Tài liệu Tương quan giữa chất lượng giấc ngủ và kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 163
TƯƠNG QUAN GIỮA CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ KIỂM SOÁT
ĐƯỜNG HUYẾT Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
Vũ Tường Vi*, Phạm Nhật Tuấn*, Nguyễn Đỗ Nguyên*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Kiểm soát đường huyết (KSĐH) đạt mục tiêu giúp bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) kéo dài
thời gian dẫn đến biến chứng và tuổi thọ. Chất lượng giấc ngủ kém là vấn đề thường gặp ở người lớn tuổi, đặc
biệt là bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Chất lượng giấc ngủ và kiểm soát đường huyết được cho là có liên quan trong một
số nghiên cứu nước ngoài.
Mục tiêu: Xác định sự tương quan giữa CLGN và KSĐH.
Phương pháp: Một nghiên cứu cắt ngang – mô tả được thực hiện trên 236 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 đến khám
tại phòng khám Nội tiết, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM. CLGN được xác định bằng điểm số PSQI
(Pittsburgh Sleep Quaily Index) thông qua bộ câu hỏi soạn sẵn; KSĐH được xác định qua ba chỉ số: HbA1c,
đường huyết thời điểm cắt ngang, ...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tương quan giữa chất lượng giấc ngủ và kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 163
TƯƠNG QUAN GIỮA CHẤT LƯỢNG GIẤC NGỦ VÀ KIỂM SOÁT
ĐƯỜNG HUYẾT Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2
Vũ Tường Vi*, Phạm Nhật Tuấn*, Nguyễn Đỗ Nguyên*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Kiểm soát đường huyết (KSĐH) đạt mục tiêu giúp bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) kéo dài
thời gian dẫn đến biến chứng và tuổi thọ. Chất lượng giấc ngủ kém là vấn đề thường gặp ở người lớn tuổi, đặc
biệt là bệnh nhân ĐTĐ týp 2. Chất lượng giấc ngủ và kiểm soát đường huyết được cho là có liên quan trong một
số nghiên cứu nước ngoài.
Mục tiêu: Xác định sự tương quan giữa CLGN và KSĐH.
Phương pháp: Một nghiên cứu cắt ngang – mô tả được thực hiện trên 236 bệnh nhân ĐTĐ týp 2 đến khám
tại phòng khám Nội tiết, Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM. CLGN được xác định bằng điểm số PSQI
(Pittsburgh Sleep Quaily Index) thông qua bộ câu hỏi soạn sẵn; KSĐH được xác định qua ba chỉ số: HbA1c,
đường huyết thời điểm cắt ngang, dao động đường huyết thông qua bệnh án điện tử. Đối tượng nghiên cứu cũng
được phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt về đặc tính dân số xã hội và đặc điểm bệnh ĐTĐ. Hệ số tương quan
Pearson được sử dụng để xác định mối tương quan giữa 2 biến số định lượng: điểm PSQI và HbA1c (hoặc
đường huyết thời điểm cắt ngang, hoặc dao động đường huyết).
Kết quả: Có mối tương quan thuận mức độ yếu giữa HbA1c và điểm PSQI (r=0,264, p<0,01). Các thành
phần giấc ngủ như chất lượng giấc ngủ theo cảm giác chủ quan (r=0,175, p=0,03), giai đoạn đi vào giấc ngủ
(r=0,260, p<0,01), thời lượng ngủ (r=0,185, p=0,02), hiệu quả thói quen ngủ (r=0,210, p<0,01) và rối loạn ban
ngày (r=0,258, p<0,01) cũng có mối tương quan thuận mức độ yếu với chỉ số HbA1c. Không có mối tương quan
giữa đường huyết thời điểm cắt ngang cũng như dao động đượng huyết với CLGN.
Kết luận: Giữa chất lượng giấc ngủ và chỉ số HbA1c có mối tương quan thuận, mức độ yếu. Tuy nhiên
không tìm thấy tương quan có nghĩa thống kê giữa chất lượng giấc ngủ với đường huyết thời điểm thống kê hay
dao động đường huyết.
