Tài liệu Tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn trước thế kỷ XX - Nguyễn Thị Hòa: Nguyễn Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 71 - 76
71
TUYẾN ĐƯỜNG HÀ NỘI – LẠNG SƠN TRƯỚC THẾ KỶ XX
Nguyễn Thị Hòa*, Đặng Thị Lan
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Hà Nội – Lạng Sơn là tuyến đường được hình thành đầu tiên của đường Thiên Lý, nay là Quốc lộ 1A.
Tuyến đường bắt đầu được xây dựng từ thời nhà Lý (1010 - 1225), xuất phát từ Thăng Long, qua Bắc
Ninh, Bắc Giang lên vùng biên giới Việt – Trung ở Lạng Sơn, kết thúc tại trấn Nam Quan (nay là cửa
khẩu quốc tế Hữu Nghị). Năm 1019, đoạn đường cuối của tuyến đường được hoàn thành, sau đó nhà Lý
mở rộng tuyến đường thành quan lộ. Tới thời nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, nhà Mạc, tuyến đường tiếp tục
được sử dụng, cải tạo. Tuy nhiên, về cơ bản hiện trạng tuyến đường giống như thời nhà Lý, đó là những
đoạn đường đất nhỏ hẹp bị ngăn cách bởi sông suối, khó khăn đi lại khi mưa, lũ. Đến Thời nhà Nguyễn
(1802 - 1945), tuyến đường được mở rộng, nắn thẳng và bắc cầu qua sông suối, chỗ bùn lầ...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn trước thế kỷ XX - Nguyễn Thị Hòa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 71 - 76
71
TUYẾN ĐƯỜNG HÀ NỘI – LẠNG SƠN TRƯỚC THẾ KỶ XX
Nguyễn Thị Hòa*, Đặng Thị Lan
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Hà Nội – Lạng Sơn là tuyến đường được hình thành đầu tiên của đường Thiên Lý, nay là Quốc lộ 1A.
Tuyến đường bắt đầu được xây dựng từ thời nhà Lý (1010 - 1225), xuất phát từ Thăng Long, qua Bắc
Ninh, Bắc Giang lên vùng biên giới Việt – Trung ở Lạng Sơn, kết thúc tại trấn Nam Quan (nay là cửa
khẩu quốc tế Hữu Nghị). Năm 1019, đoạn đường cuối của tuyến đường được hoàn thành, sau đó nhà Lý
mở rộng tuyến đường thành quan lộ. Tới thời nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, nhà Mạc, tuyến đường tiếp tục
được sử dụng, cải tạo. Tuy nhiên, về cơ bản hiện trạng tuyến đường giống như thời nhà Lý, đó là những
đoạn đường đất nhỏ hẹp bị ngăn cách bởi sông suối, khó khăn đi lại khi mưa, lũ. Đến Thời nhà Nguyễn
(1802 - 1945), tuyến đường được mở rộng, nắn thẳng và bắc cầu qua sông suối, chỗ bùn lầy đắp thêm
đất. Những năm cuối thế kỉ XIX, nhằm phục vụ cho công cuộc cai trị và khai thác thuộc địa Việt Nam,
Thực dân Pháp sửa chữa, mở rộng tuyến đường. Trong suốt tiến trình lịch sử trước thế kỉ XX, tuyến
đường Hà Nội – Lạng Sơn được coi là huyết mạch quốc gia trong việc đi lại thông thương, ngoại giao
với Trung Quốc. Tuyến đường có vị trí, vai trò quan trọng trong cả lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế,
văn hóa và xã hội đối với đất nước, triều đình và nhân dân. Điều đó khẳng định sự đúng đắn, nhạy bén
của các triều đại phong kiến Việt Nam trong việc quan tâm phát triển giao thông, nhất là việc mở và cải
tạo, nâng cấp tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn.
Từ khóa: Tuyến đường; Hà Nội; Lạng Sơn;Nam Quan; thế kỷ XX.
MỞ ĐẦU *
Xuất phát từ nhu cầu đi lại, cai quản các địa
phương và yêu cầu của việc bang giao, hoạt
động quân sự, các triều đại phong kiến Việt
Nam đã quan tâm và chú trọng việc giao
thông, mở đường bộ từ các kinh thành, phủ
tới các địa phương và biên giới Việt – Trung.
Hà Nội – Lạng Sơn là một trong các tuyến
đường đó.
Tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn, trước 1831
được gọi là tuyến đường Thăng Long – Lạng
Sơn (hay Nam Quan), là mạch đường khởi đầu
cho trục đường Thiên Lý Bắc Kỳ, sau là Thiên
Lý Bắc Nam. Đối với nước ta, tuyến đường
này đã đóng góp vai trò hết sức to lớn trong
phát triển kinh tế, ngoại giao, thông thương,
quốc phòng,... Phạm vi tuyến đường chạy
qua, nhất là Lạng Sơn là nơi trực tiếp diễn ra
những cuộc tiến - lui quân khi có giao tranh
giữa ta và phong kiến phương Bắc; là nơi tiếp
đón hàng trăm đoàn sứ bộ của hai nước Việt -
Trung trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Ngoài ra, đây còn là nơi giao thương, buôn
bán giữa triều đình và nhân dân hai nước.
Tuyến đường không chỉ là cửa ngõ ra vào
giữa hai nước Việt - Trung, nối liền miền
thượng du - đồng bằng, các đô thị, trung tâm,
* Tel: 0973748369, Email: hoakhoasu@dhsptn.edu.vn
đơn vị hành chính, các trạm, phục vụ hoạt
động khai thác để đáp ứng mục tiêu quân sự,
ngoại giao từ thời dựng nước và giữ nước mà
còn là nền tảng cơ sở của đường 1A ngày nay.
Vì vậy, việc tìm hiểu về việc xây dựng, hoạt
động và vai trò của tuyến đường Hà Nội -
Lạng Sơn trước thế kỷ XX có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn.
Bài viết cung cấp cho bạn đọc thêm nhận thức
về lịch sử Việt Nam thời cổ - trung - cận đại.
Khi làm rõ về lịch sử và vai trò của tuyến
đường, bài viết có ý nghĩa giáo dục rất lớn
cho thế hệ trẻ. Từ đó, hình thành thái độ, tư
tưởng, tình cảm đúng đắn, biết trân trọng
những công lao của cha ông trong quá trình
xây dựng và hoàn thiện tuyến đường cũng
như quá trình xây dựng và phát triển đất
nước. Thông qua bài viết, chúng tôi hy vọng
cung cấp thêm nguồn tư liệu để phục vụ học
tập, giảng dạy và nghiên cứu lịch sử dân tộc
và lịch sử địa phương.
TÀI LIỆU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu và làm rõ về “Tuyến đường Hà
Nội - Lạng Sơn trước thế kỷ XX”, chúng tôi
khai thác và sử dụng tài liệu thành văn là các
sách về lịch sử giao thông vận tải; các giáo
trình lịch sử Việt Nam của trường Đại học Sư
phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm Thái
Nguyên; sách sử của các triều đại phong kiến,
Nguyễn Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 71 - 76
72
đặc biệt là sử sách triều Nguyễn; các tài liệu
lịch sử địa phương của 4 tỉnh thành: Hà Nội,
Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn
Các tác phẩm sử học của triều đại phong kiến
có ghi chép về đường sá, việc đi lại của nhân
dân như: Sử học bị khảo, Đại Việt Sử ký toàn
thư, Lịch triều hiến chương loại chí... Đặc
biệt, thời nhà Nguyễn có tác phẩm Đồng
khánh dư địa chí (1888 -1890), Đại Nam nhất
thống chí, Đại Nam thực lục, Khâm định Ðại
Nam hội điển sự lệ, Châu bản triều Nguyễn,
Về phương pháp nghiên cứu, chúng tôi sử
dụng phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp logic là chủ yếu. Phương pháp
lịch sử: Chúng tôi tiến hành tìm hiểu vấn đề
theo trình tự thời gian, trước tiên tìm hiểu quá
trình hình thành, xây dựng và khai thác tuyến
đường qua các triều đại phong kiến cho tới
đầu thế kỷ XX. Phương pháp logic: Được vận
dụng khi tiến hành tìm hiểu biến đổi trong
xây dựng và khai thác, vị trí và vải trò của
tuyến đường qua từng thời kỳ Ngoài ra,
chúng tôi sử dụng các phương pháp thống kê,
phân tích, tổng hợp, so sánh, miêu tả...
