Tài liệu Tuân thủ điều trị ở bệnh nhân lao trong giai đoạn tấn công: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 1
TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ Ở BỆNH NHÂN LAO
TRONG GIAI ĐOẠN TẤN CÔNG
Nguyễn Thạnh Trị*, Lê Hồng Phước**, Tô Gia Kiên**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh lao là một trong những bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng đầu. Tuân thủ điều trị
lao đóng vai trò rất quan trọng trong điều trị bệnh và giảm tỉ lệ lao kháng thuốc.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị giai đoạn tấn công và các yếu tố liên
quan đến tuân thủ điều trị của bệnh nhân lao.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ 11/2016 đến 01/2017 trên bệnh
nhân lao đang được quản lý tại 3 phòng khám đa khoa và 5 trạm y tế tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Bệnh nhân trên 18 tuổi và đã hoàn thành 2 tháng điều trị tấn công được phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ
câu hỏi soạn sẵn. Thông tin thu thập gồm sự tuân thủ điều trị, đặc điểm dân số xã hội, các bệnh lý kèm theo,
sự hài lòng về nhân viên y tế...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tuân thủ điều trị ở bệnh nhân lao trong giai đoạn tấn công, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 1
TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ Ở BỆNH NHÂN LAO
TRONG GIAI ĐOẠN TẤN CÔNG
Nguyễn Thạnh Trị*, Lê Hồng Phước**, Tô Gia Kiên**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh lao là một trong những bệnh truyền nhiễm gây tử vong hàng đầu. Tuân thủ điều trị
lao đóng vai trò rất quan trọng trong điều trị bệnh và giảm tỉ lệ lao kháng thuốc.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị giai đoạn tấn công và các yếu tố liên
quan đến tuân thủ điều trị của bệnh nhân lao.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ 11/2016 đến 01/2017 trên bệnh
nhân lao đang được quản lý tại 3 phòng khám đa khoa và 5 trạm y tế tại thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Bệnh nhân trên 18 tuổi và đã hoàn thành 2 tháng điều trị tấn công được phỏng vấn mặt đối mặt bằng bộ
câu hỏi soạn sẵn. Thông tin thu thập gồm sự tuân thủ điều trị, đặc điểm dân số xã hội, các bệnh lý kèm theo,
sự hài lòng về nhân viên y tế, dịch vụ y tế; sự hỗ trợ từ phía nhân viên y tế và từ phía gia đình.
Kết quả: Tổng cộng có 79 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. Tỷ lệ nam chiếm 69,6%. Tuổi trung
bình là 40,4±16,0 tuổi. Tỉ lệ bệnh nhân được điều trị phác đồ 1 là 96,2%. Tỉ lệ bệnh nhân lao phổi chiếm
88,6%; trong đó 67,1% BK(+). Có 17,7% bệnh nhân có các bệnh khác đi kèm và 51,9% gặp tác dụng phụ
trong quá trình điều trị. Tỉ lệ bệnh nhân lao tuân thủ điều trị là 79,8%. Các yếu tố có liên quan đến tuân
thủ điều trị lao là tôn giáo (p=0,007), học vấn (p=0,035) và bệnh đi kèm (p=0,031).
Kết luận: Cần thực hiện các nghiên cứu tiếp theo để xác định các rào cản và giải pháp can thiệp giúp
nâng cao tỉ lệ tuân thủ điều trị.
Từ khoá: Cắt ngang mô tả, tuân thủ điều trị, bệnh lao, giai đoạn tấn công, Bình Dương.
ABSTRACT
TREATMENT ADHERENCE IN TUBERCULOSIS PATIENTS IN ATTACK PHASE
Nguyen Thanh Tri, Le Hong Phuoc, To Gia Kien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 01 - 08
Background: Tuberculosis (TB) is one of leading causes of death in communicable diseases. Adherence
to tuberculosis treatment plays an important role in treating and reducing the prevalence of drug-resistant
tuberculosis.
Objective: To identify the percentage of patients adhering to TB treatment in attack phase (first 2
months) and factors associated with treatment adherence.
Methods: A cross-sectional study was conducted from 11/2016 to 01/2017 on TB patients at three
general clinics and five health communes in Ben Cat, Binh Duong province. Patients aged 18+ years and
completed the attack phase of TB treatment were face-to-face interviewed using a structured questionnaire.
Data collected including adherence status, personal characteristics and co-morbidities; and satisfaction with
healthcare workers and health service; supports from family and healthcare workers.
