Tài liệu Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 586
TỶ LỆ HIỆN MẮC CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI 5 TỈNH NĂM 2015
Nguyễn Thị Hồng Diễm*, Chu Văn Thăng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Học sinh là tương lai của đất nước, sức khỏe của học sinh hôm nay quyết định đến sức khỏe
dân tộc trong tương lai. Chăm sóc sức khỏe tâm thần (SKTT) đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát
triển trí tuệ của học sinh.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khoẻ tâm thần ở học sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5
tỉnh thuộc miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên năm 2015.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên với 6.639 học sinh của 20 trường học
THCS tại Vĩnh Phúc, Hà Nam, Bình Định, An Giang, Gia Lai.
Kết quả: Tỉ lệ học sinh có biểu hiện SKTT chung là 14,0%; học sinh nghi ngờ có vấn đề SKTT là 15,6%.
Phân tích theo giới cho thấy tỷ lệ học sinh nam có vấn đề sức khỏe tâm thần chun...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 478 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 586
TỶ LỆ HIỆN MẮC CÁC VẤN ĐỀ SỨC KHỎE TÂM THẦN
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI 5 TỈNH NĂM 2015
Nguyễn Thị Hồng Diễm*, Chu Văn Thăng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Học sinh là tương lai của đất nước, sức khỏe của học sinh hôm nay quyết định đến sức khỏe
dân tộc trong tương lai. Chăm sóc sức khỏe tâm thần (SKTT) đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát
triển trí tuệ của học sinh.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khoẻ tâm thần ở học sinh trung học cơ sở (THCS) tại 5
tỉnh thuộc miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên năm 2015.
Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên với 6.639 học sinh của 20 trường học
THCS tại Vĩnh Phúc, Hà Nam, Bình Định, An Giang, Gia Lai.
Kết quả: Tỉ lệ học sinh có biểu hiện SKTT chung là 14,0%; học sinh nghi ngờ có vấn đề SKTT là 15,6%.
Phân tích theo giới cho thấy tỷ lệ học sinh nam có vấn đề sức khỏe tâm thần chung là 17,4% và học sinh nữ là
10,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ học sinh có vấn đề và nghi ngờ có vấn đề SKTT ở khía cạnh quan
hệ xã hội là cao nhất (13,2 % và 26,5%), tiếp đến là ở khía cạnh quan hệ bạn bè (13,5% và 21,6% ). Học sinh nam
có vấn đề về quan hệ xã hội và quan hệ bạn bè cao (16,8% và 15,0%) và cao hơn học sinh nữ, khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p<0,05); học sinh nữ có vấn đề về quan hệ bạn bè cao nhất (12,1%).
Kết luận: Nhìn chung thực trạng các vấn đề SKTT của học sinh năm 2015 tương đối cao, học sinh nam có
vấn đề SKTT cao hơn nữ. Hai nhóm rối loạn sức khoẻ tâm thần thường gặp nhất ở nghiên cứu là nhóm về giao
tiếp xã hội và quan hệ bạn bè.
Từ khóa: vấn đề sức khỏe tâm thần học sinh
ABSTRACT
PREVALENCE OF MENTAL HEALTH PROBLEMS AMONG SECONDARY SCHOOL STUDENTS
IN 5 PROVINCES IN VIETNAM IN 2015
Nguyen Thi Hong Diem, Chu Van Thang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 586 – 591
Background: Students are the future of the country, today's students' health determines future national
health. Mental health care plays an extremely important role in the intellectual development of students.
Objectives: To determine the prevalence of mental health problems among secondary school students in 5
provinces of the North, Central, South and Central Highlands in 2015.
Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted on 6,639 students of 20 secondary schools in
Vinh Phuc, Ha Nam, Binh Dinh, An Giang and Gia Lai.
Results: The percentage of students with general mental health manifestations was 14.0%; students
suspected of having mental health problems was 15.6%. Gender analysis shows that the proportion of male
students with general mental health problems was 17.4% and the proportion in female students was 10.8%, the
difference was statistically significant. The rates of students having and suspected of having mental health
problems in social relationship were the highest (13.2% and 26.5%, respectively), followed by in friend
*Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế Trường Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Thị Hồng Diễm ĐT: 0905165239 Email: hongdiemmoh@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 587
relationship (13.5 % and 21.6%, respectively). The rates of male students with social and friend relationship
problems were high (16.8% and 15.0%, respectively), which were higher than those of female students, the
differences were statistically significant (p <0.05). The rate of female students with friend relationship problems
was the highest (12.1%).