KẾT QUẢ VÀ BÌNH LUẬN
Thực trạng xây dựng và hoạt động trên
tuyến đường trước thế kỉ XX
Trước thời nhà Nguyễn (trước năm 1802)
Như đã khẳng định ở trên, tuyến đường Hà
Nội – Lạng Sơn được mở từ thời đầu thời nhà
Lý (1010 - 1225), tức là khi đó nhà nước và
nhân dân mới có những hoạt động tác động
như đắp đất, phát quang mở đường đi
Trước đó, tuyến đường ấy chỉ là những lối
đường đất mòn do người Trung Quốc khai
mở trong các cuộc viễn chinh xâm lược Việt
Nam từ thời Hán (207 - 201 TCN) và do dân
cư, gia súc đi lại nhiều tạo thành. Sách Đại
Việt sử ký toàn thư ghi lại vào năm 980 “Lạng
Sơn nghe tin quân Tống sắp sang, làm tờ tâu
lên, Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ để
chống cự” [1, tr.184]. Điều đó cho thấy ngay
từ trước nhà Lý, việc đi lại và thông tin liên
lạc giữa triều đình và vùng biên giới đã có. Lối
mòn đi từ Thăng Long tới Nam Quan (Lạng
Sơn) đã được hình thành trước thời nhà Lý
phục vụ cho hoạt động kinh tế, chính trị, quân
sự, bang giao với phong kiến phương Bắc của
nước ta như đón tiếp đoàn sứ bộ của phương
Bắc, là đường đi của các đoàn sứ bộ Việt
Nam sang Trung Quốc, là đường vận chuyển
công văn, chiếu chỉ, thông tin liên lạc giữa
các địa phương với triều đình, Tuy nhiên,
con đường mòn nhỏ, chạy qua các làng mạc
hoang vu, dân cư còn thưa thớt, qua những
đèo dốc và rừng hoang và bị chia cắt thành
nhiều đoạn ngắn gây nhiều khó khăn khi di
chuyển, vận tải.
Xuất phát từ vị trí quan trọng của Lạng Sơn và
kinh đô nước ta lúc bấy giờ cũng như tầm quan
trọng của việc đi lại cai quản các địa phương
vùng biên giới, tiến quân chặn đánh các đợt tấn
công của phong kiến phương Bắc và giữ mối
quan hệ bang giao với Trung Quốc, vua Lý
Thái Tổ đã cho đắp đất mở tuyến đường từ
Thăng Long lên biên giới Việt – Trung. Theo
sách Sử học bị khảo của Đặng Xuân
Bảng,“vua Lý Thái Tổ cho đắp xong con
đường lộ từ Thăng Long đến biên giới Việt -
Trung. Năm 1019 thì đắp xong đoạn cuối từ
ải Chi Lăng tới trấn Nam Quan (sau này là
Mục Nam Quan và hiện nay là cửa khẩu quốc
tế Hữu Nghị” [1, tr.271-272]. Như vậy, thời
Lý Thái Tổ, năm 1019, đã đắp hoàn thiện
đoạn đường biên giới Việt - Trung và tuyến
đường Thăng Long - Lạng Sơn chính thức ra
đời. Đến thời Lý Thái Tông (1028 - 1054) đã
được mở rộng thành đường quan lộ nhưng
vẫn là đường đất và bị cắt đoạn với sông suối
phải qua bằng thuyền bè.
Tuyến đường thời này được chia ra từng
cung, có các nhà trạm và các ụ đất cắm biển
gỗ để chỉ phương hướng. Mỗi cung thuộc
quyền cai trị hành chính của một giới chức do
triều đình bổ nhiệm, nắm quyền cai trị hành
chính, có trách nhiệm tu bổ hệ thống quan lộ
nằm trong cung của mình. Các nhà trạm đặt
cách nhau khoảng 15-20km, đứng đầu mỗi
trạm là một trạm trưởng chỉ huy một số phu
trạm chạy công văn, giấy tờ (công văn được
đựng trong ống tre, được chuyển đi bằng chạy
bộ, ngựa, thuyền).
Tới thời nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê sơ, nhà
Mạc, tuyến đường tiếp tục được sử dụng và
cải tạo, tuy nhiên, về cơ bản hiện trạng tuyến
đường giống như thời nhà Lý. Thời kỳ Trịnh -
Nguyễn phân tranh, ở Đàng Ngoài, chúa
Trịnh cho đắp đường Thiên Lý, trong đó có
Nguyễn Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 71 - 76
73
đoạn Hà Nội - Lạng Sơn đủ rộng và chắc
chắn để voi, ngựa có thể đi được.