Results: A sample of 79 TB patients was recruited (the percentage of men was 69.6%). The mean age
was 40.4 ± 16.0 years. The percentage of patients treated by regimen one was 96.2%. The percentage of
* Trung tâm y tế thị xã Bến Cát – tỉnh Bình Dương, ** Khoa YTCC, ĐH Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: BSCKI. Nguyễn Thạnh Trị ĐT: 0908728036 Email: bacsitri62@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 2
pulmonary TB was 88.6%, of which, 67.1% were BK (+). The prevalence of patients having co-morbidities
and experiencing side effects were 17.7% and 51.9%, respectively. The percentage of adherence was 79.8%.
Religion (p=0.007), educational level (p=0.035) and co-morbidities (p=0.031) were associated with
adherence.
Conclusions: Further studies should be conducted to identify barriers and solutions for improving the
percentage of patients’ adherence.
Keywords: cross-sectional study, adherence, tuberculosis, attack phase, Binh Duong.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lao là một trong 10 nguyên nhân gây
tử vong hàng đầu trên toàn thế giới, cao hơn
HIV(17). Theo ước tính của Tổ chức sức khỏe
thế giới (WHO), trong năm 2015 có khoảng
10,4 triệu ca lao mắc mới và 1,4 triệu người tử
vong do bệnh lao(17). Bên cạnh đó, tỉ lệ lao
kháng thuốc có chiều hướng diễn biến phức
tạp. Năm 2015 thế giới có khoảng 480.000 ca
lao đa kháng thuốc mới và tăng thêm 100.000
ca kháng Rifampicin(17). Việt Nam là một nước
chịu gánh nặng rất lớn từ bệnh lao, xếp thứ 12
trong 22 nước có gánh nặng bệnh lao lớn nhất
và xếp thứ 14 trong 27 nước có tỉ lệ lao đa
kháng thuốc và siêu kháng thuốc cao nhất(17).
Tỉ lệ lao kháng một loại thuốc tại Việt Nam
năm 2011 là 32,7% ở người mắc bệnh lần đầu
và 54,2% ở những người bệnh tái phát. Tỉ lệ
lao đa kháng thuốc ở 2 nhóm này lần lượt là
4,0% và 23,3%(Error! Reference source not found.). Tỉ lệ lao
“siêu kháng thuốc” trong các bệnh nhân lao
đa kháng thuốc là 6,0%(11). Bên cạnh đó, chi phí
bỏ ra cho bệnh lao năm 2016 là 21 triệu USD(17).
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong
chương trình phòng chống lao, tuy nhiên theo
WHO, Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm 20
nước có gánh nặng bệnh lao và tỉ lệ lao đa
kháng thuốc lớn nhất thế giới trong giai đoạn
2016-2020(17). Tuân thủ điều trị lao đóng vai trò
rất quan trọng trong việc hạn chế tình trạng
kháng thuốc và cải thiện kết cục điều trị. Các
nghiên cứu đã cho thấy không tuân thủ điều
trị làm tăng nguy cơ kháng thuốc, kéo dài thời
gian bệnh, gia tăng khả năng tái phát và tử
vong(7, 11). Tuy nhiên, hiện nay, việc điều trị lao
đòi hỏi các bệnh nhân phải được điều trị phối
hợp các loại thuốc kháng lao trong 2-3 tháng ở
giai đoạn tấn công và 4-6 tháng trong giai
đoạn duy trì(3). Điều trị phối hợp thuốc trong
thời gian dài là yếu tố nguy cơ làm gia tăng
tần suất xuất hiện cũng như gánh nặng của các
phản ứng có hại do thuốc và có thể khiến bệnh
nhân bỏ trị, kéo dài liệu trình điều trị(3). Do đó,
đánh giá sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân,
qua đó có những biện pháp hỗ trợ cho bệnh
nhân trong quá trình điều trị đóng vai trò rất
quan trọng.
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định
tỉ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị trong giai
đoạn 2 tháng tấn công, giai đoạn có tỉ lệ tuân
thủ điều trị thấp(2, 15) tại thị xã Bến Cát, tỉnh
Bình Dương. Đây là nơi có gánh nặng bệnh lao
lớn của tỉnh, với số bệnh nhân lao chiếm trên
13% tổng số bệnh nhân lao của tỉnh (cao thứ 4
trong tổng số 9 huyện/thị xã) và đang có xu
hướng gia tăng(14).
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực
hiện tại 3 phòng khám và 5 trạm y tế thuộc thị
xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Tất cả bệnh
nhân lao trên 18 tuổi đã tham gia điều trị
trong giai đoạn tấn công (2 tháng đầu) theo
hướng dẫn điều trị của Bộ Y tế năm 2015(3),
đang được quản lý tại các phòng khám và
trạm y tế thuộc thị xã từ tháng 11/2016 đến
tháng 1/2017 được mời tham gia nghiên cứu.