Conclusions: In general, the prevalence of metal health problems among secondary school students in 2015
was relatively high, which was partly due to the development of the society. The two most common groups of
mental health disorders in the research were social and friend relationships.
Keywords: mental health problems of students
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe tâm thần (SKTT) là một trạng thái
không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm thần
mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn
thoải mái, vui tươi yêu đời.
Học sinh là tương lai của đất nước, sức khỏe
của học sinh hôm nay quyết định đến khuynh
hướng sức khỏe dân tộc trong tương lai. Để
tương lai được bền vững thì chúng ta phải tạo
điều kiện cho các em phát triển hài hòa, toàn
diện về cả thể chất lẫn tâm thần. Chăm sóc SKTT
tạo điều kiện cho việc phát triển trí tuệ, tăng
cường khả năng cân bằng tâm lý, tình cảm, thích
nghi với môi trường sống, với các mối quan hệ
gia đình, bạn bè và xã hội. Sức khỏe tâm thần có
vấn đề sẽ dẫn đến rối loạn hành vi, mất kiểm
soát và có những hành vi sai lệch gây ảnh hưởng
đến cá nhân, gia đình và xã hội.
Học sinh trung học cơ sở là lứa tuổi vị thành
niên, đây là giai đoạn chuyển tiếp của sự phát
triển từ tuổi ấu thơ sang tuổi trưởng thành, giai
đoạn nảy sinh nhiều rối nhiễu về tâm lý. Những
thay đổi này vừa phức tạp, vừa đột biến. Ở giai
đoạn này, các em phải chịu nhiều tác động tâm
lý từ chính bản thân do sự phát triển của cơ thể,
đồng thời chịu tác động rất nhiều từ bên ngoài
như các mối quan hệ xã hội, gia đình, nhà
trường. Các tác động ấy gây ra nhiều thay đổi
trong tâm tư, tình cảm của các em, nếu những
thay đổi đó không được kiểm soát sẽ gây ra
những rối loạn tâm lý cho trẻ.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển hội
nhập quốc tế, kinh tế - xã hội biến đổi nhanh, lối
sống gấp gáp, điều này đã dẫn đến các hậu quả
nghiêm trọng. Các bậc phụ huynh không còn
thời gian để quan tâm đến tâm lý của trẻ. Áp lực
học tập, thi cử cũng như các mối quan hệ khác
giới khiến cho trẻ luôn bị căng thẳng. Tất cả
những điều trên đều ảnh hưởng đến sức khỏe
tâm thần của trẻ, đặc biệt là đối với lứa tuổi dậy
thì, lứa tuổi đang có những thay đổi tâm sinh lý
đặc biệt.
Sức khỏe tâm thần học đường hiện nay vẫn
là chủ đề mới, sự quan tâm mới chỉ là bước đầu.
Do vậy nghiên cứu về tình trạng sức khỏe tâm
thần của học sinh là rất cần thiết, từ đó góp phần
đề xuất các biện pháp can thiệp thích hợp, kịp
thời. Nghiên cứu chọn 5 tỉnh Vĩnh Phúc, Hà
Nam, Bình Định, An Giang, Gia Lai thuộc các
miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên để tiến
hành nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ hiện mắc các vấn đề sức khoẻ
tâm thần ở học sinh trung học cơ sở tại 5 tỉnh
thuộc miền Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên
năm 2015.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9)
tại các trường học được lựa chọn vào nghiên cứu
từ tháng 6/2015 đến tháng 12/2015. Nghiên cứu
đã lựa chọn chủ đích 5 tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Nam,
Bình Định, An Giang, Gia Lai thuộc miền Bắc,
miền Trung, miền Nam và Tây Nguyên.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu điều tra
Đơn vị chọn mẫu là học sinh. Số học sinh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 588
mỗi tỉnh được nghiên cứu được tính theo công
thức tính cỡ mẫu ước tính một tỷ lệ trong quần
thể là:
n= Z2(1-/2)
Trong đó:
Với độ tin cậy 95% thì Z(1-/2) = 1,96; p= 0,1 (tỷ
lệ học sinh có vấn đề sức khỏe tâm thần từ
nghiên cứu của Trần Tuấn và cs)(7), = 0,2.