Từ khi hình thành (1019) đến trước năm 1802,
Hà Nội – Lạng Sơn là tuyến đường đi lại,
thông thương của nhân dân giữa các địa
phương và cả với bên kia biên giới. Đối với
triều đình, tuyến đường là để đi thị sát; vận
chuyển công văn, giấy tờ, thông tin đến các địa
phương. Riêng đối với Lạng Sơn, có thể nói
đây là con đường duy nhất. Tuyến đường cũng
là lối di chuyển của quân lính trong các cuộc
kháng chiến chống phong kiến phương Bắc
xâm lược. Trong lịch sử trước thời nhà Nguyễn
đã có rất nhiều cuộc kháng chiến chống quân
Phương Bắc đi qua tuyến đường Hà Nội -
Lạng Sơn. Ví như cuộc kháng chiến chống
quân Tống trên sông Như Nguyệt, trận Ải Chi
Lăng trong kháng chiến chống quân Minh,
kháng chiến chống quân Thanh của vua Quang
Trung Đặc biệt, đây là tuyến đường chủ yếu
triều đình sử dụng để thông thương và thực
hiện các hoạt động bang giao (đi sứ và đón tiếp
các đoàn sứ Trung Quốc). Theo tấm bản đồ
“Từ Trung Hoa đến An Nam” trong
cuốn Histoire des Relations de la Chine avec
l’Annam - Vietnam du XVIau XIXsiècle (Lịch
sử quan hệ giữa Trung Hoa với Việt Nam từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX) của G. Devéria,
xuất bản năm 1880 ở Paris, từ thế kỷ XV, việc
đi lại cũng như thông thương giữa Trung Hoa
với Việt Nam (và ngược lại) thông qua đường
từ Quảng Tây - Lạng Sơn (đường bộ). Trong
đó, từ Quảng Tây qua Lạng Sơn đến Đông
Kinh (Hà Nội ngày nay) có 3 con đường đi qua
cửa ải Nam Quan, ải Bình Nhĩ và ải Biện
Cường nhưng đều qua phủ Lạng Sơn theo
đường quan lộ về Đông Kinh [2].
Về phương tiện đi lại, vận tải: Nhân dân, quân
lính chủ yếu là đi bộ, còn quan lại triều đình
sử dụng phương tiện như võng, cáng, kiệu
hay cưỡi ngựa. Phương tiện vận chuyển hàng
hóa có xe do trâu, bò, ngựa kéo (xe quyệt, xe
cút kít, xe một bánh, xe hai bánh).
Dưới thời Nguyễn
Sau khi vua Gia Long thống nhất nước nhà
(1802), ông thấy đường sá giao thông là vấn
đề quan trọng đối với việc chính trị và quân
sự nên đã sai quan trấn nhậm các doanh trấn
phải “đo đạc đường quan và các đường thủy
bộ”. Vua Gia Long cho lệnh sửa lại con đường
quan lộ, định rằng “bề rộng phải là 3 trượng và
phân chia con đường ấy ra từng cung một, cứ
cách khoảng 15 cây số lại đặt trạm để chuyển
đệ công văn cùng vận tải đồ đạc của các quan
chức bằng kiệu, bằng cáng, bằng ngựa. Tại
những trạm này, khách bộ hành có thể nghỉ
ngơi, ăn uống và thuê phu vận tải cung cấp bởi
các xã thôn lân cận” [3, tr.201]. Mỗi dịch
trạm có phu trạm và ngựa để kịp truyền công
văn và khiêng cáng kiệu hay đồ đạc các quan.
Ông cho chăng dây và mở đường thẳng, gặp
ngòi suối thì bắc cầu, chỗ bùn lầy xếp xây đắp
đất. Bên phải đường cái quan gặp chỗ nào
cong thì giăng dây để uốn thẳng lại, cầu cống
thuyền bến đều luôn được gia tăng tu bổ,
đường rộng suốt phẳng như đá mài.
Thời kỳ này, người ta đắp đường ở giữa cao
lên và đào những con mương dẫn nước ở hai
bên hoặc một bên đường. Do đường đắp bằng
đất nên khi mưa lũ hay bị bùn lầy, sạt lở. Để
gia cố và làm vững chắc cho đường, triều
đình cho rải ít đá dăm và sỏi, gạch vụn, rồi
đầm vào mặt đường, hai bên đường trồng
thêm cây để chống sói mòn do mưa lũ, giảm
sự sụt lở của đất đá. Những tuyến giao thông
và đoạn đường đê chống lũ lụt quan trọng,
thường được quan tâm hơn, có quan hộ đê
phụ trách riêng, luôn huy động dân công đắp
đê bằng công quỹ từ triều đình và đóng góp
của địa phương.
