỉ lệ trẻ nam và nữ trong nghiên cứu
gần bằng nhau. Tỉ lệ trẻ bị béo phì là 12,4% và
suy dinh dưỡng là 17,6%.
Các dấu hiệu và triệu chứng về da liễu, tiêu
hóa, hô hấp mắc phải của trẻ
Nghiên cứu của chúng tôi tìm thấy có
23,8%-54,4% trẻ bị các dấu hiệu và triệu chứng
về da liễu, tiêu hóa, hô hấp và đau đầu. Theo
nghiên cứu của Magnaval JF 2011 cho thấy tại
Ireland, trên những trẻ bị nhiễm Toxocara spp.
thường có các triệu chứng lâm sàng như sốt,
chán ăn, đau đầu, bụng đau, buồn nôn, nôn,
thờ ơ, khó ngủ và rối loạn hành vi, viêm họng,
viêm phổi, ho, khò khè, đau chân tay, viêm
hạch bạch huyết và gan to(6).
Các yếu tố tiếp xúc của trẻ
Kết quá nghiên cứu cho thấy có đến 97,9%
trẻ có tiếp xúc với một trong các yếu tố như nhà
có nuôi chó mèo; có tiếp xúc với chó mèo; không
rửa tay sau khi tiếp xúc với chó, mèo; chơi đùa
có tiếp xúc với đất, cát; không rửa tay sau khi
nghịch đất hoặc tiếp xúc đất, ăn rau sống và
không rửa tay trước khi ăn. Trẻ thường rất năng
động, quá trình đùa giỡn, vui chơi dễ tiếp xúc
với đất, cát trong khi kiến thức và thực hành về
vệ sinh cơ thể còn nhiều hạn chế. Theo nghiên
cứu của Mário LT và cộng sự (2008) cho thấy có
28% (7/25) mẫu cát được lấy từ các công viên,
trường học, quãng trường có dương tính với
trứng giun đũa chó Toxocara canis(7). Theo nghiên
cứu của Bùi Văn Tuấn và cộng sự (2012) cho
thấy nhóm bệnh nhân có nuôi chó, mèo trong
gia đình và thường xuyên chăm sóc, vuốt ve,
bồng chó, mèo có huyết thanh chẩn đoán
Toxocara spp. dương tính cao gấp 1,9 - 2,8 lần so
với nhóm không nuôi chó, mèo(2).
Tỷ lệ trẻ nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo
(huyết thanh Toxocara spp dương tính)
Tỉ lệ trẻ bị nhiễm ấu trùng giun đũa chó,
mèo (có huyết thanh Toxocara spp dương tính)
trong nghiên cứu của chúng tôi là 71,0%. Kết quả
này cao hơn nghiên cứu của Sviben M và cộng
sự (2009) tại Croatia với tỉ lệ trẻ 3-18 tuổi dương
tính với giun đũa chó (Toxocara canis) 31%(10).
Điều này có thể là do nghiên cứu của Sviben M
chỉ thực hiện trên giun đũa chó và tuổi của trẻ
cũng lớn hơn nghiên cứu của chúng tôi. Bên
cạnh đó, kết quả của chúng tôi cũng cao hơn
nghiên cứu của Trần Trọng Dương tại Bình Định
(2012) với tỉ lệ nhiễm là 15,8%(12). Điều này là do
nghiên cứu Trần Trọng Dương thực hiện trên cả
đối tượng người lớn và trẻ em. Ngoài ra, tỉ lệ
nhiễm ấu trùng giun đũa chó, mèo khác nhau
giữa các nghiên cứu cũng có thể là do các vùng
địa lý và thói quen nuôi chó mèo và trẻ tiếp xúc
với các yếu tố nguy cơ khác nhau. Tại nơi nghiên
cứu của chúng tôi có nền kinh tế nông nghiệp,
đa số người dân nuôi nhiều chó mèo, hầu hết
nhà dân đều có sân vườn đất, cát quanh nhà và
có thói quen ăn rau sống thường xuyên do đó
đây cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ
nhiễm ấu trùng giun đũa chó, mèo cao.
