Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng tư tưởng đó trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Phước hiện nay

Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng tư tưởng đó trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Phước hiện nay: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 110 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng tư tưởng đó trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Phước hiện nay Ho Chi Minh’s religious title religious and the civilization of thesis in the execution of religious policy in Binh Phuoc province ThS. Hồ Văn Đức r ng Đại học Công nghiệp TP.HCM Ho Van Duc, M.A. Ho Chi Minh City University of Industry Tóm tắt Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Ph ớc có 8 tôn giáo khác nhau đang tồn tại và hoạt động. Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà n ớc Việt Nam của đảng bộ, chính quyền các cấp ở tỉnh Bình Ph ớc đã tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết kịp th i các nhu cầu tôn giáo chính đáng và hợp pháp của đồng bào theo đạo, đã tạo đ ợc niềm tin của các chức sắc, tín đồ đối với các cấp chính quyền ở địa ph ơng. Bài báo dựa vào t t ởng Hồ Chí Minh về tôn giáo để phân tích, đánh giá những thành tựu...

pdf12 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 449 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng tư tưởng đó trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Phước hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 26 (51) - Thaùng 03/2017 110 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng tư tưởng đó trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Phước hiện nay Ho Chi Minh’s religious title religious and the civilization of thesis in the execution of religious policy in Binh Phuoc province ThS. Hồ Văn Đức r ng Đại học Công nghiệp TP.HCM Ho Van Duc, M.A. Ho Chi Minh City University of Industry Tóm tắt Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Ph ớc có 8 tôn giáo khác nhau đang tồn tại và hoạt động. Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà n ớc Việt Nam của đảng bộ, chính quyền các cấp ở tỉnh Bình Ph ớc đã tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết kịp th i các nhu cầu tôn giáo chính đáng và hợp pháp của đồng bào theo đạo, đã tạo đ ợc niềm tin của các chức sắc, tín đồ đối với các cấp chính quyền ở địa ph ơng. Bài báo dựa vào t t ởng Hồ Chí Minh về tôn giáo để phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở địa ph ơng này, nhằm góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở tỉnh Bình Ph ớc nói riêng và cả n ớc nói chung. Từ khóa: tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách, Bình Phước. Abstract There are currently 8 active religions in Binh Phuoc Province. Different levels of authorities in Binh Phuoc have effectively carried out and adapted the religious policy of the Vietnamese Communist Party and Vietnamese government, which helps to satisfy legitimate religious needs of the inhabitants, facilitate the practice of religions, and reinforce the trust of religious leaders and followers in the local authorities. Based on Ho Chi Minh’s religious on religion, this article analyses and evaluates achievements and shortcomings of religious policies in Binh Phuoc in order to tighten the national unity for the sake of national security and development. Keywords: religion, Ho Chi Minh’s religious, policies, Binh Phuoc. 