Từ khóa: đái tháo đường, kiểm soát đường huyết, chất lượng giấc ngủ, HbA1c
ABSTRACT
CORRELATION BETWEEN SLEEP QUALITY AND GLYCEMIC CONTROL IN TYPE 2 DIABETES
PATIENTS
Vu Tuong Vi, Pham Nhat Tuan, Nguyen Do Nguyen
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 163-169
Background: Glycemic control reached the goal to help people with diabetes lengthen the time that leads to
complications and longevity. Poor sleep quality is a common problem in older people, especially type 2 diabetic
patients (T2D). Sleep quality and glycemic control are thought to be relevant in a number of foreign studies.
Objective: To determine the correlation between sleep quality and glycemic control.
Methods: A cross-sectional study was conducted among type 2 diabetes patients attending the
Endocrinology Clinic of the University of Medicine and Pharmacy (UMP) hospital at Ho Chi Minh City. Sleep
quality was assessed using the Pittsburgh Sleep Quality Index (PSQI). Glycemic control was assessed by
* Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Vũ Tường Vi ĐT 0327868106 Email: tuongvivu1994@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 164
hemoglobin A1c (HbA1c), blood glucose level at cross time, oscillation of blood glucose among 1 month.
Participants were directly interviewed using an anonymous questionnaire involve socio-demographic factors,
characteristics of diseases. Pearson’s correlation coefficient was used to determine the correlation between two
quantitative variables: PSQI index and HbA1c (or blood glucose level at cross time, or oscillation of blood glucose
among 1 month)
Results: There was a slight positive correlation between HbA1c and PSQI index (r = 0.264, p <0.01). Sleep
components such as subjective sleep quality (r = 0.175, p = 0.03), Sleep latency (r = 0.260, p <0.01), sleep duration
= 0.185, p = 0.02), sleep efficiency (r = 0.210, p <0.01), and daytime dysfunction (r = 0.258, p <0.01) were also
positively correlated slightly with HbA1c. There was no correlation between blood glucose as well as oscillation of
blood glucose and sleep quality.
Conclusions: The quality of sleep and HbA1c correlated positively with the degree of weakness. However,
there was no statistically significant association between sleep quality and blood glucose level at cross time as well
as oscillation of blood glucose among 1 month.
Key words: diabetes, glycemic control, sleep quality, HbA1c
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc kiểm soát đường huyết tốt là một điều
kiện quan trọng trong quản lý và phòng ngừa
biến chứng của bệnh ĐTĐ(14). Hiệp Hội Đái Tháo
Đường Hoa Kỳ (ADA: American Diabetes
Association) cho thấy với HbA1c<7% có thể giúp
làm giảm biến chứng mạch máu nhỏ, hoặc cả
những biến chứng mạch máu lớn nếu vào giai
đoạn đầu của bệnh. Cụ thể hơn, theo một số
nghiên cứu giảm HbA1c 1% giúp giảm 21%
nguy cơ tử vong liên quan đến ĐTĐ, 37% các
biến chứng mạch máu nhỏ, và 14% nguy cơ nhồi
máu cơ tim(9). ĐTĐ týp 2 chiếm 90% trường hợp
bệnh, thường xảy ra trên người lớn. Đối tượng
người hơn 40 tuổi thường gặp phải nhiều vấn đề
về giấc ngủ như ngủ không ngon, không sâu
giấc, mất ngủ, ngủ ngày. Một số vấn đề về giấc
ngủ như mất ngủ, ngủ không sâu giấc, hoặc
không đủ giấc sẽ tác động tiêu cực đến các hoạt
động đời sống ban ngày, giảm hiệu suất công
việc, tăng tỉ lệ tai nạn, và tỉ lệ sử dụng các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe, hay trầm trọng hơn có thể
dẫn đến các rối loạn về tâm thần, sa sút trí tuệ,
tim mạch(11). Ngoài ra, chất lượng giấc ngủ
(CLGN) kém còn ảnh hưởng đến một số vấn đề
về tim mạch, tăng huyết áp, ung thư đại tràng,
đáng lưu ý trong đó có ĐTĐ. Nghiên cứu này
khảo sát các bệnh nhân đến khám tại phòng
khám chuyên khoa nội tiết tại BV ĐHYD
TPHCM để tìm hiểu mối liên quan giữa CLGN
và kiểm soát đường huyết, thông qua 3 chỉ số
HbA1c, đường huyết thời điểm cắt ngang và dao
động đường huyết.
PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện
trên những bệnh nhân đến khám tại phòng
khám Nội tiết, BV ĐHYD TPHCM, có thời gian
phát hiện bệnh ít nhất 2 tháng, bệnh nhân không
có cả 2 xét nghiệm HbA1c và đường huyết thời
điểm cắt ngang sẽ bị loại khỏi nghiên cứu.
Phương pháp lấy mẫu có chủ đích được sử dụng
trên tổng cộng 236 bệnh nhân. Vào thời điểm cắt
ngang, đối tượng được phỏng vấn bằng bộ câu
hỏi soạn sẵn ghi nhận đặc điểm dân số - xã hội,
đặc điểm bệnh, điểm PSQI. Tra cứu hồ sơ điện
tử tại phòng khám ghi nhận HbA1c, đường
huyết thời điểm cắt ngang và đường huyết 1
tháng trước.
Các biến số về đặc tính dân số xã hội bao
gồm: giới, nhóm tuổi, dân tộc, nghề nghiệp,
trình độ học vấn, BMI. Các biến số về đặc điểm
bệnh: thời gian mắc bệnh, biến chứng, loại biến
chứng, bệnh mạn tính kèm theo, điều trị bệnh
mạn tính, thuốc điều trị, số lần tiêm
insulin/ngày. Biến số độc lập điểm PSQI (thang
đo CLGN) là biến định lượng, dao động từ 0 – 21
điểm; bao gồm 7 thành phần: chất lượng giấc
ngủ theo cảm giác chủ quan, giai đoạn đi vào
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 165
giấc ngủ, thời lượng giấc ngủ, hiệu quả thói
quen ngủ, các rối loạn giấc ngủ, dung thuốc ngủ,
rối loạn ban ngày. Phiên bản PSQI bằng Tiếng
Việt được chuyển dịch có tính tin cậy nội bộ với
hệ thống Cronbach’s alpha là 0,789, và tính tin
cậy lặp lại khá tốt, độ nhạy và độ đặc hiệu tại
điểm cắt 5 lần lượt là 87,8% và 75% khi đánh giá
trên đối tượng là người Việt Nam. Biến số phụ
thuộc gồm HbA1c, đường huyết thời điểm cắt
ngang và dao động đường huyết đều là biến
định lượng. Trong đó biến số dao động đường
huyết được xác định bằng trị tuyệt đối hiệu số
của đường huyết thời điểm cắt ngang và 1 tháng
trước (chấp nhận dao động 1 tuần), cả 2 xét
nghiệm đều được thực hiện tại BV ĐHYD
TPHCM, xác định dựa vào kết quả trong hồ sơ
bệnh án điện tử ở bệnh viện. Ngoại trừ HbA1c,
các xét nghiệm còn lại đều là xét nghiệm đường
huyết đói.
Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả tần
số, tỷ lệ các biến định tính và trung bình, độ lệch
chuẩn với các biến định lượng, nếu các biến số
định lượng có phân phối không bình thường thì
sử dụng trung vị (khoảng tứ phân vị). Hệ số
tương quan Pearson được sử dụng để xác định
mối tương quan giữa 2 biến số định lượng: điểm
PSQI và HbA1c (hoặc đường huyết thời điểm cắt
ngang, hoặc dao động đường huyết). Mức độ
tương quan được xác định dựa vào giá trị của hệ
số tương quan r, dao động từ -1 đến 1. Giá trị r<0
thể hiện 2 đại lượng tương quan nghịch, r>0 thể
hiện tương quan thuận. Giá trị càng gần 1 và -1
thì mức độ tương quan càng cao.
Trong mối liên quan đơn biến với biến số
phụ thuộc (HbA1c, đường huyết thời điểm cắt
ngang, dao động đường huyết), những biến số
độc lập được đưa vào mô hình đa biến là những
biến số có p<0,2. Để báo cáo các mối liên quan có
ý nghĩa thống kê sử dụng p < 0,05 và khoảng tin
cậy 95% của hệ số tương quan r.