Đầu năm 1810, vua Gia Long sai Giám thành
Nguyễn Văn Học lo việc sửa cầu cống đường
sá ở các địa phương. Công việc gồm có "đo
xem thế đất, lấy dân sửa đắp, cấp cho (dân)
lương ăn hàng ngày" [4, tr.191]. Lúc bấy giờ,
con đường cũng được chia thành nhiều cung,
mỗi cung trung bình dài khoảng 25 - 30 dặm
(15 - 20km). Để có chỗ canh phòng, vận
chuyển công văn giấy tờ và làm nơi đón đưa
quan lại trú đêm trên đường; Gia Long cho
dựng ở giữa hai cung một nhà trạm gồm ba
gian, hai mái bằng gạch ngói hay cây lá, theo
cùng một kiểu do bộ Công quy định, có hào
và tường bao bọc chung quanh, lại có chòi
gác bốn phía. Trên cửa ra vào có treo biển
khắc tên trạm. Ở mỗi trạm đều có nhiều phu
trạm (khoảng 50 người) và ngựa (khoảng 3
con) để làm nhiệm vụ chuyển tải công văn
giấy tờ, khiêng cáng và đồ dùng của quan lại
qua đường. Quản lý và điều hành sự vụ các
Nguyễn Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 71 - 76
74
dịch trạm trên đường Thiên lý là chức năng
của ty Bưu chính, còn việc đưa lệnh của triều
đình và thu nhận báo cáo của các địa phương
là nhiệm vụ của ty Thông chính sứ. Người
của hai cơ quan này phải túc trực ngày đêm
để điều hành công việc được thông suốt.
Năm 1832, tiếp tục sự nghiệp của vua cha,
vua Minh Mạng dụ cho Bộ Công: “Đường
cái quan có nhiều chỗ núi cao, lính trạm leo
trèo, nhân dân đi lại, có nhiều khó khăn trở
ngại. Vậy truyền lệnh cho các quan địa
phương xem xét địa phận hạt mình, chỗ nào
có đá lớn ngăn trở, thì đốt cho nát phá bỏ đi,
cốt rộng từ 4 - 5 thước trở lên, đủ đi lại được;
chỗ nào vì nước mưa lụt chảy xói, lâu ngày
thành trũng sâu, thì đá lấp đầy, hoặc xây
thành bậc, cho được bằng phẳng, rồi ủy cho
phủ huyện thuê dân làm, trả công ưu hậu
bằng tiền và gạo, rộng cho thời hạn, cốt được
thành công để lợi ích lâu dài” [4, tr.191].
“Năm 1840, vua Minh Mạng cho đắp các
đường quan báo từ các nơi biên giới về, nhằm
đảm bảo việc truyền thông tin khi có biến
động” [1, tr.274].
Như vậy, thời nhà Nguyễn, tuyến đường Hà
Nội - Lạng Sơn được cải tạo, mở rộng và
hoàn thiện hơn với hệ thống cầu bắc qua các
con sông, suối lớn. Triều đình đã quy định
trách nhiệm làm đường cho bộ Công lo việc
xây dựng và duy trì các nhà công, đường sá,
cầu cống, kênh mương và đê điều. Đôi khi bộ
Lễ cũng được giao nhiệm vụ hỗ trợ bộ Công
trong việc giao thông. Ví như dưới thời vua
Tự Đức: “Giao nhiệm vụ cho bộ Lễ, bộ Công
bàn về việc xây dựng, sửa sang đường sá, cầu
cống, trạm nghỉ, cách trưng bày trong các
trạm nghỉ trên con đường suốt từ Trị Thiên
đến Lạng Sơn để chuẩn bị đón sứ đoàn nhà
Thanh sang dự lễ Bang Giao” [5, tr.22].
Thời kì này các hoạt động và phương tiện đi
lại, vận chuyển trên tuyến đường vẫn như thời
trước nhưng thuận lợi hơn. Hoạt động diễn ra
trên tuyến đường nổi bật của thời kỳ này là
hoạt động ngoại giao (đi sứ) và buôn bán.
Thời nhà Nguyễn đã có nhiều đoàn sứ bộ
sang Trung Hoa với mục đích cầu phong,
cống tuế, tạ ân, chúc mừng, mua hàng hóa,...
và ngược lại, Trung Hoa cũng đã cử nhiều
đoàn sứ bộ sang nước ta. Những hoạt động
bang giao đó đều được tiến hành thuận lợi
thông qua tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn.
Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
đường đi sứ từ Việt Nam sang Trung Hoa bắt
đầu từ Kinh đô Huế, theo đường bộ ra Hà
Nội, lên Bắc Ninh, đến Lạng Sơn và qua ải
Nam Quan vào đất Quảng Tây rồi vào sâu
trong nội địa Trung nguyên Còn sứ nhà
Thanh sang Việt Nam thì đi theo đường bộ
qua ải Nam quan đến Bắc Thành (Hà Nội), rồi
theo đường thủy để vào Kinh đô Huế Khi
đi ra cũng theo lộ trình ấy, hoặc đôi khi đi bộ
ra tới Bắc Ninh rồi theo đường thủy trở về
Trung Quốc [6].
Vào đầu triều Gia Long, triều đình định lệ sai
sứ sang nhà Thanh, cứ bốn năm sai sứ đi một
lần. Việc mua bán hàng hóa của các sứ bộ
ngoại giao thời Nguyễn ở Trung Hoa như sau:
Theo Châu bản Triều Nguyễn (tập 15, tờ 212-
213): “Ngày 28 tháng 3 năm Minh Mạng thứ
7 (1826), Hiệp tổng trấn Bắc Thành là
Nguyễn Hữu Thận tấu trình về việc ngày 18
tháng 3, hai sứ bộ sang trở về đến Thăng
Long 2 chánh sứ Hoàng Kim Hoán và Hoàng
Văn Quyền theo trạm về trước, 4 phó sứ còn
lưu lại Thăng Long để kiểm soát đồ vật. Hộ
tào Nguyễn Công Thiệp đã cùng các phó sứ
kiểm kê đồ vật mua được; chọn các loại hàng
hóa nhẹ như gấm, đoạn gồm 14 thùng,
phân thành 12 gánh chuyển theo đường bộ về
Kinh, từ ngày 25 tháng 3. Còn hàng nặng
gồm 16 thùng thì niêm phong, giao Cục Tạo
tác giữ gìn, cùng với 53 hòm tư trang của hai
sứ bộ và tùy tùng, chờ để chuyển về Kinh
bằng đường biển” [6].
Từ sau năm 1884
Với Hiệp ước Hác-măng (1884), triều đình
nhà Nguyễn đầu hàng và thừa nhận nền bảo
hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam. Từ đó,
Pháp bắt đầu công cuộc bình định nước ta,
tiến tới đặt ách cai trị và khai thác thuộc địa
từ năm 1897. Để thực hiện điều đó, Pháp chú
trọng phát triển hệ thống giao thông ở Đông
Dương nói chung, Việt Nam nói riêng. Bên
cạnh hệ thống giao thông đường sắt và đường
thủy, đường bộ được chú trọng nhằm đáp ứng
nhu cầu kinh tế, khai thác tài nguyên và việc
phục vụ các loại xe tiếp tế lương thực, vũ khí
cho quân đội, trại lính nằm phân tán trên toàn
lãnh thổ; cơ động di chuyển quân đối phó với
các cuộc nổi dậy của người Việt Nam, kiểm
Nguyễn Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 71 - 76
75
soát an ninh vùng biên giới. Bởi vậy, Pháp đã
kế thừa tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn có
từ các triều đại phong kiến Việt Nam để mở
rộng, cải tạo, nâng cấp phục vụ cho công cuộc
cai trị và khai thác thuộc địa của mình.
Vị trí và vai trò của tuyến đường
Tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn nối kinh đô
Thăng Long với Lạng Sơn, là con đường quan
lộ đầu tiên vươn tới vùng biên giới Việt -
Trung ở nước ta, là đoạn cốt yếu trong trục
đường Thiên lý của đất nước. Trước thế kỉ
XX, tuyến đường được các triều đại phong
kiến quan tâm, trải qua nhiều giai đoạn hình
thành và phát triển cùng với lịch sử dân tộc và
luôn giữ vị trí huyết mạch, có vai trò quan
trọng đối với đất nước.
Về chính trị: Tuyến đường là điều kiện thuận
lợi để chính quyền phong kiến đi lại, vận
chuyển công văn giấy tờ, di chuyển binh lính,
vận chuyển lương thực và đặt các chốt đóng
quân sự, cai quản các địa phương và vươn tới
kiểm soát biên giới, từ đó khẳng định chủ
quyền của dân tộc. Tuyến đường chạy qua các
địa phương có vị trí địa chính trị chiến lược
quan trọng đối với miền Bắc nói riêng và cả
nước nói chung nên đã chứng kiến nhiều cuộc
xâm lược của quân bộ binh phong kiến phương
Bắc và sau đó là cuộc kháng chiến của triều
đình, nhân dân. Vì thế, không thể phủ nhận vai
trò của tuyến đường trong lĩnh vực quân sự,
đảm bảo đọc lập tự chủ, trật tự quốc phòng - an
ninh. Trong lịch sử, tuyến đường cũng được
xem là huyết mạch đưa đón các đoàn bộ sứ
của triều đình ta sang nước Trung Quốc và
ngược lại, với nhiều mục đích như cầu phong,
tạ ân, cáo thụ, chúc mừng, cống nạp... Hà Nội
– Lạng Sơn là đường quan lộ duy nhất ở Bắc
Thành cho tới trước năm 1831 nhưng sau đó,
đây vẫn là con đường chủ đạo để đi lại giữa
Việt Nam và Trung Quốc. Nó có vị trí, vai trò
không nhỏ trong hoạt động ngoại giao, đảm
bảng mối quan hệ bang giao Việt Nam – Trung
Quốc để giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc,
phạm vi lãnh thổ.