Phương pháp thu thập số liệu
Sau khi đã được giải thích mục tiêu nghiên
cứu, bệnh nhân thỏa tiêu chí đưa vào được
yêu cầu ký xác nhận vào phiếu đồng ý tham
gia nghiên cứu. Thông tin được thu thập qua
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 3
phỏng vấn mặt đối mặt dựa trên một bộ câu
hỏi soạn sẵn. Các phỏng vấn viên là các
chuyên trách quản lý lao của 8 trạm y tế và
một nghiên cứu viên của phòng khám đa khoa
huyện Mỹ Phước đã được tập huấn về mục
tiêu và phương pháp nghiên cứu. Thông tin
thu thập gồm thông tin về đặc điểm bệnh
nhân; tình trạng bệnh hiện tại (loại bệnh lao,
phác đồ đang điều trị, tiền căn lao, bệnh đi
kèm, tác dụng phụ); sự tuân thủ điều trị; hài
lòng về nhân viên y tế (NVYT) và dịch vụ y tế
trong quá trình điều trị, sự hỗ trợ từ phía
NVYT và từ phía gia đình. Tuân thủ điều trị
được định nghĩa là sự tuân thủ tất cả 7 nội
dung: (1) uống đúng các loại thuốc được cấp
phát, (2) không mua thêm hoặc bỏ bớt các
thuốc, (3) không uống nhầm thuốc lao với các
thuốc khác, (4) uống thuốc xa bữa ăn khi bụng
đói, (5) không quên uống thuốc, (6) không tự ý
dừng uống thuốc và (7) nhận thuốc đều đặn.
Sự hỗ trợ từ phía NVYT được định nghĩa là có
khi trước khi điều trị người bệnh được NVYT
tư vấn về bệnh lao và vấn đề điều trị bệnh lao;
NVYT có thực hiện vãng gia theo dõi điều trị
và trong quá trình vãng gia có kiểm tra số
lượng thuốc; đưa ra lời khuyên điều trị; giáo
dục sức khoẻ về bệnh lao cho bệnh nhân;
ngoài ra, trong quá trình theo dõi điều trị có
khuyên người bệnh uống thuốc đều đặn,
đúng, đủ liều; không được bỏ dở điều trị và
giải thích về tình trạng bệnh hiện tại cho
người bệnh. Sự hỗ trợ từ phía gia đình được
định nghĩa là khi người bệnh được gia đình
quan tâm đến tình trạng bệnh; quan tâm đến
việc uống thuốc điều trị; gặp NVYT để hỏi
thăm tình trạng bệnh; cùng đi tái khám, nhận
thuốc; động viện điều trị bệnh; chia sẻ sự lo
lắng; tìm hiểu về thuốc điều trị lao; nhắc nhở
uống thuốc và nhắc nhở đi nhận thuốc. Ngoài
phỏng vấn, các phỏng vấn viên hồi cứu hồ sơ
quản lý bệnh nhân để thu thập các thông tin
về thời gian điều trị bệnh, thời gian điều trị tại
cơ sở hiện tại và kết quả xét nghiệm BK của
bệnh nhân.
Phân tích thống kê
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata
3.1 và xử lý bằng Stata 13.0. Các đặc điểm về
giới tính, nhóm tuổi, tình trạng hôn nhân, dân
tộc, học vấn, nghề nghiệp, tôn giáo, tiền sử
bệnh lao, các bệnh kèm theo, loại bệnh lao,
loại lao phổi, gặp tác dụng phụ, sự tuân thủ
điều trị, sự hài lòng của bệnh nhân về NVYT,
dịch vụ y tế, sự hỗ trợ của NVYT và sự hỗ trợ
của gia đình được mô tả bằng tần số, tỉ lệ. Tuổi
trung bình và thời gian điều trị tại trạm được
mô tả bằng trung bình ± độ lệch chuẩn; thu
nhập, khoảng cách từ nhà tới cơ sở y tế, thời
gian điều trị bệnh được mô tả bằng trung vị và
khoảng tứ phân vị.