KẾT QUẢ
Trong 236 bệnh nhân đồng ý tham gia khảo
sát có 180 bệnh nhân có 1 trong 3 chỉ số HbA1c,
đường huyết đói tại thời điểm phỏng vấn,
đường huyết đói 1 tháng trước được thực hiện
tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí
Minh. Trong đó có 166 bệnh nhân có HbA1c, 173
bệnh nhân có đường huyết tại thời điểm cắt
ngang (ĐH2) và 59 bệnh nhân có đường huyết
đói 2 thời điểm (cắt ngang và 1 tháng trước). Kết
quả của nghiên cứu được phân tích trên tổng
mẫu là 180 bệnh nhân ĐTĐ týp 2.
Bảng 1. Đặc điểm dân số - xã hội của mẫu nghiên cứu, tần số (%)
Đặc điểm HbA1c (n=166) ĐH thời điểm cắt ngang
(n=173)
Dao động ĐH
(ĐH2 –ĐH1) (n=59)
Mẫu chung (n=180)
Giới nữ 112 (67) 114(66) 32(54) 118(66)
Dân tộc Kinh 158(95) 165(95) 55(93) 172(96)
Tuổi
18-<50 tuổi 26(16) 30(17) 11(19) 30(16)
50-<60 tuổi 48(29) 46(27) 14(24) 50(28)
60-<70 tuổi 57(34) 58(33) 16(27) 61(34)
≥70 tuổi 35(21) 39(23) 18(30) 39(22)
Nghề nghiệp
Lao động chân tay 38(23) 41(24) 13(22) 42(24)
Lao động trí óc 30(19) 29(17) 11(19) 31(17)
Già, hưu trí 79(48) 84(48) 31(52) 87(49)
Thất nghiệp 19(11) 19(11) 4(7) 20(11)
Trình độ học vấn
Dưới THCS 49(30) 52(30) 16(27) 53(29)
Từ THCS trở lên 117(70) 121(70) 43(73) 127(71)
BMI (kg/m
2
)
Thiếu cân-Bình thường 77(47) 77(45) 16(27) 78(43)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 166
Thừa cân- Béo phì 89(53) 96(55) 43(73) 102(57)
Thu nhập (VNĐ)
Dưới 5 triệu 99(60) 101(58) 37(63) 103(59)
ĐH: đường huyết
Bảng 2. Đặc điểm bệnh ĐTĐ, tần số (%), trừ khi có chú thích khác
Đặc điểm HbA1c (n=166) ĐH thời điểm cắt
ngang (n=173)
Dao động ĐH
(n=59)
Mẫu chung (n=180)
Thời gian phát hiện bệnh 6 (3 – 12)
a
6 (3 – 12)
a
5 (2 – 14)
a
6 (3 – 12)
a
Có biến chứng 85(51) 90(52) 30(51) 92(51)
Loại biến chứng
Mạch vành 47(55) 50(56) 19(63) 52(57)
Mạch máu não 6(7) 6(7) 3(10) 6(7)
Mạch máu ngoại biên 4(5) 5(6) 2(7) 5(5)
Thần kinh ngoai biên 46(54) 49(54) 11(37) 49(53)
Thận 29(34) 32(36) 13(43) 32(35)
Võng mạc 11(13) 12(13) 7(23) 12(13)
Có bệnh mạn tính khác 137 (83) 141 (82) 50 (85) 148 (82)
Điều trị bệnh kèm 137 (100) 141 (100) 50 (100) 148 (100)
Thuốc
Không dùng thuốc 2 (1) 3 (2) 1 (2) 3 (1)
Chỉ thuốc viên 112 (68) 119 (69) 40 (68) 124 (69)
Thuốc viên và Insulin 52 (31) 51 (29) 18 (30) 54 (30)
Số lần tiêm Insulin/ngày 2 (1 – 2)
a
2 (1 – 2)
a
2 (1 – 2)
a
2 (1 – 2)
a
a: Trung vị (khoảng tứ phân vị) ĐH: đường huyết
Bảng 3. Mối tương quan giữa điểm chất lượng giấc
ngủ với HbA1c (n=166)
Các thành phần Hệ số tương
quan r
P
PSQI 0,264 <0,01