Số học sinh cần được điều tra mỗi tỉnh,
thành phố là 865, chọn hệ số chọn mẫu là 1,5, cỡ
mẫu học sinh mỗi tỉnh tính được là 1.300 học
sinh. Tổng số học sinh 5 tỉnh điều tra là 1.300 x 5
= 6.500 học sinh.
Kỹ thuật chọn mẫu
Chọn mẫu theo nhiều bậc.
Tại mỗi tỉnh, số học sinh được lựa chọn vào
nghiên cứu theo các bước sau:
Bước 1: Tại mỗi khu vực nghiên cứu, chọn
chủ đích 1 tỉnh, miền Bắc lựa chọn 02 tỉnh
Bước 2: Tại mỗi tỉnh nghiên cứu, chọn 1
quận và 1 huyện đại diện cho tỉnh nghiên cứu.
Tổng cộng có 10 quận, huyện trong 5 tỉnh cần
nghiên cứu.
Bước 3: Tại mỗi quận, huyện lựa chọn, chọn
ngẫu nhiên 02 trường trung học cơ sở, tổng cộng
có 20 trường trong 5 tỉnh cần điều tra.
Bước 4: Tại mỗi trường chọn ngẫu nhiên mỗi
khối lớp 02 lớp, ước tính mỗi lớp có 40-45 học
sinh, điều tra toàn bộ học sinh của các lớp được
chọn. Thực tế đã điều tra 6.639 học sinh.
Kỹ thuật thu thập số liệu
Học sinh tự điền theo bộ câu hỏi có sẵn.
Công cụ thu thập số liệu
Sử dụng bộ câu hỏi tự điền SDQ cho học
sinh để tự đánh giá các câu hỏi liên quan đến 5
vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ em.
Bảng hỏi SDQ25 (Strengths and Difficulties
Questionnaire 25 items) do Robert Goodman
thuộc Viện Tâm thần London xây dựng(6). Bảng
hỏi SDQ được dùng để đánh giá vấn đề SKTT
dựa trên 5 hình thái: vấn đề SKTT trong biểu
hiện cảm xúc, biểu hiện hành vi, biểu hiện sự
tăng động, khó khăn trong quan hệ xã hội và
quan hệ bạn bè. Tổng điểm để đánh giá 5 hình
thái SKTT trên được tính từ 0-10 điểm. Tổng số
điểm từ 4-10 điểm là có vấn đề SKTT, riêng hình
thái quan hệ xã hội tổng điểm từ 0-4 điểm là có
vấn đề SKTT; tổng số điểm từ 16-40 được đánh
giá là có vấn đề SKTT chung (tính tổng điểm 20
câu, không tính điểm giao tiếp xã hội). Tại Việt
Nam, bộ câu hỏi SDQ cũng được sử dụng rộng
rãi trong các nghiên cứu như nghiên cứu “Khảo
sát sức khỏe tâm thần học sinh trường học Hà
Nội” do Ngô Thanh Hồi - Bệnh viện Tâm thần
Ban ngày Mai Hương thực hiện(3) và nhiều
nghiên cứu khác. Như vậy, sử dụng bảng hỏi
SDQ 25 để đánh giá SKTT học sinh là hoàn toàn
khả thi và phù hợp. Do đó trong nghiên cứu này
chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi SDQ dành cho học
sinh tự điền. Cách đánh giá cụ thể như sau:
Bảng hỏi SDQ 25 để đánh giá SKTT học sinh
về 5 khía cạnh (Bảng 1):
Biểu hiện cảm xúc: Buồn rầu, thất vọng, cáu
gắt, tức giận, suy nhược, sợ hãi, lo lắng, mất
quan tâm thích thú, ngại giao tiếp bạn bè (câu 3;
8; 13; 16; 24).
Biểu hiện hành vi: Mất tự chủ, mất trật tự,
vi phạm nội quy, bỏ học, gây hấn (câu 5; 7; 12;
18; 22).
Biểu hiện sự tăng động của trẻ: Căng thẳng,
bồn chồn, luôn ngọ nguậy, hấp tấp, không thể
tập trung chú ý để làm một việc gì đến nơi đến
chốn (câu 2; 10; 15; 21; 25).