Mối liên quan giữa nhóm tuổi, tôn giáo,
loại lao phổi, sự hỗ trợ từ gia đình với tuân
thủ điều trị được kiểm định bằng phép kiểm
chi bình phương (χ2). Phép kiểm chính xác
Fisher được sử dụng để xác định mối liên
quan giữa giới tính, hôn nhân, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, tiền sử bệnh lao, bệnh kèm
theo, phác đồ đang điều trị, việc gặp tác dụng
phụ, sự hài lòng về thời gian nhận thuốc, thái
độ của NVYT, công tác điều trị và sự hỗ trợ
của NVYT trong quá trình điều trị với tuân
thủ điều trị.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu tiếp cận được 82 bệnh nhân,
trong đó 3 bệnh nhân không thỏa tiêu chí chọn
mẫu, 79 bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên
cứu và hoàn thành bộ câu hỏi khảo sát. Đặc
điểm của các đối tượng nghiên cứu được trình
bày trong Bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu (n=79)
Tần số (n) Tỉ lệ (%)
Giới tính
Nam 55 69,6
Nữ 24 30,4
Nhóm tuổi
21- 34 tuổi 33 41,8
35-54 tuổi 35 44,3
≥55 tuổi 11 13,9
Hôn nhân
Kết hôn 60 75,9
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 4
Tần số (n) Tỉ lệ (%)
Khác 19 24,1
Dân tộc
Kinh 76 96,2
Khác 3 3,8
Học vấn
≤Cấp 2 62 78,5
>Cấp 2 17 21,5
Nghề nghiệp
Lao động tay chân 67 84,8
Lao động trí óc 6 7,6
Khác (già, ở nhà) 6 7,6
Tôn giáo
Có 48 60,8
Không 31 39,2
Thu nhập (triệu đồng) 10 [7-12]
a
Khoảng cách tới trạm (km) 3 [1,5-4]
a
Thời gian điều trị (ngày) 65 [63-70]
a
Thời gian điều trị tại trạm (ngày) 63 ± 5
b
Từng bị lao
Đã từng bị 3 3,8
Chưa từng bị 76 96,2
Các bệnh đi kèm
Không 65 82,3
Có 14 17,7
Loại bệnh kèm (n=14)
Đái tháo đường (có) 5 35,7
Tăng huyết áp (có) 6 42,9
Viêm gan B (có) 1 7,1
Khác
c
5 35,7
HIV/AIDS
Không 78 98,7
Có 1 1,3
Loại lao
Phổi 70 88,6
Lao ngoài phổi 9 11,4
Loại lao phổi (n=70)
BK (+) 47 67,1
BK (-) 23 32,9
Phác đồ điều trị
Phác đồ 1 76 96,2
Phác đồ 2 3 3,8
Gặp tác dụng phụ
Không 38 48,1
Có 41 51,9
Đặc điểm các tác dụng phụ (n=41)
Buồn nôn (có) 16 39,0
Vàng da (có) 7 17,1
Mệt mỏi, chóng mặt, ù tai (có) 26 63,4
Ngứa phát ban (có) 22 53,7
Khác
d
8 19,5
aTrung vị [khoảng tứ phân vị]
bTrung bình ± độ lệch chuẩn
cTê tay, sỏi thận, viêm dạ dày, vảy nến, ung thư vú
dĐen da, nóng trong người, mắt mờ, chảy máu cam,
nhức đầu, nhức tay chân, đau ran ngực, sốt
Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng
nghiên cứu là nam (69,6%), độ tuổi trung bình
40,4±16,0 tuổi (nhỏ nhất là 21 tuổi và lớn nhất
là 89 tuổi), trong đó, bệnh nhân trong nhóm
tuổi từ 21-34 tuổi và 35-54 tuổi lần lượt là
41,8% và 44,3%. Phần lớn đối tượng là dân tộc
Kinh (96,2%), trình độ học vấn dưới cấp 2
(78,5%), nghề nghiệp là lao động chân tay
(84,8%) và có theo tôn giáo (60,8%). Thu nhập
trung vị trong một tháng của hộ là 10 [7-12]
triệu đồng (ít nhất là 3 triệu và cao nhất là 30
triệu), khoảng cách từ nhà đến nơi điều trị có
trung vị là 3 [1,5-4] km (ngắn nhất là 0,5 km,
dài nhất là 20 km). Thời gian điều trị trung
bình tại trạm là 63 ± 5 ngày, ngắn nhất là 54
ngày và dài nhất là 95 ngày.
Tỉ lệ bệnh nhân lao phổi là 88,6% và lao
ngoài phổi là 11,4%; trong đó, có 2/3 bệnh
nhân là lao phổi có BK dương, chỉ có 3,8%
bệnh nhân đã từng bị lao. Tỉ lệ bệnh nhân có
bệnh đi kèm là 17,7%; trong đó, các bệnh đi
kèm phổ biến nhất là tăng huyết áp (42,9%), kế
đến là đái tháo đường (35,7%) và 35,7% bệnh
nhân có một số bệnh khác theo kèm như tê
tay, sỏi thận, viêm dạ dày, vảy nến và ung thư
vú. Có một bệnh nhân nhiễm HIV và đang
được điều trị ARV.