1. Đặt vấn đề Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, cũng là một thực thể xã hội đã tồn tại hàng nghìn năm cùng với xã hội loài ng i. Ngày nay trên thế giới, hoạt động tôn giáo vẫn không suy giảm mà đang nổi lên nh một hiện t ợng sống động của th i đại với những diễn biến phức tạp, thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều quốc gia. Các tôn giáo không chỉ có xu h ớng phục hồi, HỒ VĂN ĐỨC 111 phát triển mạnh mẽ ở một số quốc gia, dân tộc mà còn liên quan chặt chẽ đến những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc đẩm máu đang diễn ra ở nhiều nơi; đụng chạm đến vấn đề bảo l u, giữ gìn bản sắc văn hóa của từng địa ph ơng, cộng đồng dân tộc tr ớc xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa hiện nay. Bình Ph ớc là tỉnh đa tôn giáo, hiện có 08 tôn giáo đang cùng tồn tại và hoạt động. Trong th i gian qua đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Ph ớc đã ban hành nhiều chính sách quan trọng, thể hiện những quan điểm đổi mới, khoa học về tín ng ỡng tôn giáo, đáp ứng đ ợc những nhu cầu tín ng ỡng chính đáng của quần chúng tín đồ và chức sắc tôn giáo. Chính điều đó đã làm cho đồng bào có đạo phấn khởi, tin t ởng vào chính sách tự do tín ng ỡng của Đảng và Nhà n ớc ta, tích cực góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất n ớc. Song, một thực tế khác là hoạt động tôn giáo ở địa ph ơng này trong những năm qua có chiều h ớng gia tăng và diễn biến khá phức tạp. r ớc tình hình đó, việc nhận thức và giải quyết tốt vấn đề tôn giáo là yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn cách mạng Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Ph ớc nói riêng. Một vấn đề có tính nguyên tắc là phải nắm vững những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về tôn giáo. Nếu không thấm nhuần sâu sắc những quan điểm khoa học về tôn giáo thì khó tránh khỏi nhận thức sai sót với những biểu hiện ấu trĩ tả khuynh hoặc hữu khuynh trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách đối với tôn giáo. Vì vậy nghiên cứu, vận dụng t t ởng Hồ Chí Minh về tôn giáo vào quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo nhằm h ớng các tôn giáo ở tỉnh Bình Ph ớc vào quỹ đạo sinh hoạt bình th ng, đồng hành với dân tộc là hết sức cần thiết. 2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo Vận dụng sáng tạo lý luận mácxit về tôn giáo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm, thái độ đúng đắn về vấn đề tôn giáo. t ởng Hồ Chí Minh về tôn giáo thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau đây: Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh tôn trọng tự do tín ng ỡng tôn giáo của nhân dân nghĩa là tôn trọng nhu cầu tâm linh của nhân dân và đảm bảo quyền dân chủ trong đ i sống tinh thần xã hội. Quan điểm này đ ợc thể hiện nhất quán trong cả lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Dù với t cách Chủ tịch Đảng, ng i đứng đầu Chính phủ, hay với t cách là một công dân, Hồ Chí Minh vẫn luôn luôn thể hiện là một con ng i mẫu mực trong việc tôn trọng tự do tín ng ỡng tôn giáo của quần chúng nhân dân. Quan điểm tôn trọng tự do tín ng ỡng tôn giáo đ ợc ghi nhận trong nhiều văn bản do Hồ Chí Minh chỉ đạo biên soạn, ký hoặc trong những l i phát biểu của Ng i. Ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm th i, Hồ Chí Minh phát biểu: “ hực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào l ơng để dễ thống trị. ôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố tín ng ỡng tự do và l ơng giáo đoàn kết” [4, tr. 9]. Năm 1951, để tránh mọi sự hiểu lầm của đồng bào các tôn giáo tr ớc những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, trong l i phát biểu tại buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ng ỡng của mọi TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO VỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ VÂN DỤNG TƯ TƯỞNG 112 ng i” [6, tr. 184]. Đến ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 234/SL về vấn đề tôn giáo. Nội dung Sắc lệnh đã thể hiện khá toàn diện t t ởng Hồ Chí Minh về quyền tự do tín ng ỡng tôn giáo của nhân dân, biểu hiện qua những điểm cơ bản: Một là, chính phủ tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ng ỡng, tự do th cúng của nhân dân. Mọi ng i Việt Nam đều có quyền tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào; Hai là, các chức sắc, nhà tu hành đ ợc tự do giảng đạo tại các cơ sở tôn giáo; Ba là, các chức sắc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo đều đ ợc h ởng mọi quyền lợi của ng i công dân, đồng th i cũng phải làm mọi nghĩa vụ của ng i công dân; Bốn là, các tổ chức tôn giáo phải tuân thủ theo luật pháp của Nhà n ớc nh mọi tổ chức khác của nhân dân; Năm là, các tôn giáo đ ợc xuất bản và phát hành những ấn phẩm tôn giáo, đ ợc mở tr ng đào tạo những ng i chuyên hoạt động tôn giáo; Sáu là, các cơ sở th tự của tôn giáo đ ợc luật pháp bảo hộ. Đồng th i với tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ng ỡng của nhân dân, Hồ Chí Minh cũng nghiêm khắc phê phán và đấu tranh chống lại những phần tử giả danh, lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân; hoặc lợi dụng tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. inh thần đó cũng đ ợc thể hiện rõ trong Sắc lệnh 234/SL: “Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào m ợn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngăn trở tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm đến tự do tín ng ỡng và tự do t t ởng của ng i khác, hoặc làm những việc khác trái pháp luật” [1, tr. 113]. Hai là, đoàn kết lương giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết là một t t ởng lớn của Hồ Chí Minh. Đối t ợng cần phải đoàn kết là mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt đảng phái, giai tầng xã hội, dân tộc, tôn giáo, già trẻ, gái trai, ở trong n ớc hay ngoài n ớc. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, một chiến l ợc lâu dài trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chứ đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị nhất th i. Đoàn kết giữa những ng i có tín ng ỡng tôn giáo với những ng i không có tín ng ỡng tôn giáo và giữa những ng i có tín ng ỡng tôn giáo khác nhau là một bộ phận quan trọng trong chiến l ợc đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh. Mục tiêu đoàn kết l ơng giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh là nhằm đạt ớc vọng mà cả cuộc đ i Ng i nguyện hy sinh phấn đấu để thực hiện, đó là độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định: “ a đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng n ớc nhà” [7, tr. 438]. Độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân cũng đ ợc Hồ Chí Minh xem là mẫu số chung để đoàn kết mọi ng i dân Việt Nam, không phân biệt l ơng hay giáo, có đạo hay không có đạo, cũng nh có tín ng ỡng tôn giáo khác nhau. Ba là, luôn trân trọng những giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Hồ Chí Minh xác định tôn giáo là một thành tố cấu thành văn hoá và là di sản văn hoá của nhân loại. Ng i lý giải rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng nh vì mục đích của cuộc sống loài ng i mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng HỒ VĂN ĐỨC 113 ngày về mặc, ăn, ở và các ph ơng thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá” [3, tr. 431]. Nh một lôgíc tất yếu, khi thừa nhận tôn giáo là một thành tố cấu thành văn hóa, Hồ Chí Minh cũng thừa nhận trong các tôn giáo có ch a đựng những giá trị tốt đẹp về văn hoá, đạo đức cần phải đ ợc trân trọng và phát huy. Tuy nhiên, việc khẳng định những giá trị văn hóa, đạo đức của các tôn giáo hoàn toàn không có nghĩa là Hồ Chí Minh đồng nhất thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Ng i từng nói chủ nghĩa duy linh và chủ nghĩa duy vật là khác nhau, nh ng không phải vì thế mà bài xích, nghi kỵ, đối đầu nhau, chà đạp lên quyền tự do của nhau. Trái lại, cần phải tôn trọng tự do tín ng ỡng của công dân, trân trọng những giá trị nhân văn của tôn giáo. Theo Hồ Chí Minh, những giá trị tốt đẹp về văn hoá, đạo đức của tôn giáo đ ợc biểu hiện qua nhiều ph ơng diện nh : trong giáo lý của các tôn giáo; qua nhân cách những ng i sáng lập các tôn giáo; qua nhân cách tín đồ và chức sắc tôn giáo. Bốn là, thường xuyên quan tâm đến đời sống của đồng bào có đạo. Hồ Chí Minh luôn quan tâm và động viên kịp th i những tín đồ và chức sắc tôn giáo đã có những đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo về quê h ơng đất n ớc, làm tròn nghĩa vụ của ng i giáo dân cũng nh nghĩa vụ của ng i công dân. Ng i viết: “ ôi có l i khen ngợi các vị tăng, ni và tín đồ đã sẵn lòng nồng nàn yêu n ớc, hăng hái làm tròn nghĩa vụ của ng i công dân và xứng đáng là phật tử” [9, tr. 290]. Bên cạnh đó, Ng i cũng đau lòng khi nghe tin một xóm đạo bị giặc chiếm đóng, giày xéo, một vị chức sắc tôn giáo qua đ i, hoặc bà con giáo dân phải chịu cảnh đói rét, chia ly. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đ i sống tâm linh của đồng bào các tôn giáo, kịp th i gửi th chúc mừng và động viên đồng bào giáo dân trong những ngày lễ trọng của các tôn giáo. rong th gửi đồng bào Công giáo nhân dịp lễ Nôen năm 1945, Ng i viết: “ rong lịch sử Việt Nam ta, lần này là lần đầu mà đồng bào Công giáo ta làm lễ Nôen một cách vui vẽ sung s ớng trong n ớc Việt Nam độc lập tự do. Tôi chắc rằng d ới sự lãnh đạo sáng suốt của các vị giám mục Việt Nam, đồng bào Công giáo quyết một lòng với nhân dân toàn quốc để giữ vững nền tự do độc lập đó” [4, tr. 121, 122]. Khi thực dân pháp quay trở lại xâm l ợc n ớc ta lần nữa, mặc dù sự nghiệp kháng chiến kiến quốc đứng tr ớc muôn vàn khó khăn, nh ng Ng i vẫn không quên động viên tinh thần đồng bào giáo dân nhân ngày lễ Chúa: “Hôm nay, đồng bào lễ Chúa trong một bầu không khí chiến tranh, vì giặc Pháp còn đang giày xéo trên đất n ớc ta. Song rồi đây thắng lợi sẽ cho chúng ta lễ Chúa long trọng hơn, trong một bầu không khí vui vẽ và t ơi sáng của một n ớc hoàn toàn thống nhất và độc lập” [5, tr. 538]. Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến những nhu cầu tín ng ỡng, mà còn quan tâm đến việc phát triển lao động sản xuất để nâng cao đ i sống vật chất cho đồng bào các tôn giáo, bởi vì Ng i luôn thấu hiểu nguyện vọng của đồng bào giáo dân là “cũng cần phải ăn, mặc, học hành, chữa bệnh, ai ai cũng muốn đ i sống đ ợc yên ổn, cải thiện, sống hạnh phúc và đoàn tụ gia đình” [16, tr. 494]. Hồ Chí Minh khẳng định rằng đây là nguyện vọng chính đáng của đồng bào mà cấp ủy đảng và chính quyền ở địa ph ơng phải thật sự quan tâm đến. Ng i nhắc nhở: “Phải nhớ rằng đại đa số đồng bào Công giáo là nông dân TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO VỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ VÂN DỤNG TƯ TƯỞNG 114 nghèo khổ, cũng bị bốc lột tàn tệ, cũng muốn có cơm ăn, ruộng cày” [8, tr. 77]. 