Tài liệu Từ vấn đề con người đến sự nghiệp “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh: 49
Từ vấn đề . . .
Tư tưởng Hồ Chí Minh và Giáo dục - Đào tạo
TỪ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI ĐẾN SỰ NGHIỆP “TRỒNG NGƯỜI”
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thu Hà *
TĨM TẮT
Trên cơ sở thực tiễn và tiền đề lý luận phong phú, Hồ Chí Minh đã đưa ra cách hiểu khoa
học, biện chứng về con người, khéo léo gắn kết quyền con người với quyền dân tộc. Đồng thời, đặt
ra những yêu cầu mang tính nguyên tắc về phía Đảng, Nhà nước cũng như mỗi cá nhân trong cơng
cuộc xây dựng, phát triển con người xã hội chủ nghĩa. Và những tư tưởng của Người từ vấn đề con
người đến sự nghiệp “trồng người” vẫn phát huy sức mạnh trong thời đại mới, đem lại ý nghĩa hết
sức to lớn đối với “chiến lược phát triển con người” ở Việt Nam hiện nay.
Từ khĩa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, con người mới xã hội chủ nghĩa, “trồng người”
HO CHI MINH THOUGHT ON HUMAN AND “HUMAN DEVELOPMENT”
ABSTRACT
Ho Chi Minh gave us scientificknowledge about human, relationship between civil rights
and civic rights based on hisprevious p...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 351 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ vấn đề con người đến sự nghiệp “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49
Từ vấn đề . . .
Tư tưởng Hồ Chí Minh và Giáo dục - Đào tạo
TỪ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI ĐẾN SỰ NGHIỆP “TRỒNG NGƯỜI”
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Thu Hà *
TĨM TẮT
Trên cơ sở thực tiễn và tiền đề lý luận phong phú, Hồ Chí Minh đã đưa ra cách hiểu khoa
học, biện chứng về con người, khéo léo gắn kết quyền con người với quyền dân tộc. Đồng thời, đặt
ra những yêu cầu mang tính nguyên tắc về phía Đảng, Nhà nước cũng như mỗi cá nhân trong cơng
cuộc xây dựng, phát triển con người xã hội chủ nghĩa. Và những tư tưởng của Người từ vấn đề con
người đến sự nghiệp “trồng người” vẫn phát huy sức mạnh trong thời đại mới, đem lại ý nghĩa hết
sức to lớn đối với “chiến lược phát triển con người” ở Việt Nam hiện nay.
Từ khĩa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, con người mới xã hội chủ nghĩa, “trồng người”
HO CHI MINH THOUGHT ON HUMAN AND “HUMAN DEVELOPMENT”
ABSTRACT
Ho Chi Minh gave us scientificknowledge about human, relationship between civil rights
and civic rights based on hisprevious practice and theory.Healso showed us the basic principle ofthe
VietNamese Communist Party and everyonein developingsocialist people.Ho Chi MinhThoughton
human and “human development” is meaningful to “human strategy” in VietNam nowadays.
Key Words: Ho Chi Minh thought, the socialist people, “human development”
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần phải cĩ những con người xã hội chủ
nghĩa. Hồn cảnh xã hội khơng tự nĩ thay đổi,
chế độ xã hội cũ khơng tự mất đi và chế độ
mới khơng tự ra đời, mà phải thơng qua cách
mạng xã hội. Con người làm nên lịch sử bằng
hoạt động trí tuệ và hoạt động thực tiễn của
chính mình. Trong bối cảnh mới của thời đại,
thì việc xây dựng phát triển con người Việt
Nam, với tư cách vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển xã hội theo tư tưởng Hồ
Chí Minh vẫn cịn nguyên giá trị khoa học,
cách mạng. Luận điểm “Vì lợi ích trăm năm
thì phải trồng người” của Bác vẫn phát huy
được sức mạnh trong thời đại ngày nay, trở
thành phương châm hành động của tồn xã hội
nĩi chung cũng như mỗi cá nhân con người
nĩi riêng.