Hầu hết các bệnh nhân lao đang điều trị
theo phác đồ 1 (96,2%). Có 41 (51,9%) bệnh
nhân gặp tác dụng phụ. Tác dụng phụ thường
gặp nhất là mệt mỏi, chóng mặt, ù tai (63,4%);
kế đến là ngứa, phát ban và buồn nôn (39,0%)
và vàng da (17,1%).
Bảng 2. Sự tuân thủ điều trị, sự hỗ trợ từ NVYT,
từ gia đình, sự hài lòng về NVYT và dịch vụ y tế
(n =79)
Tần số (n) Tỉ lệ (%)
Tuân thủ chung
Có 63 79,8
Không 16 20,2
Nội dung tuân thủ
Uống đúng các loại thuốc 78 98,7
Không mua thêm, bỏ bớt các thuốc 70 88,6
Uống thuốc xa bữa ăn lúc bụng đói 78 98,7
Không quên uống 74 93,7
Không uống nhằm thuốc lao với 79 100
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 5
Tần số (n) Tỉ lệ (%)
thuốc khác
Không tự ý dừng thuốc 79 100
Nhận thuốc đều đặn 78 98,7
Chờ đợi để được nhận thuốc điều trị
Không hài lòng 9 11,4
Hài lòng 70 88,6
Hài lòng với thái độ NVYT
Không hài lòng 5 6,3
Hài lòng 74 93,7
Hài lòng với công tác điều trị của cơ quan y tế
Không hài lòng 7 8,9
Hài lòng 72 91,1
Sự hỗ trợ từ NVYT
Có 69 87,3
Không 10 12,7
Sự hỗ trợ từ gia đình
Có 41 51,9
Không 38 48,1
Tỉ lệ tuân thủ điều trị là 79,8%. Tuy nhiên,
11,4% bệnh nhân mua thêm hoặc bỏ bớt các
loại thuốc được cấp và 6,3% đối tượng quên
uống thuốc. Tỉ lệ bệnh nhân hài lòng về thời
gian chờ đợi để nhận thuốc điều trị là 88,6%,
có 93,7% hài lòng về thái độ của NVYT và
91,1% hài lòng về công tác điều trị của cơ quan
y tế. Tỉ lệ bệnh nhân nhận được sự hỗ trợ của
NVYT là 87,3%; trong khi đó, chỉ có 51,9%
người bệnh nhận được sự hỗ trợ từ phía gia
đình (xem Bảng 2).
Bảng 3. Mối liên quan giữa các đặc điểm của đối
tượng nghiên cứu với tuân thủ điều trị (n=79)
Đặc tính mẫu
Tuân thủ điều trị
Giá trị p Có
(n=63)
Không
(n=16)
Giới
Nam 42 (76,4) 13 (23,6) 0,365
a
Nữ 21 (87,5) 3 (12,5)
Nhóm tuổi
21- 34
35-54
27 (81,8)
27 (77,1)
6 (18,2)
8 (22,9)
0,876
≥55 9 (81,8) 2 (18,2)
Hôn nhân
Kết hôn
Khác
48 (80,0)
15 (78,9)
12 (20,0)
4 (21,1)
1,00
a
Học vấn
≤Cấp 2 53 (85,5) 9 (14,5) 0,035
a
>Cấp 2 10 (58,8) 7 (41,2)
Nghề nghiệp
Lao động chân tay 54 (80,6) 13 (19,4) 0,837
a
Lao động trí óc 5 (83,30) 1 (16,7)
Khác (già, ở nhà)
4 (66,7) 2 (33,3)
Đặc tính mẫu
Tuân thủ điều trị
Giá trị p Có
(n=63)
Không
(n=16)
Tôn giáo
Không 20 (64,5) 11 (35,5) 0,007
Có 43 (89,6) 5 (10,4)
Từng bị lao
Đã từng 2 (66,7) 1 (33,3) 0,498
a
Chưa từng 61 (80,3) 15 (19,7)
Loại lao phổi (n=70)
BK (+) 37 (78,7) 10 (21,3) 0,764
BK (-) 17 (73,9) 6 (26,1)
Bệnh kèm
Có 8 (57,1) 6 (42,9) 0,031
a
Không 55 (84,6) 10 (15,4)
Phác đồ điều trị
Phác đồ 1 61 (80,3) 15 (19,7) 0,498
a
Phác đồ 2 2 (66,7) 1 (33,3)
Gặp tác dụng phụ
Có 29 (70,7) 12 (29,3) 0,051
a
Không 34 (89,5) 4 (10,5)
Chờ đợi để được nhận thuốc
Hài lòng 56 (80,0) 14 (20,0) 1,00
a
Không ý kiến 7 (77,8) 2 (22,2)
Thái độ NVYT
Hài lòng 61 (82,4) 13 (17,6) 0,054
a
Không ý kiến 2 (40,0) 3 (60,0)
Công tác điều trị
Hài lòng 59 (91,9) 13 (18,1) 0,143
a
Không ý kiến 4 (57,1) 3 (42,9)
Sự hỗ trợ từ NVYT
Có 56 (81,2) 13 (18,8) 0,415
a
Không 7 (70,0) 3 (30,0)
Sự hỗ trợ từ gia đình
Có 34 (82,9) 7 (17,1) 0,465
Không 29 (76,3) 9 (23,7)
Tất cả sử dụng kiểm định chi bình phương trừ khi có
chú thích khác.