TP1: Chất lượng giấc ngủ theo
cảm giác chủ quan
0,175 0,03
TP2: Giai đoạn đi vào giấc ngủ 0,260 <0,01
TP3: Thời lượng ngủ (điểm) 0,185 0,02
TP4: Hiệu quả thói quen ngủ 0,210 <0,01
TP5: Rối loạn giấc ngủ -0,027 0,73
TP6: Dùng thuốc ngủ 0,037 0,64
TP7: Rối loạn ban ngày 0,258 <0,01
TP: thành phần
p: giá trị p của kiểm định ý nghĩa hệ số tương quan
Bảng 4. Mô hình hồi quy đa biến điểm PSQI và
HbA1c theo các biến số gây nhiễu (n=166)
Yếu tố Hệ số
hồi quy
KTC 95% P
PSQI 0,10 0,04-0,17 <0,01
Giới Nữ 0,48 -0,08-1,04 0,1
Nghề nghiệp
Lao động trí óc -0,13 -0,90-0,65 0,75
Già, hưu trí -0,83 -(1,43)-(-0,23) 0,01
Thất nghiệp -0,87 (-1,72)-(-0,03) 0,04
Yếu tố Hệ số
hồi quy
KTC 95% P
Trình độ học vấn 0,03 (-0,53)-0,59 0,92
Thời gian phát hiện bệnh -0,02 (-0,06)-(0,03) 0,50
Biến chứng 0,48 0,08-1,04 0,10
Thuốc
Chỉ thuốc viên 1,04 -0,77-2,85 0,26
Thuốc viên và Insulin 2,03 0,14-3,93 0,04
Hằng số 6,01
R
2
0,234
p: giá trị p từ thống kê t
Các biến số gây nhiễu được đưa vào mô
hình là những biến số trong phân tích đơn
biến có p<0,2 gồm: giới, nghề nghiệp, trình độ
học vấn, thời gian phát hiện bệnh, biến chứng
và thuốc. Mô hình này giải thích được 23,4%
kết quả chỉ số HbA1c.
Bảng 5. Tương quan giữa điểm PSQI và đường
huyết thời điểm cắt ngang, dao động đường huyết
Các thành phần Hệ số tương
quan r
P
Đường huyết thời điểm cắt ngang 0,13 0,10
Dao động đường huyết 0,10 0,44
p: giá trị p của kiểm định ý nghĩa hệ số tương quan
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 167
BÀN LUẬN
Chỉ số HbA1c và điểm số CLGN PSQI có
tương quan thuận có ý nghĩa thống kê
(r=0,264), tuy mối tương quan này chưa thật sự
chặt chẽ (bảng 3). Các thành phần trong thang
điểm PSQI (thành phần 1 chất lượng giấc ngủ
theo cảm giác chủ quan, thành phần 2 giai
đoạn đi vào giấc ngủ, thành phần 3 thời lượng
ngủ, thành phần 4 hiệu quả thói quen ngủ và
thành phần 7 rối loạn ban ngày), hầu hết cũng
tương quan có ý nghĩa thống kê với HbA1c,
ngoại trừ thành phần 5 (rối loạn giấc ngủ) và
thành phần 6 (dùng thuốc ngủ) (bảng 3). Kết
quả này phù hợp với nghiên cứu tổng quan hệ
thống của Lee và cộng sự năm 2017 khi chỉ ra
rằng CLGN kém có liên quan với mức HbA1c
cao hơn. Một nghiên cứu khác của Bing-Qian
Zhu năm 2014 chỉ ra bệnh nhân ĐTĐ có rối
loạn giấc ngủ có tác động tiêu cực lên việc
kiểm soát đường huyết(15). Đồng thời, Zhu và
cộng sự cũng chỉ ra việc khó vào giấc ngủ, rối
loạn giấc ngủ, và rối loạn ban ngày là các yếu
tố nguy cơ của kiểm soát đường huyết kém.