3. Đặc điểm tình hình tôn giáo ở tỉnh Bình Phước Bình Ph ớc là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Nam Bộ, đ ợc tái lập từ năm 1997 sau khi tách ra từ tỉnh Sông Bé. Diện tích đất tự nhiên của Bình Ph ớc là 6.876,76 km 2 , dân số toàn tỉnh Bình Ph ớc có 950.416 ng i [2, tr. 23, 25]. Bình Ph ớc là tỉnh đa tôn giáo, có thể coi Bình Ph ớc là một bảo tàng thu nhỏ của các tôn giáo có mặt ở Việt Nam. Bên cạnh sự hiện diện của 08 tôn giáo đã đ ợc Nhà n ớc công nhận t cách pháp nhân gồm: Phật giáo, Công giáo, in Lành, Cao Đài, Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ c sĩ Phật hội Việt Nam và đạo Baha’i, Bình Ph ớc còn có một số tôn giáo ch a đ ợc Nhà n ớc ta công nhận t cách pháp nhân. ính đến tháng 11 - 2016, ở tỉnh Bình Ph ớc có 227.075 tín đồ tôn giáo (chiếm khoảng 24% dân số toàn tỉnh), 271 chức sắc, 1.657 chức việc và 288 cơ sở th tự tôn giáo. rong đó Công giáo có 104.809 tín đồ; Phật giáo có 57.207 tín đồ; Đạo Tin lành có 60.458 tín đồ; Đạo Cao Đài có 3.892 tín đồ; Hồi giáo có 559 tín đồ; Phật giáo Hòa Hảo có 121 tín đồ; Tịnh độ c sĩ Phật hội Việt Nam có 17 tín đồ; Đạo Baha’i có 12 tín đồ [15, tr. 1-6]. Tôn giáo ở Bình Ph ớc mang đầy đủ những đặc điểm chung của tôn giáo ở Việt Nam, tuy nhiên do điều kiện cụ thể về tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa ph ơng quy định, tôn giáo ở Bình Ph ớc còn có những đặc điểm riêng so với tôn giáo ở các địa ph ơng khác trên đất n ớc ta. Có thể khái quát một số đặc điểm tôn giáo ở Bình Ph ớc nh sau: Một là, ở tỉnh Bình Phước có sự hiện diện của hầu hết các tôn giáo lớn ở Việt Nam. rên địa bàn tỉnh Bình Ph ớc, Phật giáo là tôn giáo có mặt đầu tiên, xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, tiếp đến là Công giáo xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, đạo Cao Đài xuất hiện vào năm 1927 và đạo Tin Lành chính thức có mặt vào giữa năm 1953. Các tôn giáo còn lại có mặt trên vùng đất Bình Ph ớc khá muộn, khoảng từ sau năm 1975 đến nay. Số l ợng tôn giáo cũng nh số l ợng tín đồ của các tôn giáo ở Bình Ph ớc phát triển cơ học, ít do kết quả truyền giáo, chủ yếu di c từ các vùng miền khác nhau của đất n ớc đến Bình Ph ớc gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và những biến cố lịch sử - xã hội diễn ra trên địa bàn tỉnh. Đầu thế kỷ XX, để có đủ nhân công, bọn chủ đồn điền dùng mọi thủ đoạn lừa mị và c ỡng ép hàng nghìn nông dân từ miền Bắc, miền rung vào Bình Ph ớc làm công nhân trong các đồn điền cao su, trong đó có nhiều ng i là tín đồ tôn giáo. Sau năm 1954, từ hiện t ợng “theo Chúa vào Nam” của đồng bào Công giáo đã có khoảng 14.000 - 15.000 giáo dân từ miền Bắc và miền rung di c đến địa bàn tỉnh Bình Ph ớc [12, tr. 399]. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu n ớc, Mỹ - Diệm đã tổ chức di dân vào địa bàn tỉnh Bình Ph ớc, trong đó có tín đồ các tôn giáo nhằm làm hậu thuẫn chính trị và lá chắn quân sự phòng thủ Sài Gòn phía Bắc và Tây Bắc. Sau năm 1975, hàng nghìn giáo dân ở khắp ba miền Bắc - Trung - Nam đã cùng với đồng bào không theo tôn giáo đổ về Bình Ph ớc xây dựng kinh tế mới. B ớc sang thập niên 90 của thế kỷ XX và những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, Bình Ph ớc vẫn là vùng đất rộng ng i th a, rất nhiều ng i dân từ các tỉnh thành khác di c tự do về đây sinh cơ lập nghiệp, trong đó có nhiều giáo dân. Chính những biến cố lịch HỒ VĂN ĐỨC 115 sử - xã hội trên đây vừa làm cho Bình Ph ớc trở thành tỉnh đa tôn giáo, vừa làm cho các tôn giáo ở tỉnh Bình Ph ớc đ ợc bổ sung về số l ợng tín đồ và phát triển nhanh chóng trên nhiều ph ơng diện. Hai là, tín đồ tôn giáo là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số tín đồ tôn giáo ở tỉnh Bình Phước. Địa bàn tỉnh Bình Ph ớc tr ớc đây là một vùng miền núi hoang vu, đất rộng ng i th a, c dân sinh sống chủ yếu ở