aKiểm định Fisher
Tỉ lệ tuân thủ điều trị lao ở những đối
tượng có trình độ học vấn ≤cấp 2 cao hơn so
với nhóm trên cấp 2 (p=0,035). Tương tự,
người bệnh có tôn giáo có tỉ lệ tuân thủ điều
trị cao hơn so với nhóm không có tôn giáo
(p=0,007); nhóm không có bệnh khác kèm theo
cao hơn so với nhóm có bệnh kèm (p=0,031).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
tỉ lệ tuân thủ điều trị lao ở các nhóm có đặc
điểm khác nhau về giới, nhóm tuổi, nghề
nghiệp, các đặc điểm về tình trạng bệnh khác
cũng như sự hài lòng với NVYT, dịch vụ y tế,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 6
sự hỗ trợ từ phía NVYT và từ phía gia đình
(xem Bảng 3).
BÀN LUẬN
Khảo sát trên 79 bệnh nhân lao cho thấy đa
phần bệnh nhân là nam, độ tuổi dưới 55, kết
quả này tương đồng với các nghiên cứu trên
bệnh nhân lao được thực hiện trong nước (7, 9,
Error! Reference source not found., 11). Đa số bệnh nhân hiện
mắc lao phổi có BK dương và đang điều trị
phác đồ một theo hướng dẫn của Bộ Y tế(3). Tỉ
lệ bệnh nhân có bệnh lý kèm theo và gặp tác
dụng phụ trong quá trình điều trị khá cao (lần
lượt chiếm 17,7% và 51,9%). Đây là vấn đề rất
cần được quan tâm trong quá trình điều trị
cho bệnh nhân.
Tỉ lệ tuân thủ điều trị của các bệnh nhân
lao ở giai đoạn tấn công là 79,8%. Tỉ lệ này có
sự khác biệt so với một số nghiên cứu khác
được thực hiện tại phòng khám Hai Bà Trưng,
Hà Nội(15) và tại tỉnh Bắc Giang(7) với tỉ lệ lần
lượt là 88,5% và 36,4%. Sự khác biệt này có thể
lý giải do việc sử dụng các tiêu chuẩn khác
nhau trong việc đánh giá sự tuân thủ điều trị.
Nghiên cứu này đánh giá sự tuân thủ dựa trên
sự tuân thủ sử dụng thuốc, trong khi đó các
nghiên cứu trên còn dựa trên việc xét nghiệm
định kỳ của các đối tượng nghiên cứu. Ngoài
ra, nghiên cứu thực hiện tại Bắc Giang(7) đánh
giá tuân thủ tất cả giai đoạn điều trị nên có thể
dẫn tới sự khác biệt với tỉ lệ tuân thủ trong
giai đoạn tấn công của nghiên cứu này. Một số
nghiên cứu cho thấy sự tuân thủ điều trị trong
giai đoạn duy trì thấp hơn so với giai đoạn tấn
công(2,15), trong khi đó, có nghiên cứu cho kết
quả ngươc lại(11). Nhìn chung, các nghiên cứu
cho thấy tỉ lệ tuân thủ điều trị của các bệnh
nhân chưa cao. Điều này đáng lo ngại vì
không tuân thủ điều trị sẽ mang lại những kết
cục điều trị không tốt cho bệnh nhân và làm
gia tăng tỉ lệ lao kháng thuốc trong cộng
đồng(5,6,11).