Trong vấn đề con người, nhận thức của
Hồ Chí Minh phát triển từ quan hệ áp bức dân
tộc đến quan hệ áp bức giai cấp, từ quyền của
các dân tộc đến quyền của con người. Chính
* Giảng viên khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
50
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
vì vậy, cĩ thể khẳng định, việc Hồ Chí Minh
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra con
đường giải phĩng dân tộc kết hợp với giải
phĩng giai cấp và giải phĩng nhân loại, hồn
tồn khơng phải là ngẫu nhiên. Đĩ là sự kết
hợp biện chứng giữa nhân tố chủ quan và điều
kiện khách quan, giữa tinh hoa văn hĩa dân
tộc và nhân loại, giữa lý luận và hoạt động
thực tiễn phong phú của Người.
2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI VÀ SỰ
NGHIỆP “TRỒNG NGƯỜI”
Tư tưởng Hồ Chí Minh từ vấn đề con
người đến sự nghiệp “trồng người” được thể
hiện ở những luận điểm cơ bản sau:
2.1. Con người vừa tồn tại với tư cách cá
nhân vừa là thành viên của cộng đồng dân
tộc. Vì vậy, vấn đề nhân quyền và dân quyền
phải gắn bĩ chặt chẽ nhằm bảo đảm cho con
người cĩ cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hịa, phong phú
Khi nĩi về con người Hồ Chí Minh
thường dùng những khái niệm như: “dân”,
“quần chúng nhân dân”, “đồng bào”, “dân
tộc” để chỉ con người trong mối quan hệ
gắn bĩ, là khối đồn kết khơng tách rời. Và,
với ngơn ngữ bình dị mà súc tích, Hồ Chí
Minh đã đưa ra khái niệm: “chữ Người, nghĩa
hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa
là cả lồi người”7. Qua đĩ cũng cĩ thể thấy
Hồ Chí Minh hiểu con người khơng phải là
những cá thể độc lập, riêng lẻ mà là con người
hịa trong các mối quan hệ với cộng đồng, tập
thể, giai cấp.
Tuy xem xét con người trong mối quan
hệ với cộng đồng và nhấn mạnh vai trị của
quần chúng nhân dân, nhưng điều này khơng
cĩ nghĩa là Người tuyệt đối hĩa con người
tập thể mà coi thường con người cá nhân.
Khi Hồ Chí Minh địi hỏi “quét sạch chủ nghĩa
cá nhân”, đĩ cũng hồn tồn khơng phải là sự
vùi dập con người cá nhân, bắt cá nhân phải
hy sinh, hịa tan vào tập thể. Đối với Hồ Chí
Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá
nhân, vừa là thành viên của gia đình và cộng
đồng, vì vậy lẽ tất yếu là phải chống lại thứ
chủ nghĩa cá nhân đã đem cá nhân đối lập với
tập thể, mưu hạnh phúc cá nhân bằng cách tổn
hại hạnh phúc của tập thể.
Với tư cách là con người cá nhân, hơn ai hết,
Hồ Chí Minh nhận thức được “giá trị người”
thiêng liêng mà khơng gì cĩ thể so sánh được.
Bác khẳng định: “Mỗi người đều cĩ tính cách
riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản
thân và của gia đình mình”8. Khi những cái
riêng của cá nhân được trân trọng thì cũng cĩ
nghĩa là quyền con người được tơn trọng, nhu
cầu của con người được đáp ứng, con người
dần vươn tới tự do.
Mỗi cá thể người vốn mang bản chất tự do,
cĩ những ham muốn chính đáng, hay cũng cĩ
thể nĩi đĩ là cĩ những quyền tự nhiên vốn cĩ
của con người, chứ khơng phải là sự ban phát,
thừa nhận, hay mặc cả từ bất cứ chủ thể nào.
Trong “Tuyên ngơn độc lập” năm 1776 của
Mỹ cũng như “Tuyên ngơn Nhân quyền và Dân
quyền” năm 1791 của Pháp đều khẳng định
mạnh mẽ những quyền cơ bản của con người.