Tỷ lệ trẻ nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo cần
điều trị
Hiện nay trên thế giới cũng như tại Việt
Nam việc chẩn đoán ca bệnh nhiễm Toxocara spp.
trên người gặp nhiều khó khăn do người chỉ là
ký chủ tình cờ nhiễm phải ấu trùng không phát
triển thành giun đũa chó, mèo hoàn chỉnh. Bên
cạnh đó, triệu chứng lâm sàng của bệnh đa
dạng, không đặc hiệu. Theo nghiên cứu của Trần
Vinh Hiển, cách chính xác nhất để chẩn đoán
bệnh nhiễm KST là tìm được các giai đoạn phát
triển của chúng trong bệnh phẩm. Tuy nhiên,
đối với KST còn non, chưa trưởng thành thì
không thể tìm được trứng, hoặc chúng định vị
sâu trong nội tạng, hoặc chúng lạ chỗ, lạc chủ,
hoặc chúng là KST của thú nhưng tình cờ, ngẫu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 569
nhiên nhiễm qua người, rất khó hoặc không tìm
được trứng thì chỉ còn chẩn đoán bằng phương
pháp miễn dịch học(13). ELISA là một trong
những kỹ thuật phổ biến để chẩn đoán phát hiện
kháng thể Toxocara spp. trong huyết thanh. Tuy
nhiên, kỹ thuật này có thể dương tính chéo với
các trường hợp nhiễm giun, sán khác(5). Mặt
khác, sự hiện diện của kháng thể kháng Toxocara
spp. cũng không nói lên tình trạng đang mắc hay
đã mắc bệnh trước đó.
Pawlowski đã đề xuất 5 dấu hiệu để chẩn
đoán các thể trong nhiễm giun đũa chó, mèo
gồm: Đặc điểm dịch tễ, triệu chứng và dấu hiệu
lâm sàng, huyết thanh dương tính, tăng bạch cầu
ái toan và tăng IgE toàn phần. Các thể nhiễm cần
điều trị gồm: Hội chứng ấu trùng di chuyển nội
tạng (VLM), hội chứng ấu trùng di chuyển nội
tạng không hoàn chỉnh (iVLM), nhiễm Toxocara
spp. thể thông thường/thể ẩn và thể nhiễm
không cần điều trị là nhiễm Toxocara spp. không
triệu chứng(8). Tiêu chẩn định nghĩa ca bệnh của
Pawlowski dễ áp dụng trên lâm sàng để chỉ định
điều trị. Theo đó, nghiên cứu của chúng tôi tìm
thấy tỉ lệ trẻ nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo
cần điều trị là 30%, trong đó gồm 4,4% thuộc thể
Thể AT di chuyển nội tạng không hoàn chỉnh và
25,6% thuộc thể thông thường/thể ẩn. Kết quả
này gần tương đồng với nghiên cứu của Lê Đình
Vĩnh Phúc (2016) là 23,4%(4).
Mối liên quan giữa các đặc tính của mẫu với
nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo
Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy
mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm
tuổi, giới tính, BMI với nhiễm Toxocara spp.. Tuy
nhiên, kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt
có có ý nghĩa thống kê giữa học vấn của trẻ với
nhiễm Toxocara spp. Trong đó, trẻ học cấp 2 có tỉ
lệ nhiễm cao hơn trẻ học lớp mẫu giáo (với
p<0,05). Điều này có thể là do nhóm trẻ mẫu giáo
còn nhỏ nên gia đình và nhà trường thường sẽ
quan tâm chăm sóc tích cực, việc ăn uống, vui
chơi đều được người lớn chăm sóc nên hạn chế
tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ. Ngược lại, với
nhóm trẻ lớn, đã học cấp 2, trẻ đã tự chăm sóc
được bản thân tuy nhiên sự hiểu biết, ý thức
cũng như thực hành giữ vệ sinh cá nhân của trẻ
còn hạn chế. Mặt khác, trẻ còn phụ giúp cha mẹ
trong các công việc làm vườn tại gia đình nên dễ
tiếp xúc với các nguy cơ lây nhiễm ấu trùng giun
đũa chó mèo.
Mối liên quan giữa nhiễm ấu trùng giun đũa
chó mèo với tăng BCAT, tăng nồng độ IgE toàn
phần
BCAT trong máu ngoại biên và nồng độ IgE
toàn phần là các thông số lâm sàng quan trọng
liên quan đến đáp ứng miễn dịch trong bệnh lý
nhiễm Toxocara sp. Kết quả của chúng tôi cho
thấy trong số 137/139 trẻ (71%) bị nhiễm Toxocara
spp. có 64/137 trẻ (46,7%) có BCAT tăng, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tuy nhiên
theo nghiên cứu của Sviben M và cộng sự (2009)
cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa chó (Toxocara
canis) cao ở những trẻ em mắc bệnh bạch cầu ái
toan. Do đó xét nghiệm kiểm tra bệnh giun đũa
chó phải được loại trừ trong chẩn đoán phân biệt
với bệnh bạch cầu ái toan ở trẻ em(10).