Khó khăn trong quan hệ bạn bè: Cách biệt,
thích một mình, ít quan hệ, thiếu hòa hợp, không
được các bạn yêu mến (câu 6; 11; 14; 19; 23).
Khó khăn trong quan hệ xã hội: Không thân
ái thân thiện, không tình nguyện, không chia sẻ,
không giúp đỡ mọi người, bàn quan vô cảm với
xung quanh (câu 1; 4; 9; 17; 20).
Tiêu chí đánh giá
Đánh giá kết quả theo thang điểm SDQ có 3
cách lựa chọn:
Không đúng = 0 điểm.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 589
Đúng một phần = 1 điểm. Các câu đúng một
phần đều được cho 1 điểm, riêng câu 7, 11, 14,
21, 25 trên thang SDQ sẽ thay đổi: không đúng=2
điểm, chắc chắn đúng = 0 điểm.
Chắc chắn đúng = 2 điểm.
Đánh giá sức khỏe tâm thần chung: Tính
tổng điểm 20 câu, không tính điểm giao tiếp xã
hội. Tổng điểm các vấn đề SKTT được chia làm 3
mức đánh giá:
Bình thường: không gặp khó khăn về SKTT.
Nghi ngờ: nghi ngờ, chưa chắc chắn.
Có vấn đề SKTT: có khó khăn về SKTT.
Bảng 1: Thang điểm đánh giá SKTT học sinh trên bộ
câu hỏi SDQ
Bình
thường
Nghi ngờ
Có vấn đề
SKTT
SKTT chung 0 - 11 điểm 12 - 15 điểm 16 - 40 điểm
Vấn đề cảm xúc 0 - 4 điểm 5 điểm 6 - 10 điểm
Vấn đề hành vi 0 - 2 điểm 3 điểm 4 - 10 điểm
Sự tăng động 0 - 5 điểm 6 điểm 7 - 10 điểm
Quan hệ bạn bè 0 - 3 điểm 4 điểm 5 - 10 điểm
Quan hệ xã hội 6 - 10 điểm 5 điểm 0 - 4 diểm
Phân tích và xử lý số liệu
Số liệu được nhập và làm sạch bằng phần
mềm Epi data 3.1 và được xử lý trên phần mềm
Stata phiên bản 10.0. Kiểm định Chi bình
phương (χ2) được sử dụng để tìm sự khác biệt
giữa các nhóm, giá trị p<0,05 được xem là có ý
nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 2: Đặc điểm của học sinh THCS (từ lớp 6 đến
lớp 9) năm 2015 tham gia nghiên cứu (n=6.639)
Giới tính Số lượng Tỷ lệ %
Nam 3.233 48,7
Nữ 3.406 51,3
Tổng 6.639 100
Phân bố học sinh theo giới khá đồng đều,
nam chiếm 48,7% và nữ chiếm 51,3% (Bảng 2).
Thực trạng các vấn đề sức khỏe tâm thần của
học sinh THCS
Bảng 3 cho thấy, phần lớn học sinh không có
vấn đề về sức khỏe tâm thần chung (70,4%). Tỷ
lệ học sinh nghi ngờ có vấn đề SKTT là 15,6% và
có vấn đề về SKTT chung là 14,0%.
Bảng 3: Tỉ lệ sức khỏe tâm thần chung của học sinh
THCS trong năm 2015 (n=6.639)
Mức độ đánh giá Số lượng Tỷ lệ %
Có vấn đề SKTT chung 929 14,0
Nghi ngờ 1.036 15,6
Bình thường 4.674 70,4
Tổng 6.639 100
Bảng 4: Tỉ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần của học
sinh THCS năm 2015
Không có
vấn đề (%)
Nghi ngờ
(%)
Có vấn đề
(%)
Vấn đề cảm xúc 86,6 7,0 6,4
Vấn đề hành vi 81,4 9,8 8,8
Vấn đề tăng động 89,5 6,5 4,0
Quan hệ bạn bè 64,9 21,6 13,5
Quan hệ xã hội 60,3 26,5 13,2
Tỉ lệ học sinh nghi ngờ và có vấn đề về quan
hệ xã hội là cao nhất (26,5% và 13,2%). Tiếp đến
là vấn đề về quan hệ bạn bè (21,6% và 13,5%),
vấn đề hành vi (9,8% và 8,8%). Tỉ lệ nghi ngờ và
có vấn đề về cảm xúc và tăng động là thấp nhất,
khoảng trên dưới 7% (Bảng 4).