Về kinh tế: Trước hết, tuyến đường đã thúc
đẩy việc đi lại trao đổi, buôn bán của nhân dân
và triều đình, hình thành hệ thống chợ trên dọc
tuyến đường, góp phần phát triển nội thương.
Đặc biệt, tuyến đường vươn tới biên giới đã
hình thành các cửa ải thông thương với bên kia
biên giới, thúc đẩy việc mua bán giữa nhân
dân hai nước ở dọc biên và giữa các triều đình
Việt Nam với triều đình phong kiến phương
Bắc, xa hơn là với thế giới. Có thể nói, tuyến
đường có vị trí địa kinh tế thuận lợi bởi có Hà
Nội là Kinh đô Thăng Long - trung tâm chính
trị - kinh tế, đã có sự phát triển lâu đời của
kinh tế hàng hóa nổi tiếng với 36 phố
phường; có Bắc Ninh với rất nhiều các làng
nghề truyền thống được hình thành và phát
triển từ lâu đời; có Lạng Sơn – cửa ngõ buôn
bán nước ta với Trung Quốc và châu Âu với
nhiều phố, chợ, bến, nổi bật là phố Kỳ Lừa,
Đồng Đăng, An Thịnh.
Về văn hóa – xã hội: Việc phát triển kinh tế
buôn bán đã hình thành các phố chợ, thị trấn,
thị tứ, thay đổi bộ mặt nông thôn ở các địa
phương; hình thành các đơn vị hành chính
mới do giao thông thuận lợi nhân dân tụ họp
buôn bán rồi sinh sống lâu dài tại đó. Giao
thông đi lại thuận lợi cũng tạo điều kiện và
thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các tộc người,
nhân dân các địa phương. Bởi trước khi tuyến
đường Hà Nội - Lạng Sơn được xây dựng,
việc lưu thông đi lại được tiến hành chủ yếu
bằng đường thủy, đường bộ chỉ có đường tiểu
quan, việc đi lại chủ yếu chỉ bó hẹp trong
phạm vi làng xóm, nông dân chỉ loanh quanh
trong làng hay trong lãnh địa của mình, xa
lắm là đi sang làng bên. Việc tăng cường tiếp
xúc, giao lưu văn hóa giữa các địa phương và
với bên kia biên giới đã có tác động làm tăng
tính dân tộc, bản địa của văn hóa nước ta;
đồng thời, sự tiếp thu có chọn lọc văn hóa bên
ngoài và hòa trộn văn hóa các tộc người đã
làm tăng tính phong phú, đa dạng trong nền
văn hóa dân tộc.
Với những giá trị trên, chúng ta có thể khẳng
định tuyến đường Hà Nội - Lạng Sơn trước thế
kỉ XX là huyết mạch kinh tế, ngoại giao và hệ
thần kinh quản trị quốc gia. Và thực tế lịch sử
dân tộc đã chứng minh sang thế kỉ XX rồi đến
thế kỉ XXI ngày nay, tuyến đường vẫn có vị trí
và vai trò quan trọng. Vị trí và vai trò quan
trọng của tuyến đường trong lịch sử dân tộc
cho phép chúng ta khẳng định nhãn quan và
chính sách đúng đắn, nhạy bén của các triều
đại phong kiến Việt Nam trong việc xây dựng
và khai thác tuyến đường nói riêng và phát
triển giao thông vận tải nói chung. Từ những
năm cuối thế kỉ XIX và sang đầu thế kỉ XX,
Nguyễn Thị Hòa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 71 - 76
76
tuyến đường được Pháp khai thác, nâng cấp
phục vụ việc cai trị và khai thác thuộc địa. Tuy
nhiên, người Pháp cũng phải dựa trên tuyến
đường đã hình thành và hoàn thiện từ các triều
đại phong kiến Việt Nam để sửa chữa và sử
dụng. Tuyến đường cũng là cơ sở quan trọng
để người Pháp tiến hành xây dựng đường sắt
Hà Nội – Lạng Sơn.