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của chúng tôi
còn cho thấy trong số những trẻ có trẻ có huyết
thanh dương tính có 61,3% trẻ có nồng độ IgE
toàn phần tăng (≥130 IU/mL). Tỷ lệ này khá
tương đồng với nghiên cứu Lê Đình Vĩnh Phúc
(2016) là 67,5%(4). So với kết quả nghiên cứu của
Dattoli và cộng sự, ở ngưỡng cắt IgE toàn phần
≥150 IU/mL, tỷ lệ này là 59,6%(3). Theo nghiên
cứu của Pawlowski báo cáo nồng độ IgE đặc
hiệu của kháng nguyên Toxocara spp. tăng trong
một nửa số bệnh nhân nghiên cứu(8).
Mối liên quan giữa các yếu tố tiếp xúc của trẻ
với nhiễm ấu trùng giun đũa chó mèo
Chó, mèo là vật chủ của Toxocara spp., trứng
theo phân thải ra môi trường xung quanh làm ô
nhiễm nguồn đất, cát, nước, rau và là nguồn lây
nhiễm trực tiếp hay gián tiếp khi con người vô
tình nuốt phải qua đường tiêu hóa. Trong
nghiên cứu này, các gia đình từng nuôi chó mèo
có tỉ lệ trẻ có huyết thanh dương tính với giun
đũa chó mèo cao hơn so với các gia đình không
nuôi. Bên cạnh đó số lượng chó mèo hiện đang
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 570
nuôi từ bốn con trở lên cũng là một yếu tố nguy
cơ và có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Tỷ lệ trứng
Toxocara spp. trong đất tăng lên ở những gia đình
có nuôi chó so với những gia đình không nuôi
chó đã được tìm thấy trong nghiên cứu của Trần
Trọng Dương(12). Theo nghiên cứu của Nguyên
Hồ Phương Liên cũng cho thấy tỷ lệ nhiễm
Toxocara spp., ở những người từng nuôi chó/mèo
cao gấp 1,57 lần so với những người chưa từng
nuôi(8). Ngoài ra, nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy việc ăn rau sống thường xuyên được rửa
sạch tại nhà là yếu tố bảo vệ trẻ không bị nhiễm
ấu trùng giun đũa chó mèo. Theo nghiên cứu
của Trần Thị Hồng (2007) cho thấy tỷ lệ nhiễm
ký sinh trùng trên rau rất cao (94,4%). Trong đó,
nhiễm ký sinh trùng đa bào chủ yếu là nhiễm ấu
trùng Toxocara spp.(11).
Một số yếu tố khác (như rửa tay trước khi
ăn; rửa tay sau khi tiếp xúc chó, mèo; chơi đùa
tiếp xúc với đất; rửa tay sau khi tiếp xúc với đất,
vị trí cho phép chó mèo thường nằm; xổ giun
cho chó, mèo định kỳ 6 tháng; nhà có sân vườn
hoặc bãi đất trống) chưa tìm thấy có mối liên
quan có ý nghĩa thống kê với nhiễm ấu trùng
giun đũa chó mèo (p>0,05). Điều này có thể là do
việc phỏng vấn các câu hỏi từ các phụ huynh
hoặc người bảo hộ của trẻ nên các thông tin
không phản ánh hết được các thói quen của trẻ
khi thời gian trẻ đi học hoặc tham gia các sinh
hoạt khác phụ huynh khó có thể kiểm soát được.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ trẻ em từ 5-15 tuổi nhiễm ấu trùng giun
đũa chó mèo (Toxocara spp.) tại xã Thạnh An,
huyện Vĩnh Thạnh, Tp. Cần Thơ là 71%. Trong
đó, tỉ lệ trẻ nhiễm cần điều trị là 30% và 70% trẻ
nhiễm ở thể không triệu chứng không cần điều
trị, chỉ theo dõi và hạn chế cho trẻ tiếp xúc với
các yếu tố nguy cơ.
Có mối liên quan giữa nhiễm Toxocara spp.
với tăng BCAT, tăng nồng độ IgE toàn phần (p
<0,05). Trong đó, trẻ bị nhiễm Toxocara spp. có tỉ
lệ tăng BCAT và tăng nồng độ IgE toàn phần cao
hơn nhóm trẻ không bị nhiễm (p <0,05).
Có mối liên quan giữa học vấn của trẻ với
nhiễm Toxocara spp., trong đó trẻ học cấp hai có tỉ
lệ nhiễm giun đũa chó mèo cao hơn so với trẻ
học lớp mẫu giáo (p <0,05).
Trong các yếu tố tiếp xúc được xét đến thì
các yếu tố gia đình từng nuôi chó mèo, số lượng
chó mèo hiện đang nuôi 4-6 con là yếu tố nguy
cơ làm tăng tỉ lệ trẻ bị nhiễm giun đũa chó mèo.