Bảng 5: Tỉ lệ các vấn đề sức khỏe tâm thần của học
sinh THCS theo giới năm 2015
Giới
Vấn đề SKTT
Số
lượng
Tỷ lệ
%
Tổng χ
2
(p)
SKTT chung
Nam 563 17,4 3.233 60,1
(< 0,05) Nữ 368 10,8 3.406
Vấn đề cảm
xúc
Nam 191 5,9 3.233 2,2
(>0,05) Nữ 232 6,8 3.406
Vấn đề hành
vi
Nam 407 12,6 3.233 112,9
(< 0,05) Nữ 177 5,2 3.406
Vấn đề tăng
động
Nam 207 6,4 3.233 95,6
(< 0,05) Nữ 58 1,7 3.406
Vấn đề bạn bè
Nam 485 15,0 3.233 11,9
(< 0,05) Nữ 412 12,1 3.406
Vấn đề xã hội
Nam 543 16,8 3.233 70,6
(< 0,05) Nữ 334 9,8 3.406
Vấn đề sức khỏe tâm thần chung ở giới nam
cao hơn giới nữ (17,4% và 10,8%), sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê. Học sinh nam có vấn đề về
quan hệ xã hội và quan hệ bạn bè cao (16,8% và
15,0%) và cao hơn học sinh nữ, khác biệt có ý
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2018
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 590
nghĩa thống kê; học sinh nữ có vấn đề về quan
hệ bạn bè cao nhất (12,1%) (Bảng 5).
BÀN LUẬN
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên
6.639 học sinh THCS ở 5 tỉnh thuộc 4 vùng
miền. Tỉ lệ học sinh nam và nữ là tương đồng
(48,7% và 51,3%), kết quả này phù hợp với đặc
điểm đối tượng nghiên cứu của các nghiên cứu
trước đây như nghiên cứu Đào Thị Tuyết (nam
51,8, nữ 48,2%)(1).
Thực trạng vấn đề SKTT ở học sinh THCS năm
2015
Vấn đề SKTT chung
Bảng 3 chỉ ra trong nghiên cứu này tỷ lệ học
sinh có vấn đề SKTT là 14,0%, ở mức bình
thường là 70,4%, nghi ngờ 15,6%. Phân tích theo
giới cho thấy tỷ lệ học sinh nam có vấn đề sức
khỏe tâm thần chung là 17,4% và học sinh nữ là
10,8%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả
nghiên cứu của các nghiên cứu trước đây.
Nghiên cứu ở Anh năm 2003 chỉ ra rằng tỉ lệ
chung trẻ em bị rối loạn tâm thần khoảng 15% (2).
Theo nghiên cứu trên 2.863 hộ gia đình có trẻ em
từ 7-17 tuổi ở Đức năm 2007 chỉ ra tỷ lệ chung
trẻ em và vị thành niên có vấn đề sức khỏe tâm
thần là 21,9%(5). Ở Việt Nam, Nguyễn Văn Thọ
và cộng sự báo cáo tỷ lệ học sinh từ 6-14 tuổi có
vấn đề SKTT ở các dạng khác nhau từ 10,4% -
24,3%(4). Nghiên cứu này có kết quả tương
đương với nghiên cứu của Vũ Thị Hoàng Lan tại
trường THCS Cầu Giấy năm 2011 cho thấy tỷ lệ
học sinh nam có vấn đề SKTT là cao hơn nữ giới
15,8% và 11,4%(9).
Các vấn đề SKTT được đánh giá trên thang
SDQ
Bảng 4 cho thấy vấn đề SKTT được chia
thành 5 nhóm: Nhóm có tỷ lệ thấp nhất là nhóm
có vấn đề SKTT trong biểu hiện tăng động 4,0%,
biểu hiện cảm xúc là 6,4% và hành vi là 8,8%.