Năm 2015, nghiên cứu của Ahmet Keskin chỉ
ra rằng HbA1c có liên quan đến rối loạn giấc
ngủ, trong đó tương quan của HbA1c và điểm
PSQI có ý nghĩa thống kê với r=0,14(5). Tuy
nhiên, có nghiên cứu khác lại cho thấy mối
tương quan này thực sự không đáng kể hoặc
dường như không có, như Onala Telford năm
2018, chỉ có thành phần rối loạn giấc ngủ
tương quan với HbA1c(13). Giải thích cho sự
tương quan này, về mặt cơ chế thì chưa được
hiểu rõ. Tuy nhiên, việc giảm ngủ có liên quan
đến đề kháng insulin, tăng sự thèm ăn và
dung nạp glucose kém ở những người khỏe
mạnh. Giấc ngủ hạn chế được cho là ảnh
hưởng đến sự cân bằng năng lượng thông qua
việc điều chỉnh sự thèm ăn, tăng thời gian ăn
uống cũng như giảm tiêu hao năng lượng.
Thêm vào đó, thức dậy về đêm và sự kích
thích được liên kết với mức độ thay đổi leptin
và kháng leptin dẫn đến rối loạn chức năng
của trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận,
dẫn đến rối loạn đường máu(8,1,6).
Bằng chứng từ một số nghiên cứu đã chỉ ra
rằng thiếu ngủ thường xuyên một phần cũng
như giấc ngủ ngắn kéo dài có liên quan với mức
độ giảm của leptin và tăng ghrelin. Trong nghiên
cứu đoàn hệ về giấc ngủ ở Wisconsin, giảm
nồng độ leptin và tăng ghrelin đã được ghi nhận
ở các đối tượng bị thiếu ngủ. Cả hai nội tiết tố
này đóng vai trò điều tiết trong việc kiểm soát sự
thèm ăn(12). Sự thèm ăn tăng có thể dẫn đến sự
gia tăng chỉ số BMI và từ đó tăng việc đề kháng
insulin. Ngoài tác động trực tiếp lên chuyển hóa
glucose, rối loạn giấc ngủ cũng có thể ảnh hưởng
gián tiếp đến kiểm soát đường huyết thông qua
tự chăm sóc không tối ưu bệnh ĐTĐ(2). Trong
một nghiên cứu trên 107 bệnh nhân ĐTĐ týp 2,
Chasens và các cộng sự đã chứng minh rằng
CLGN kém liên quan với các hoạt động tự chăm
sóc như tuân thủ thuốc, tập thể dục cũng như
chế độ ăn uống, từ đó có thể dẫn đến kiểm soát
đường huyết kém hơn (2). Dữ liệu từ nghiên cứu
khác của Norma tại Hoa Kỳ cũng cho thấy rối
loạn giấc ngủ có thể ảnh hưởng đến các khía
cạnh khác của hoạt động hàng ngày và cảm giác
hạnh phúc, bao gồm tâm trạng, mệt mỏi cũng
như buồn ngủ ban ngày(3). Chính nghiên cứu
này cũng kết luận rằng có mối tương quan thuận
mức độ mạnh giữa điểm PSQI và mệt mỏi
(r=0,54, p=0,002), trầm cảm (r=0,74, p<0,001)(3).
Trong nghiên cứu của Sundaram và cộng sự, các
tác giả báo cáo rằng bệnh nhân ĐTĐ týp 2 căng
thẳng tâm lý có nồng độ HbA1c cao hơn(10). Như
vậy, rõ ràng có cả CLGN và HbA1c đều có liên
quan với những cảm xúc tâm lý tiêu cực. Ngoài
ra, ĐTĐ là một chứng rối loạn mạn tính với tần
suất ngày càng tăng của các biến chứng cấp tính
và mạn tính, bệnh suất và tỷ lệ tử vong gia tăng.
Nó cũng liên quan đến sự gia tăng rối loạn tâm
lý và rối loạn giấc ngủ, cả hai đều làm phức tạp
sự kiểm soát chuyển hóa của bệnh ĐTĐ. Buồn
ngủ ban ngày gây ra sự suy giảm chung trong
vận động, có thể có tác động tiêu cực đến trạng
thái tâm lý bệnh nhân ĐTĐ(4). Kết hợp với nhau,
loạt các sự kiện tiêu cực có thể đóng góp cho một
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 168
phần cho kết quả đã được trình bày.