Kế thừa các giá trị trong lịch sử nhân loại
về quyền con người, trong “Tuyên ngơn độc
lập” năm 1945 của nước ta, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh quyền con người là yếu tố mang tính chất
thiêng liêng, bất khả xâm phạm, khơng ai cĩ
thể chối cãi được.
Bên cạnh đĩ, Hồ Chí Minh cũng nhận thức
được để đảm bảo những quyền lợi của con
người khơng phải là việc dễ dàng, bởi lẽ con
7 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.644
8 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 291
51
Từ vấn đề . . .
người khơng chỉ địi hỏi cĩ ăn, cĩ mặc, cĩ chỗ
ở, mà cịn cĩ quyền địi hỏi được sung sướng,
hạnh phúc thực sự. Đối với xã hội cũ thì vấn
đề nhân quyền chưa được đề cập nhưng trong
chế độ xã hội chủ nghĩa thì điều này gắn liền
với bản chất của chế độ, xã hội phải cĩ trách
nhiệm với con người như một vấn đề thuộc về
nhân quyền.
Và từ vấn đề nhân quyền Bác đi đến vấn đề
dân quyền. Từ quyền lợi chính đáng của mỗi
con người, Hồ Chí Minh suy rộng ra mọi dân
tộc sinh ra đều cĩ quyền bình đẳng, dân tộc
nào cũng cĩ quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc. Hồ Chí Minh nĩi: “Nếu
quyền lợi của dân tộc khơng cịn, quyền lợi của
cá nhân liệu cĩ giữ được an tồn”9. Thực tiễn
cho thấy mỗi khi đất nước bị xâm lược thì mọi
quyền lợi của dân tộc cũng bị vùi dập: “Tổ quốc
là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng
được tự do. Nếu mất nước, thì ai cũng phải làm
nơ lệ”10. Vì vậy theo Người, giải phĩng dân tộc
là điều kiện tiên quyết để giải phĩng con người
và thực hiện các quyền con người.
Mặt khác: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự
do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”11; cho nên sau khi cách mạng giải phĩng
dân tộc thành cơng thì cơng cuộc xây dựng xã
hội chủ nghĩa là nhằm để cho nhân dân được
đầy đủ về đời sống vật chất và phong phú trong
đời sống tinh thần, hưởng hạnh phúc, bình đẳng
thực sự, cĩ điều kiện phát triển tồn diện năng
lực bản thân. Vì vậy, nếu lý luận tư sản thường
rêu rao chủ nghĩa xã hội quá đề cao tập thể mà
coi thường cá nhân, đánh mất đi bản tính tự do
của con người, thì Hồ Chí Minh khẳng định:
“Khơng cĩ chế độ nào tơn trọng con người, chú
ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và
đảm bảo cho nĩ được thỏa mãn bằng chế độ xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”12.
2.2. Vấn đề quan trọng là phải xây dựng
con người mới - con người phát triển tồn
diện, khác về chất so với con người trong các
chế độ xã hội trước đây.
Khơng thể địi hỏi ngay một lúc và trên
mọi bình diện xã hội phải hình thành được
những người kiểu mẫu, những con người mới
xã hội chủ nghĩa. Nhưng việc đào tạo con
người như thế hết sức quan trọng, vì đĩ là lớp
người tiên phong, là những “người đi trước
để làng nước theo sau”, là những người cĩ lý
tưởng, hành động vì nhân dân, làm gương, lơi
cuốn thúc đẩy mọi người. “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội trước hết cần cĩ những con
người xã hội chủ nghĩa”13 là vì vậy.
Con người mới một mặt kế thừa những
giá trị tốt đẹp của con người truyền thống Việt
Nam, mặt khác hình thành thêm những phẩm
chất ưu việt mới. Cĩ thể khái quát những
phẩm chất của con người mới mà Hồ Chí
Minh nhấn mạnh và khơng ngừng quan tâm
bồi dưỡng như sau:
Về mặt tư tưởng: đĩ là con người thấm
nhuần lý tưởng cộng sản, cĩ tinh thần độc lập
tự chủ, dám nghĩ dám làm, đồng thời cĩ tinh
thần tập thể, mình vì mọi người, mọi người vì
mình, khơng ngừng phấn đấu vì mục tiêu xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Về đạo đức: những phẩm chất đạo đức
mà Hồ Chí Minh đề cao là trung với nước,
hiếu với dân, cĩ lịng nhân ái yêu thương con
người cũng như tinh thần quốc tế trong sáng;
biết cần, kiệm, liêm, chính và nhất là người
cán bộ cịn phải biết chí cơng, vơ tư.Đĩ khơng
chỉ là thước đo phẩm chất của mỗi người mà
9 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.85
10 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.485
11 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.152
12 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.291
13 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.310
52
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
cịn làm nên sự phồn thịnh của một dân tộc.
Về lối sống, tác phong làm việc: con người
mới phải cĩ lối sống lành mạnh trong sáng,
cĩ tác phong xã hội chủ nghĩa; nghĩa là: làm
việc cĩ kế hoạch, cĩ tổ chức, kỷ luật, lao động
quên mình, khơng ngại khĩ ngại khổ, bên
cạnh đĩ cịn phải cĩ kỹ thuật, cĩ năng suất,
đem lại chất lượng hiệu quả cho cơng việc.
Cuối cùng, con người mới cịn là con
người cĩ năng lực làm chủ, cĩ thể làm chủ bản
thân, gia đình cũng như cơng việc mà mình
đảm nhiệm, khơng ngừng nâng cao trình độ
chuyên mơn nghiệp vụ, và đặc biệt là trau dồi
trình độ chính trị, văn hĩa, để khơng ngừng
vươn lên, hồn thiện chính mình.
Như vậy, cĩ thể thấy con người mới trong
tư tưởng Hồ Chí Minh là con người phát triển
tồn diện cả về các mặt: Đức, Trí, Thể, Mỹ.
Hay, Người thường nĩi đĩ là con người cĩ
“tài” và cĩ “đức”, trong đĩ đức là gốc để phát
triển tài, vừa hồng lại vừa chuyên. Đĩ là con
người khơng chỉ nung nấu lịng yêu nước xã
hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vơ sản, mà
cịn phải hiểu được những nhiệm vụ của cách
mạng xã hội, từ đĩ ra sức lao động cĩ hiệu
quả để phát triển nền sản xuất xã hội, sẵn sàng
chủ động và vượt qua mọi gian khổ hy sinh
đĩng gĩp từng chút cho sự nghiệp xây dựng,
bảo vệ đất nước.
2.3. Trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển con người xã hội chủ nghĩa, thì trước
hết Đảng, Nhà nước phải cĩ trách nhiệm
khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân; đồng thời phải chăm lo bồi dưỡng cách
mạng cho đời sau.
Việc xây dựng con người mới khơng phải
là xĩa bỏ những con người, giai cấp cũ; mà
đĩ là một quá trình lâu dài, với việc tạo ra
mơi trường xã hội thuận lợi, nhất là cải tạo về
mặt quan hệ sản xuất, làm cho cái đẹp, cái tốt
ngày càng tốt hơn, cịn cái xấu, cái cũ ngày
một ít đi. Muốn cải tạo điều kiện sống trực
tiếp của con người, Đảng phải đưa ra được
những chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho
lao động và sinh hoạt, tạo cơng ăn việc làm để
cĩ thu nhập cho người dân.
Bên cạnh đĩ, Đảng và Chính phủ cịn phải
chăm lo bồi dưỡng cách mạng cho đời sau.
Đây cũng là việc làm hết sức quan trọng và
cần thiết trong chiến lược xây dựng con người
Việt Nam.
Người nhấn mạnh: “Thật vậy, nước nhà
thịnh hay yếu, suy hay mạnh một phần lớn là
do các thanh niên”14. Thế hệ trẻ chính là chủ
nhân tương lai của đất nước, kế tục sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trong nhiều bài nĩi, bài viết, mỗi khi đề
cập đến thanh niên, Người đều đánh giá cao
vai trị của thanh niên, cho rằng thanh niên là
lớp người trẻ tuổi, cĩ sức khỏe, năng động,
sáng tạo: “Tơi luơn nĩi đến thanh niên, vì
trong mọi cơng việc, thanh niên ta luơn luơn
hăng hái xung phong và họ xứng đáng là
cánh tay đắc lực của Đảng”15. Nhưng Người
cũng nhận thấy thanh niên cũng là lớp người
thiếu kinh nghiệm do chưa từng trải, cần
được xã hội quan tâm chăm sĩc, vun trồng
để họ cĩ thể trở thành người cơng dân hữu
ích cho đất nước.