Trong nghiên cứu này, những người có
trình độ học vấn ≤ cấp 2 có tỉ lệ tuân thủ cao
hơn so với nhóm trên cấp 2 với p=0,035. Kết
quả này trái ngược với kết quả của một số
nghiên cứu khác khi cho thấy không có mối
liên quan giữa trình độ học vấn với tỉ lệ tuân
thủ điều trị lao(2,8,12,19,19). Tuy nhiên, các nghiên
cứu trước đây cho thấy những bệnh nhân
được cung cấp thông tin đầy đủ, được giáo
dục về bệnh lao, cũng như có kiến thức tốt về
bệnh, thì có tỉ lệ tuân thủ điều trị cao
hơn(4,8,12,19,19). Giáo dục sức khoẻ nâng cao kiến
thức có thể góp phần tăng tỉ lệ tuân thủ điều
trị ở các bệnh nhân lao. Kết quả này cho thấy
cần có nghiên cứu xác định rõ mối liên quan
giữa trình độ học vấn của bệnh nhân với tuân
thủ điều trị.
Tỉ lệ bệnh nhân được gia đình hỗ trợ là
51,9% nhưng kiểm định thống kê không cho
thấy có liên quan giữa sự hỗ trợ từ gia đình
với tới tuân thủ điều trị. Tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu của Castelnuovo cho rằng việc
không có sự hỗ trợ từ phía gia đình là một yếu
tố tiên báo của việc không tuân thủ điều trị
của các bệnh nhân lao(4).
Tương tự, trong nghiên cứu này, có 87,3%
bệnh nhân nhận được sự hỗ trợ từ nhân viên y
tế; nhưng kiểm định thống kê cho thấy không
có sự liên quan giữa sự hỗ trợ từ phía nhân
viên y tế với tuân thủ điều trị; cũng như
không có liên quan giữa sự hài lòng đối với
NVYT và dịch vụ y tế với tỉ lệ tuân thủ điều
trị. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tác giả
Woimo, tỉ lệ tuân thủ điều trị của bệnh nhân
cao hơn 3 lần khi được các NVYT chăm sóc với
thái độ thân thiện(19). Bên cạnh đó, tỉ lệ tuân
thủ cũng cao hơn khi bệnh nhân hài lòng với
dịch vụ y tế(13).
Nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan
về việc gặp tác dụng phụ với tỉ lệ tuân thủ
điều trị (p=0,051). Kết quả này khác với một số
nghiên cứu khác, khi cho thấy những bệnh
nhân gặp tác dụng phụ trong quá trình điều
trị có mức độ tuân thủ kém hơn khoảng 2 lần
so với nhóm không gặp tác dụng phụ(7,12,19).
Nghiên cứu thấy rằng những người có tôn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 7
giáo có tỉ lệ tuân thủ cao hơn người không có
tôn giáo (p=0,007); kết quả này khác với một số
nghiên cứu khác khi không tìm thấy mối liên
quan giữa tuân thủ điều trị với tôn giáo(1,19).
Nghiên cứu cũng cho thấy những người có các
bệnh khác đi kèm có tỉ lệ tuân thủ thấp hơn so
nhóm còn lại (p=0,031). Hiện nay, chưa có
nhiều nghiên cứu về mối liên quan giữa tuân
thủ điều trị lao với các bệnh đi kèm khác, do
các nghiên cứu hiện tại chủ yếu khảo sát mối
liên quan với tình trạng nhiễm HIV trên bệnh
nhân(1,13,19). Do đó, vấn đề này cần được nghiên
cứu sâu hơn.
Hạn chế của nghiên cứu là xác định tỉ lệ
tuân thủ điều trị bằng bộ câu hỏi phỏng vấn
mà không theo dõi được quá trình điều trị của
bệnh nhân nên có thể có sai lệch thông tin.
Tuy nhiên, nghiên cứu đã tập huấn kỹ năng
phỏng vấn cho các nghiên cứu viên để hạn chế
thấp nhất các sai lệch thông tin có thể xảy ra
trong quá trình thu thập dữ liệu; đồng thời, tra
cứu hồ sơ bệnh án để đảm bảo các thông tin về
thời gian điều trị bệnh, thời gian điều trị tại cơ
sở hiện tại và kết quả xét nghiệm BK của bệnh
nhân phù hợp với nhau giữa hồ sơ và câu trả
lời của bệnh nhân. Ngoài ra, hạn chế khác của
nghiên cứu là chỉ điều tra những bệnh nhân
quản lý được tại các cơ sở y tế, do đó, tỉ lệ tuân
thủ có thể cao hơn thực tế.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu này cho thấy, tỉ lệ tuân
thủ điều trị lao của bệnh nhân trong 2 tháng
điều trị tấn công là 79,8%. Các yếu tố có liên
quan đến tuân thủ điều trị lao là tôn giáo,
trình độ học vấn và bệnh kèm theo. Do đó, cần
thực hiện các nghiên cứu tiếp theo để xác định
các rào cản và những giải pháp thích hợp
nhằm nâng cao tỉ lệ tuân thủ điều trị ở bệnh
nhân lao trong giai đoạn tấn công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adane AA, et al. (2013). Non-Adherence to Anti-
Tuberculosis Treatment and Determinant Factors among
Patients with Tuberculosis in Northwest Ethiopia. PLoS
One, 8(11): 78791.