Đặc điểm về nghề nghiệp như già, hưu trí và
thất nghiệp được xem là tác động có ý nghĩa đến
kết quả của mô hình. So với nhóm lao động chân
tay, nhóm già, hưu trí và thất nghiệp có HbA1c
thấp hơn (bảng 4). Người lao động chân tay là
nhóm có vận động thể lực nhiều, và vận động
thể lực có tác dụng giúp kiểm soát tốt đường
huyết (7). Tuy nhiên, nhóm này lại có đường
huyết được kiểm soát không tốt. Mối liên quan
nghịch này có thể được lý giải với nhiều nguyên
nhân khác. Thí dụ, có thể những bệnh nhân
thuộc nhóm lao động chân tay không có thời
gian cũng như sự quan tâm đúng mức đến việc
kiểm soát đường huyết của mình thông qua
những hành vi như tuân thủ uống thuốc, ăn
kiêng, hoặc tái khám đúng hẹn, và đây là những
biến số đã không được kiểm soát trong nghiên
cứu này.
Những bệnh nhân sử dụng thuốc viên và
insulin có HbA1c cao hơn so với nhóm không
dùng thuốc (bảng 4). Nhóm không dùng trong
nghiên cứu này là nhóm những bệnh nhân đã có
dùng thuốc trước đó, nhưng ở thời điểm nghiên
cứu không còn dùng thuốc vì đường huyết đã
được kiểm soát đạt mục tiêu điều trị nên bác sĩ
cho ngừng thuốc. Chỉ định thêm insulin cho
bệnh nhân ĐTĐ týp 2 khi việc điều trị bằng
thuốc viên không đạt mục tiêu kiểm soát đường
huyết. Từ đó, có thể nhìn thấy sự khác biệt về
tình trạng kiểm soát đường huyết ở 2 nhóm đối
tượng không dùng thuốc với dùng thuốc viên và
insulin. Mô hình này giải thích được 23,4% kết
quả chỉ số HbA1c. Tuy khả năng giải thích kết
quả HbA1c không thực sự cao, nhưng với quy
mô là một nghiên cứu nhỏ và theo hiểu biết của
người nghiên cứu thì đây là nghiên cứu đầu tiên
được thực hiện tại Việt Nam, kết quả mô hình
giải thích được 23,4% chỉ số HbA1c thực sự khả
quan. Kết quả tìm thấy là tiền đề cho những
nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn trong tương lai,
khảo sát chính xác hơn mối tương quan giữa
điểm PSQI và HbA1c, từ đó góp phần giúp bệnh
nhân kiểm soát đường huyết, và nâng cao chất
lượng cuộc sống của bản thân.
Sau khi kiểm soát các biến số gây nhiễu qua
mô hình hồi quy đa biến, mối tương quan giữa
CLGN và HbA1c vẫn tồn tại. Điều này một lần
nữa khẳng định mối liên quan giữa CLGN và
kiểm soát đường huyết. Tuy nhiên, một số yếu
tố quan trọng không được kiểm soát trong mô
hình này như tuân thủ điều trị, chế độ ăn, tập
luyện thể dục.
Những điểm hạn chế của nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu được thu thập theo phương
pháp lấy mẫu có chủ đích trên những bệnh nhân
ĐTĐ týp 2 đến khám tại BV ĐHYD TPHCM nên
tính đại diện của mẫu không cao, đồng thời việc
loại một số bệnh nhân không có kết quả xét
nghiệm cũng ảnh hưởng đến tính chính xác.
Nếu có thể thực hiện xét nghiệm trên tất cả bệnh
nhân. Thiết kế nghiên cứu theo phương pháp cắt
ngang – mô tả, do đó không thể nói lên được các
quan hệ nhân quả giữa CLGN và kiểm soát
đường huyết, mà chỉ gợi ý có mối liên quan giữa
2 biến số.