Và những gia đình ăn rau sống được rửa sạch
thường xuyên tại nhà có tỷ lệ trẻ bị nhiễm
Toxocara spp. chỉ bằng 0,77 lần so với những gia
đình ăn rau sống chưa bao giờ được rủa sạch
(p<0,05).
KIẾN NGHỊ
Cần tăng cường truyền thông kiến thức
phòng chống lây nhiễm ấu trùng giun đũa chó
mèo cho trẻ và phụ huynh như: rửa sạch rau
sống trước khi ăn, hạn chế nuôi nhiều chó mèo
trong nhà, hạn chế không cho trẻ tiếp xúc với
chó, mèo, tiêm ngừa giun sán chó mèo đầy đủ.
Cần có nghiên cứu việc ô nhiễm trứng
Toxocara spp. trong môi trường đất và trên rau
sống tại địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2016). Ban hành tài liệu "Định nghĩa trường hợp bệnh
truyền nhiễm”. Quyết định số 4283/QĐ-BYT, pp.32.
2. Bùi Văn Tuấn, Nguyễn Văn Chương (2012) Nghiên cứu một số
đặc điểm dịch tễ và yếu tố nguy cơ nhiễm ấu trùng giun
Toxocara sp ở một số điểm tại Bình Định và Gia Lai. Y học Thành
phố Hồ Chí Minh, 16(3):91-97.
3. Dattoli VC, Freire SM, et al (2011) "Toxocara canis infection is
associated with eosinophilia and total IgE in blood donors from
a large Brazilian centre". Trop Med Int Health, 16(4):514-517.
4. Lê Đình Vĩnh Phúc, Nguyễn Bảo Toàn, Lê Hữu Lợi (2016). "Đặc
Điểm Dịch Tễ, Lâm Sàng, Cận Lâm Sàng Ở Bệnh Nhân Nhiễm
Toxocara spp. Tại Trung Tâm Y Khoa Medic Thành Phồ Hồ Chí
Minh Năm 2016". Tạp chí Y học Dự phòng, 27(1):148.
5. Lương Trường Sơn, Đặng Thị Nga, Nguyễn Ngọc Ánh, và cs
(2013)." Tìm hiểu các yếu tố dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và
kết quả điều trị đối với những bệnh nhân nhiễm giun sán đến
khám tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Thành phố Hồ
Chí Minh". Y học Thành phố Hồ Chí Minh 17(1):87-94.
6. Magnaval JF, Glickman LT, Dorchies P, Morassin B (2001).
Highlights of human toxocariasis. Korean Journal of Parasitology,
39:1–11.
7. Mário LT, et al (2008). "Prevalence of Toxocara canis infection in
public squares of the Concórdia City, Santa Catarina, Brazil".
Parasitol Latinoam, 63(n.1-2-3-4):69-71.
8. Nguyễn Hồ Phương Liên (2013). Tỷ lệ huyết thanh dương tính
với Toxocara spp. ở người trưởng thành quận 12 tp. Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 571
năm 2012. Luận văn tốt nghiệp Cao học. Đại học Y dược Tp. Hồ
Chí Minh - Y tế Công cộng.
9. Pawlowski Z (2001). "Toxocariasis in humans: clinical
expression and treatment dilemma". J Helminthol, 75(4):299-305.
10. Sviben M, Avlek TVC, Missoni EM, Galinovi GM (2009).
Seroprevalence of Toxocara canis infection among
asymptomatic children with eosinophilia in Croatia. Journal of
Helminthology, 83:369–371.
11. Trần Thị Hồng (2007). "Khảo sát ký sinh trùng trên rau sống
bántại các siêu thị trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh". Y Học
TP. Hồ Chí Minh, 11(2):82-88.
12. Trần Trọng Dương (2014). Nghiên cứu thực trạng, một số yếu tố
nguy cơ nhiễm ấu trùng giun đũa chó trên người và hiệu quả
điều trị bằng ALBENDAZOLE tại 2 xã thuộc huyện An Nhơn,
tỉnh Bình Định (2011-2012). Luận án tiến sĩ y học. Viện sốt rét - ký
sinh trùng - Côn trùng Trung Ương. Ký sinh trùng - côn trùng y
học, pp.63-90.
13. Trần Vinh Hiển, Trần Thị Kim Dung (2004)." Các bộ sinh phẩm
chẩn đoán bệnh do ký sinh trùng". Y học Thành phố Hồ Chí Minh
2013, 8(01):59-67.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 561_2154_2212140.pdf