Và trong cơng cuộc bồi dưỡng thế hệ đời
sau, Hồ Chí Minh khẳng định vai trị vơ cùng
to lớn của giáo dục: “Làm tốt thì thế hệ sau
này cĩ ảnh hưởng tốt. Làm khơng tốt sẽ ảnh
hưởng khơng tốt đến thế hệ sau. Mục đích
giáo dục bây giờ phục vụ nhân dân, phục vụ
Tổ quốc, đào tạo lớp người, cán bộ mới”16.
14 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 18
15 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 271
16 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 183
53
Từ vấn đề . . .
Theo Người, tất cả các yếu tố của giáo dục
đặc biệt là: chương trình, phương pháp, nội
dung giáo dục đều cĩ tác động mạnh mẽ đến
việc phát triển con người xã hội chủ nghĩa; và
ở những yếu tố này cũng địi hỏi Đảng, Chính
phủ cần phải cĩ tầm nhìn sâu rộng.
2.4. Tu dưỡng đạo đức suốt đời là nguyên
tắc cơ bản trong sự nghiệp “trồng người”
của mỗi cá nhân.
Bên cạnh việc chỉ ra trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước đối với cơng cuộc “trồng
người”, Hồ Chí Minh cịn nêu lên nguyên tắc
cơ bản để mỗi con người cá nhân cĩ thể hồn
thiện bản thân, trở thành con người xã hội chủ
nghĩa, đĩ là:“Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời”.
Theo Hồ Chí Minh, con người mới là con
người phát triển cả tài và đức, nhưng “đức”
mới là yếu tố gốc rễ. Giá trị đạo đức mà
Người nĩi đến ở đây khơng phải là vịng lễ
giáo hà khắc, kìm hãm cuộc sống con người
như trong Nho giáo cũ mà Người chỉ rõ: “Đạo
đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo
đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân
chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai
chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng
lên trời”17.
Tuy nhiên, “đạo đức cách mạng khơng
phải từ trên trời sa xuống, nĩ do đấu tranh
rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”. Vì vậy, mỗi con
người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng
đạo đức như việc rửa mặt hằng ngày, kiên trì
và bền bỉ suốt đời, khơng bao giờ được chủ
quan tự mãn. Việc tu dưỡng rèn luyện của con
người phải thực sự tự giác và rèn luyện suốt
đời, phải được thực hiện trong hoạt động thực
tiễn ở mọi lúc mọi nơi, khơng được nhụt chí
hay lơi là trong bất cứ hồn cảnh nào.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải
được tiến hành bằng việc giáo dục những
phẩm chất, chuẩn mực đạo đức từ trong gia
đình, nhà trường, xã hội nhất là trong những
tập thể gắn với hoạt động mỗi người. Vấn đề
quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải
khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh ở mọi
người để mọi người tự giác nhận thức được
trách nhiệm đạo đức của mình.
Hồ Chí Minh cho rằng tiếp nhận sự giáo
dục đạo đức là vấn đề nhất thiết khơng thể
thiếu được, nhưng sự tự giáo dục, tự trau dồi
đạo đức ở mỗi người cịn quan trọng hơn.
Quá trình con người được đào tạo ban đầu
trong trường lớp chỉ là cái cơ sở, cái trang bị
căn bản để con người được tự do phát triển
năng khiếu của mình. Tính chủ động của
con người thể hiện trong quá trình tự đào tạo
từ cơng việc và cuộc sống. Chẳng hạn theo
Người, đối với thanh niên thì “Phải cĩ lịng
ham tiến bộ, ham học hỏi, học luơn, học
mãi. Học văn hĩa, học chính trị, học nghề
nghiệp”18. Với bộ đội thì “Phải luơn thi đua
học tập và cơng tác, mở rộng tự phê bình và
phê bình để tiến bộ mãi, để làm cho bộ đội ta
càng thêm hùng mạnh,..”19.