Ngoài ra, khi so với hiện trạng các tuyến
đường giao thông đường bộ hiện nay, chúng
ta thấy giá trị, tính ưu việt của tuyến đường
Hà Nội - Lạng Sơn xưa trong việc đặt các nhà
trạm dừng chân để người đi lại nghỉ ngơi,
kiểm tra phương tiện (thay phương tiện) đảm
bảo an toàn, hiệu quả khi di chuyển, vận tải.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tuyến Hà Nội - Lạng Sơn trước thế kỉ XX là
tuyến đường huyết mạch vươn tới biên giới
Việt - Trung, là đoạn đường đầu tiên của
đường Thiên Lý Bắc Nam (sau được Pháp
nâng cấp thuộc đường thuộc địa số 1, nay là
đườngquốc lộ 1A), là “xương sống” trong
mạng lưới giao thông của nước ta. Tuyến
đường bắt đầu từ Thăng Long và kết thúc tại
trấn Nam Quan (Lạng Sơn) được xây dựng từ
thời nhà Lý, hoàn thành vào năm 1019. Từ
năm 1019 cho tới trước thế kỉ XX, tuyến
đường nhiều lần được sửa chữa, nâng cấp bởi
các triều đại phong kiến Việt Nam. Tuy tuyến
đường phần lớn vẫn là đường đất, khó khăn đi
lại trong mùa mưa bão và phương tiện vận tải
thì thô sơ lạc hậu nhưng đã cơ bản đảm bảo
cho việc đi lại của triều đình và nhân dân
trong các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại
giao, kinh tế và sinh hoạt văn hóa – xã hội.
Tuyến đường có vị trí địa chính trị, địa kinh tế
và vai trò quan trọng đối với đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn (1999), Địa chí
Lạng Sơn, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Trần Đức Anh Sơn (2016), “Hoạt động thương
mại của các sứ bộ Việt Nam ở Trung Hoa thời
Thanh”, Câu chuyện lịch sử, https://anhsontranduc
wordpress. com, truy cập ngày 8/3/2018.
3. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam
dưới các vua triều Nguyễn, Nxb Văn học, tr.201.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại Nam thực
lục (chính biên), tập 9, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr.191.
5. Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh
(1979), Châu bản triều Tự Đức 1848 - 1883, Ban Văn
học chọn tuyển và tóm lược, Lưu hành nội bộ.
6. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Ðại Nam
hội điển sự lệ, Bản dịch của Viện Sử học, Tập 8, Nxb
Thuận Hóa, Huế, tr.315-316; 366-368; 305-308.
SUMMARY
HANOI - LANG SON ROUTE BEFORE THE 20TH CENTURY
Nguyen Thi Hoa*, Dang Thi Lan
TNU – University of Education
Hanoi - Lang Son is the first road of Thien Ly, now Highway 1A. The route was built from the Ly
Dynasty (1010 - 1225), originating from Thang Long, Bac Ninh and Bac Giang to the Vietnam - China
border in Lang Son, ending in Nam Quan (now Huu Nghi international border gate). In 1019, the end of
the route was completed, then the Ly Dynasty expanded the route into the road. By the Tran Dynasty, the
Ho Dynasty, Le Dynasty, the Mac Dynasty, the route continues to be used, renovated. However, basically
the current state of the route is similar to the Ly Dynasty, which is the narrow stretch of land narrow by
rivers and streams, difficult to travel when the rain or flood. By the Nguyen Dynasty (1802 - 1945), the
route was expanded, straightened and bridged across rivers and streams, earthed on wallows. In the late
nineteenth century, in order to serve the colonial rule and exploitation of Vietnam, the French colonialists
repaired and expanded the route. Before the 20th century, the Hanoi-Lang Son route was considered the
national lifeblood for travel, trade, diplomacy with China. The route has an important role in the political,
military, economic, cultural and social aspects of the country, the dynasties and the people. This affirmed
the rightness and sensitivity of the feudal dynasties of Vietnam in paying attention to traffic development,
especially the opening and renovation and upgrading of the Hanoi - Lang Son route.
Keywords: Route; Ha Noi; Lang Son; Nam Quan; the 20th century
Ngày nhận bài: 31/7/2018; Ngày phản biện: 29/8/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018
*Tel: 0973748369, Email: hoakhoasu@dhsptn.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 200_205_1_pb_525_2127058.pdf