vùng đất này là các tộc ng i thiểu số nh Xtiêng, Chơ Ro, Khơme, Mơnông... Sự biến động về dân số và địa bàn c trú của các cộng đồng dân c tại vùng Bình Ph ớc trong tiến trình lịch sử chịu sự tác động mạnh mẽ của những chính sách khai phá vùng đất này của các chính quyền quản lý. Với những chính sách khác nhau trong chiến l ợc khai thác vùng đất đỏ bazan miền Đông Nam Bộ, tỉnh Bình Ph ớc đã có những đợt dân di c lớn từ các vùng miền đổ về vùng đất này để sinh cơ lập nghiệp. Vì vậy, ngoài các tộc ng i thiểu số bản địa, Bình Ph ớc đ ợc bổ sung một số l ợng lớn dân nhập c với đầy đủ thành phần dân tộc. Hiện nay, ngoài ng i Kinh, ở Bình Ph ớc có 40 dân tộc thiểu số cùng sinh sống, với dân số là 191.431 ng i, chiếm 20,1% dân số toàn tỉnh [2, tr. 25]. Sinh sống ở vùng miền núi hoang vu, rừng thiêng n ớc độc, đất rộng ng i th a, địa hình hiểm trở; với ph ơng thức sản xuất nông nghiệp lạc hậu theo lối tự cung tự cấp và phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, cuộc sống của đồng bào các tộc ng i thiểu số bản địa ở Bình Ph ớc hết sức thiếu thốn, khó khăn, luôn bị đe dọa bởi đói nghèo, bệnh tật, thú giữ; trình độ dân trí lại thấp Những điều đó đã khiến đồng bào h ớng niềm tin vào các thần linh th ợng đế để đ ợc phù trì, bảo hộ, an ủi. Bên cạnh dân bản địa, các tộc ng i từ những vùng miền khác khi di c đến Bình Ph ớc sinh cơ lập nghiệp thì họ cũng mang theo niềm tin tôn giáo của mình. Hoặc khi đến nơi đây, trong quá trình sinh sống họ có nhu cầu tìm đến tôn giáo để mong đ ợc giúp đỡ, che chở tr ớc sự áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân pháp trong các đồn điền cao su, sự tàn phá ác liệt của bom đạn chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo diễn ra... Đó chính là những nguyên nhân dẫn tới đặc điểm tín đồ tôn giáo là ng i dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số tín đồ tôn giáo ở tỉnh Bình Ph ớc. Hiện nay, trong tổng số 227.075 tín đồ tôn giáo trên địa bàn toàn tỉnh Bình Ph ớc có khoảng 42% tín đồ là ng i dân tộc thiểu số, mặc dù trong tổng dân số toàn tỉnh đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chiếm 20,1% [11, tr. 255]. Ba là, tín đồ tôn giáo ở Bình Phước hầu hết là nông dân lao động nghèo, trình độ học vấn thấp. Trải qua quá trình cùng với nhân dân cả n ớc thực hiện công cuộc đổi mới đất n ớc, nhân dân Bình Ph ớc đã v ợt lên mọi khó khăn thử thách, giành đ ợc những thành tựu b ớc đầu rất quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đ i sống của đa số nhân dân từng b ớc đ ợc cải thiện. Tuy nhiên, so với các tỉnh khác trong cả n ớc, Bình Ph ớc vẫn còn là tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu ng i còn thấp so với mức bình quân của cả n ớc. Cơ cấu ngành kinh tế nông - lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế: 41,24%, trong khi đó tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng là 31,69%, khu vực dịch vụ là 26,92% [12, tr. 36]. Với đặc điểm của một tỉnh kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, hộ nông dân chiếm trên 80% trong tổng số hộ gia đình trên toàn tỉnh [12, tr. 308]. Nhìn chung, ph ơng TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO VỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ VÂN DỤNG TƯ TƯỞNG 116 thức sản xuất nông nghiệp của nông dân ở Bình Ph ớc còn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, họ là những công nhân đồn điền cao su bị c ỡng bức lao động quá sức chịu đựng của con ng i, bị đánh đập dã man, đ i sống của họ vô cùng cơ cực. Địa bàn Bình Ph ớc là một trong những nơi chiến tranh diễn ra khốc liệt nhất, bom đạn càn đi quét lại tàn phá nặng nề. Hiện