3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ “TRỒNG NGƯỜI” VỚI VẤN ĐỀ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VIỆT
NAM HIỆN NAY
Như vậy, Hồ Chí Minh đã dùng khái niệm
“trồng người” với nguyên nghĩa của khái
niệm văn hĩa là trồng trọt, vun trồng; mỗi
người vừa là đối tượng được vun trồng vừa
là cá thể tự vun trồng. Theo đĩ, quá trình giáo
dục và tự giáo dục phải được đặt ra trong suốt
cuộc đời mỗi người, đây vừa là quyền lợi, vừa
là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cơng dân đối
với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Ngày nay, khi nước ta bước vào nền kinh
tế thị trường thì “cơ chế thị trường và sự hội
nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích
cực to lớn cũng đã bộc lộ mặt trái của nĩ, ảnh
17 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 320 - 321
18 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.375
19 Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 381
54
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
hưởng đến ý thức, tư tưởng, đạo đức, lối sống
của nhân dân ta”20. Hơn lúc nào hết, chúng ta
cần thấm nhuần ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề con người và sự nghiệp xây
dựng, phát triển con người. Tư tưởng ấy đã
đem lại những ý nghĩa hết sức to lớn đối với
“chiến lược con người” ở Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, trong tư tưởng Hồ Chí Minh
cĩ sự hài hịa giữa con người cá nhân và con
người tập thể; nếu lợi ích cá nhân khơng đi
ngược lại lợi ích tập thể thì vẫn cĩ thể để lợi
ích cá nhân đĩ được khuyến khích tạo điều
kiện phát triển. Cơ chế mới cĩ xu hướng coi
trọng tài năng mà xem nhẹ mặt đạo đức, dẫn
tới sự phát triển lệch lạc, méo mĩ nhân cách;
tuy nhiên mục tiêu của việc “trồng người” là
xây dựng con người phát triển tồn diện vừa
cĩ “tài” và cĩ “đức”, trong đĩ đức là gốc để
phát triển tài. Nhận thức được như vậy mới
cĩ thể vừa phát huy mặt tích cực, vừa hạn chế
mặt tiêu cực của kinh tế thị trường đối với
việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, lịch sử đã chứng minh rằng phát
triển kinh tế khơng phải bao giờ cũng đồng
nhất với sự phát triển xã hội và con người,
nhưng ngược lại, với mỗi bước đi xây dựng
con người mới, hồn thiện con người, lại
chính là một nấc thang tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, mọi chính sách của Đảng, Nhà
nước đưa ra khơng phải chỉ đơn thuần là để
phát triển kinh tế, mà sự phát triển ấy phải
nhằm mục đích vì lợi ích của chính người dân.
Thứ ba, thực tiễn của Việt Nam và thế
giới ngày càng chứng minh tầm nhìn của Hồ
Chí Minh: đầu tư cho con người là đầu tư cho
phát triển, “Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”. Con người với tất cả tiềm năng và sức
mạnh vốn cĩ phải được nhìn nhận như nguồn
lực cơ bản của bản thân sự phát triển kinh tế -
xã hội, từ đĩ phải đưa giáo dục vào quốc sách
hàng đầu. Hơn lúc nào hết cần phải thẳng thắn
nhìn nhận những bất cập của giáo dục Việt
Nam hiện nay, và tiến hành việc cải cách giáo
dục theo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn, “học đi đơi với hành, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội” của Hồ Chí Minh.
20 Đảng cộng sảnViệt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khĩa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội, tr. 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng cộng sảnViệt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 5 ban chấp hành trung ương khĩa VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội.
[2]. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hĩa và con người, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[3]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[8]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[9]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[10]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[11]. Lê Văn Yên (chủ biên), (2006), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Lao động, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 44_884_2121820.pdf