Vấn đề cảm xúc như buồn rầu, thất vọng, lo
lắng, thờ ơ với xung quanh, ít giao tiếp. Trẻ có
vấn đề cảm xúc cũng ảnh hưởng đến sức khỏe
thể chất và sự tiếp thu kiến thức văn hóa, kiến
thức xã hội kém. Kết quả nghiên cứu này thấp
hơn nghiên cứu của Vũ Thị Hoàng Lan
(14,07%)(9). Trong nhóm có vấn đề SKTT trong
biểu hiện cảm xúc: nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam
tương ứng là 6,8% và 5,9%. Kết quả này phù hợp
với các nghiên cứu khác, vấn đề cảm xúc ở nữ
thường cao hơn nam. Điều này lý giải ở mỗi giai
đoạn phát triển, tâm sinh lý của các em cũng
thay đổi. Bước vào lứa tuổi dậy thì, học sinh nữ
tuổi dậy thì sớm hơn nam nên biểu hiện cảm xúc
cũng có khác nhau.
Vấn đề biểu hiện hành vi thể hiện như càn
quấy, cư xử hung hãn với người khác hoặc động
vật, phá hoại tài sản, ăn cắp, nói dối, hỗn láo với
người lớn, bỏ nhà đi. Tỉ lệ có vấn đề biểu hiện
hành vi trong nghiên cứu này là 8,8%, kết quả
nghiên cứu thấp hơn kết quả của Ngô Thanh
Hồi (9,23%)(3) và thấp hơn nghiên cứu của Vũ
Thị Hoàng Lan (17,4%)(9). Trong nghiên cứu này
tỷ lệ học sinh có vấn đề biểu hiện hành vi ở nam
là 12,6% cao hơn so với nữ (5,2%). Kết quả này
phù hợp với nghiên cứu của Vũ Thị Hoàng Lan
(nam: 24,1%, nữ: 10,2%). Tỷ lệ học sinh có vấn đề
biểu hiện hành vi cao như vậy cho ta thấy thực
trạng vấn đề bạo lực học đường thời gian gần
đây gia tăng đáng kể, chính vì vậy ngành giáo
dục nên xem xét đến việc đưa giáo dục kỹ năng
sống vào trong chương trình học. Các bài học đó
sẽ góp phần giúp các em chế ngự được cảm xúc,
hành vi trong môi trường nhà trường, gia đình.
Vấn đề quan hệ xã hội thể hiện khi trẻ ít tiếp
xúc với môi trường xung quanh, thờ ơ, vô cảm
với mọi người, không chia sẻ, giúp đỡ hay tình
nguyện tham gia các hoạt động. Tỷ lệ có vấn đề
về mối quan hệ xã hội trong nghiên cứu này
chiếm cao 13,2%, trong đó nam có vấn đề về
quan hệ xã hội cao nhất trong 5 nhóm và cao
hơn nữ (16,8% và 9,8%), sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao
hơn kết quả của Ngô Thanh Hồi (7,6%)(3).
Nhóm có vấn đề trong quan hệ bạn bè là
13,5% kết quả của chúng tôi cao hơn kết quả của
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 591
Nguyễn Văn Thọ (4,8%)(4) và thấp hơn nghiên
cứu của Vũ Thị Hoàng Lan (25,4%)(9). Trong đó
nhóm có vấn đề SKTT trong quan hệ bạn bè nam
chiếm 16,8% và cũng cao hơn nữ (12,1%). Điều
đáng chú ý là tỷ lệ hai nhóm có vấn đề về quan
hệ bạn bè và có vấn đề về quan hệ xã hội là cao.
Các thang điểm dùng để đánh giá quan hệ bạn
bè và quan hệ xã hội nhằm đánh giá thái độ,
hành vi tự nguyện của học sinh trong mối quan
tâm, chia sẻ, giúp đỡ và cư xử tốt với bạn bè. Tỷ
lệ cao của hai rối loạn này có thể được giải thích
bởi thực trạng hiện tại gia đình cha mẹ quá tập
trung vào việc dạy văn hóa cho học sinh, làm
tăng áp lực học hành, cũng như quản lý quá chặt
chẽ của gia đình dẫn đến thiếu sự đầu tư vào
việc bồi dưỡng kỹ năng sống cho trẻ, mở rộng
các mối quan hệ xã hội cho học sinh(8).