2. Amuha MG, et al. (2009). Non-adherence to anti-TB drugs
among TB/HIV co-infected patients in Mbarara Hospital
Uganda: Prevalence and associated factors. African Health
Sciences, 9(1): 8-15.
3. Bộ Y tế (2015). Hướng dẫn chẩn đoán, dự phòng và điều
trị bệnh lao, Hà Nội, tr. 45-67.
4. Castelnuovo B (2010). A review of compliance to anti
tuberculosis treatment and risk factors for defaulting
treatment in Sub Saharan Africa. African Health Sciences,
10 (4): 320-324.
5. Ershova JV, et al. (2014). Evaluation of adherence to
national treatment guidelines among tuberculosis patients
in three provinces of South Africa. South African medical
journal, 104 (5): 362-368.
6. Franke MF, et al. (2008). Risk factors and mortality
associated with default from multidrug-resistant
tuberculosis treatment. Clinical infectious diseases: an official
publication of the Infectious Diseases Society of America, 46
(12): 1844-1851.
7. Hà Văn Như, Nguyễn Xuân Tình (2014). Thực trạng tuân
thủ điều trị của bệnh nhân lao và một số yếu tố liên quan
tại phòng khám ngoại trú Bệnh viện lao và bệnh phổi Bắc
Giang năm 2013. Tạp Chí Y học thực hành, 905 (2): 43-47.
8. Ibrahim LM, et al. (2014). Factors associated with
interruption of treatment among Pulmonary Tuberculosis
patients in Plateau State, Nigeria. 2011. The Pan African
medical journal, pp.17:78.
9. Lưu Thanh Tùng (2015). Thực trạng tuân thủ điều trị và
các yếu tố liên quan của bệnh nhân lao được quản lý tại
các Trạm y tế của thị xã Hồng Ngự Tỉnh Đồng Tháp,
Luận văn thạc sĩ, Chuyên ngành Y tế Công Cộng, trường
Đại học Y tế Công Cộng, tr. 1-79.
10. Nguyen HB, et al. (2016). Prevalence of resistance to
second-line tuberculosis drug among multidrug-resistant
tuberculosis patients in Viet Nam, 2011. Western Pacific
Surveillance and Response Journal: WPSAR, 7 (2): 35-40.
11. Nieuwlaat R, et al. (2014). Interventions for enhancing
medication adherence. Cochrane Database of Systematic
Reviews, (11): 11.
12. Roy N, et al. (2015). Risk factors associated with default
among tuberculosis patients in Darjeeling district of West
Bengal, India. Journal of Family Medicine and Primary Care,
4 (3):388-394.
13. Tesfahuneygn G, et al. (2015). Adherence to Anti-
tuberculosis treatment and treatment outcomes among
tuberculosis patients in 1Alamata District, northeast
Ethiopia. BMC Research Notes, 8: 503.
14. Trung Tâm phòng chống Bệnh xã hội Tỉnh Bình Dương
(2015). Báo cáo tổng kết công tác phòng chống bệnh xã hội
năm 2015 và phương hướng hoạt động năm 2016, tr. 4-19.
15. Uông Thị Mai Loan, Hồ Thị Hiền, Lưu Thị Liên (2009).
Thực trạng tuân thủ các nguyên tắc điều trị lao của bệnh
nhân lao phổi điều trị tại phòng khám lao Hai Bà Trưng
năm 2009. Tạp Chí y tế công cộng, Trường Đại học y tế công
cộng Hà Nội, 23 (23): tr. 27-32.
16. WHO (2015) Global Tuberculosis report,
565059_eng.pdf, accessed on 20/06/2017.
17. WHO (2016) Global Tuberculosis report
565394-eng.pdf?ua=1, accessed on 20/06/2017.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Phụ bản của Số 1 * 2018
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 8
18. Widjanarko B, et al. (2009). Factors that influence
treatment adherence of tuberculosis patients living in
Java, Indonesia. Patient Prefer Adherence, 3: 231-238.
19. Woimo TT, et al (2017). The prevalence and factors
associated for anti-tuberculosis treatment non-adherence
among pulmonary tuberculosis patients in public health
care facilities in South Ethiopia: a cross-sectional study.
BMC Public Health, 17 (1):269.
Ngày nhận bài báo: 02/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tuan_thu_dieu_tri_o_benh_nhan_lao_trong_giai_doan_tan_cong.pdf