KẾT LUẬN
Có mối tương quan thuận, mức độ yếu giữa
CLGN và HbA1c. Các thành phần chất lượng
giấc ngủ theo cảm giác chủ quan (r=0,175,
p=0,03), giai đoạn đi vào giấc ngủ (r=0,260,
p<0,01), thời lượng ngủ (r=0,185, p=0,02), hiệu
quả thói quen ngủ (r=0,210, p<0,01) và rối loạn
ban ngày (r=0,258, p<0,01) cũng có mối tương
quan thuận mức độ yếu với chỉ số HbA1c.
Không có mối tương quan giữa đường huyết
thời điểm cắt ngang cũng như dao động đượng
huyết với CLGN. Nên chú ý giáo dục sức khỏe
về giấc ngủ cho bệnh nhân ĐTĐ týp 2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barone MTU, Menna-Barreto L (2011). "Diabetes and sleep: a
complex cause-and-effect relationship". Diabetes research and
clinical practice, 91 (2):129-137.
2. Chasens E, Korytkowski My, Sereika SM, Burke LE (2013).
"Effect of poor sleep quality and excessive daytime
sleepiness on factors associated with diabetes self-
management". The Diabetes Educator, 39 (1):74-82.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 169
3. da Cunha MCB, Zanetti ML et al (2008). "Sleep quality in
type 2 diabetics". Revista latino-americana de enfermagem, 16
(5):850-855.
4. Gozashti MH, Eslami N, Radfar MH, Pakmanesh H (2016).
"Sleep pattern, duration and quality in relation with
glycemic control in people with type 2 diabetes mellitus".
Iranian journal of medical sciences, 41 (6):531.
5. Keskin At, Ünalacak M, Bilge U et al (2015). "Effects of sleep
disorders on hemoglobin A1c levels in type 2 diabetic
patients". Chinese medical journal, 128 (24):3292.
6. Lee SW, Ng Khuen Yen, Chin WK (2017). "The impact of
sleep amount and sleep quality on glycemic control in type 2
diabetes: a systematic review and meta-analysis". Sleep
medicine reviews, 31:91-101.
7. Peter AO (2013). "The impact of brief high-intensity exercise
on blood glucose levels". Diabetes, metabolic syndrome and
obesity: targets and therapy, 6:113.
8. Spiegel K, Leproult R, Van Cauter E (1999). "Impact of sleep
debt on metabolic and endocrine function". The lancet,
354(9188):1435-1439.
9. Stratton IM, Adler AI, et al (2000). "Association of glycaemia
with macrovascular and microvascular complications of
type 2 diabetes (UKPDS 35): prospective observational
study". Bmj, 321 (7258):405-412.
10. Sundaram M, Kavookjian J, Patrick J et al (2007). "Quality of
life, health status and clinical outcomes in Type 2 diabetes
patients". Quality of Life Research, 16 (2):165-177.
11. Szentkirályi A, Madarász CZ, Novák M (2009).. "Sleep
disorders: impact on daytime functioning and quality of
life". Expert review of pharmacoeconomics & outcomes research, 9
(1):49-64.
12. Taheri S, Lin L, Austin D et al (2004). "Short sleep duration is
associated with reduced leptin, elevated ghrelin, and
increased body mass index". PLoS medicine, 1 (3):e62.
13. Telford O, Diamantidis CJ, Bosworth HB, Patel UD, et al.
(2018). "The relationship between Pittsburgh Sleep Quality
Index subscales and diabetes control". Chronic Illness, p. 1-10.
14. The UKPDS Group (1998). "Intensive blood-glucose control
with sulphonylureas or insulin compared with conventional
treatment and risk of complications in patients with type 2
diabetes (UKPDS 33). UK Prospective Diabetes Study
(UKPDS) Group". Lancet, 352 (9131):837-53.
15. Zhu B, Xiao-Mei L, Wang D, Yu X (2014). "Sleep quality and
its impact on glycaemic control in patients with type 2
diabetes mellitus". International Journal of Nursing Sciences,
1(3):260-265.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tuong_quan_giua_chat_luong_giac_ngu_va_kiem_soat_duong_huyet.pdf