Nghiên cứu của chúng có kết quả có thấp
hơn với kết quả điều tra thực trạng tâm thần của
một số nghiên cứu trước. Điều đáng chú ý ở
nghiên cứu này là hai nhóm rối loạn sức khoẻ
tâm thần thường gặp nhất là nhóm quan hệ
nhóm bạn và giao tiếp xã hội. Thang điểm đánh
giá quan hệ nhóm bạn và giao tiếp xã hội nhằm
đánh giá hành vi tự nguyện, thái độ của trẻ, mối
quan hệ và giao tiếp trong xã hội, sự quan tâm
chia sẻ, giúp đỡ và cư xử với bạn bè. Tỉ lệ rối
loạn ở hai nhóm này cao được giải thích là bởi vì
hiện nay cha mẹ qua tập trung vào dạy văn hoá,
làm sao cho con học giỏi tiến bộ gây áp lực nặng
về học tập cho học sinh, đồng thời việc quản lý
quá chặt của gia đình dẫn đến thiếu đầu tư vào
bồi dưỡng kỹ năng sống cho trẻ, không mở rộng
mối quan hệ bạn bè, tạo sân chơi vui chơi cho trẻ
rèn luyện. Nhìn chung, thực trạng các vấn đề
SKTT của học sinh năm 2015 còn tương đối cao,
do sự phát triển của xã hội ảnh hưởng lớn đến
vấn đề tinh thần, tâm thần của trẻ.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ học sinh có biểu hiện SKTT chung là
14,0%; học sinh nghi ngờ có vấn đề SKTT là
15,6%. Phân tích theo giới cho thấy tỷ lệ học sinh
nam có vấn đề sức khỏe tâm thần chung là
17,4% và học sinh nữ là 10,8%, sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê.
Tỉ lệ học sinh có vấn đề và nghi ngờ có vấn
đề SKTT ở khía cạnh quan hệ xã hội là cao nhất
(13,2 % và 26,5%), tiếp đến là ở khía cạnh quan
hệ bạn bè (13,5% và 21,6% ).
Học sinh nam có vấn đề về quan hệ xã hội và
quan hệ bạn bè cao (16,8% và 15,0%) và cao hơn
học sinh nữ, khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p<0,05); học sinh nữ có vấn đề về quan hệ bạn
bè cao nhất (12,1%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Thị Tuyết (2014). Thực trạng SKTT và các yếu tố liên quan
của học sinh trường Trung học cơ sở Tam Khương, Đống Đa,
Hà Nội năm 2014. Luận văn Thạc sĩ Y tế Công cộng, Đại học Y tế
công cộng.
2. Meltzer H, et al (2003). Mental health of children and
adolescents in Great Britain. Int Rev Psychiatry. 15(1-2):185-7.
3. Ngô Thanh Hồi, Trần Thị Hồng Thu (2010). Khảo sát sức khỏe
tâm thần học sinh trường học thành phố Hà Nội. Tạp chí Y học
thực hành, 8(730):44-48.
4. Nguyễn Văn Thọ (2010). Khảo sát các vấn đề sức khỏe tâm thần
học sinh cơ sở cơ sở tại thành phố Biên Hòa. Tạp chí Y học Quân
sự, 35(3):33-37.
5. Ravens-Sieberer U, et al (2007). Mental health of children and
adolescents in Germany. Results from the BELLA study within
the German Health Interview and Examination Survey for
Children and Adolescents (KiGGS). Bundesgesundheitsblatt
Gesundheitsforschung Gesundheitsschutz, 50(5-6):871-8.
6. Robert Goodman (1997). Scoring the Self-Report Strengths and
Difficulties Questionnaire. Institute of Psychiatry London.
7. Tran Tuan, Trudy Harpham và Nguyen Thu Huong (2005).
Measuring social capital and mental health in Viet Nam: A
validity study Young Lives- An International Study on
Childhood Poverty, No. 12. Working Paper, London.
8. Vitolo YLC, et al (2005). Parental beliefs and child- rearing
attitudes and mental health problem among school childen. Rev
Saude Publica, 39(5):716-724.
9. Vũ Thị Hoàng Lan, Lương Ngọc Khuê và Nguyễn Thị Thúy
Anh (2011). Thực trạng sức khỏe tâm thần và một số yếu tố liên
quan ở trường THCS Cầu Giấy Hà Nội. Tạp chí Y dược học Quân
sự, 5:78-86.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 586_6189_2212143.pdf