nay đ i sống của nông dân Bình Ph ớc còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, đặc biệt là nông dân ở những vùng sâu, vùng xa. rình độ học vấn của nông dân phần đa còn thấp, hiện nay tỷ lệ biết chữ của dân c Bình Ph ớc nói chung là 90%, tỷ lệ biết chữ của lực l ợng lao động là 94,31% (cả n ớc là 96%), tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 23,64% tổng lực l ợng lao động (cả n ớc là 24,8%) [12, tr. 534]. Xuất phát từ điều kiện sống đó đã làm cho nông dân lao động ở Bình Ph ớc th ng có nhu cầu tìm đến tôn giáo để đ ợc phù trì, bảo hộ, che chở cho cuộc sống đ ợc khoẻ mạnh, bình an; nh cậy thần linh giúp đỡ cho m a thuận gió hoà, làm ăn gặp nhiều may mắn, mùa màng bội thu. Bốn là, tôn giáo ở Bình Phước là một trong những mục tiêu trọng điểm của âm mưu và hành động lợi dụng tôn giáo để thực hiện những ý đồ chính trị phản động của các thế lực thù địch. Bình Ph ớc là một tỉnh miền núi có địa hình phức tạp; phía Bắc và Tây Bắc giáp V ơng quốc Campuchia, phía Đông tiếp giáp Tây Nguyên - vùng trọng điểm về tôn giáo; trên địa bàn tỉnh lại có nhiều dân tộc cùng chung sống và nhiều loại hình tôn giáo cùng tồn tại, đ i sống kinh tế của nhân dân ở đây nhìn chung còn khó khăn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp. Với những đặc điểm đó, Bình Ph ớc trở thành địa bàn quan trọng về an ninh, quốc phòng và là địa bàn trọng điểm về tôn giáo mà các thế lực thù địch trong và ngoài n ớc đặc biệt chú ý đến trong quá trình chúng thực hiện chiến l ợc “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng n ớc ta. Trong th i gian qua, có những hoạt động tôn giáo tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp mà đằng sau đó có sự xúi giục, giật dây, chi phối, điều khiển của các thế lực thù địch nhằm lợi dụng tôn giáo để thực hiện những ý đồ chính trị phản động. Cụ thể, hoạt động của huynh tr ởng các nhóm gia đình phật tử theo “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất” chịu sự chỉ đạo và giúp đỡ của một số đối t ợng tự x ng là Ban H ớng dẫn gia đình phật tử tỉnh đã nhiều lần vi phạm các quy định của pháp luật, có tính chất thách thức chính quyền [14, tr. 5]. Các hệ phái Tin lành tăng c ng truyền đạo, lôi kéo tín đồ, đồng th i có nhiều hoạt động tôn giáo trái pháp luật. Khi bị chính quyền xử lý sai phạm, tín đồ một số điểm nhóm đã vu cáo chính quyền đàn áp tôn giáo, đ a tin và hình ảnh sai sự thật về tình hình tôn giáo ở địa ph ơng [14, tr. 8]. Đối với các nhóm tà đao, đạo lạ trên địa bàn tỉnh Bình Ph ớc nh : Nhất quán đạo, Thanh Hải vô h ợng s , Pháp luân công, Ngọc Phật Hồ Chí Minh... trong th i gian hoạt động rất phức tạp d ới sự hỗ trợ của các đối t ợng bên ngoài. 4. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Phước Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà n ớc ở tỉnh Bình Ph ớc đã đạt đ ợc những thành tựu quan trọng về nhiều mặt. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến những thành tựu đó trên ph ơng diện kết quả vận dụng t t ởng Hồ Chí Minh về tôn HỒ VĂN ĐỨC 117 giáo vào quá trình thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Ph ớc. Một là, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân. Thực hiện theo t t ởng của Hồ Chí Minh về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ng ỡng tôn giáo của nhân dân. Trong những năm qua đảng ủy, chính quyền các cấp ở Bình Ph ớc đã tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình th ng theo đúng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà n ớc; quan tâm và giải quyết kịp th i những nhu cầu tôn giáo chính đáng của chức sắc và tín đồ các tôn giáo. Do bom đạn chiến tranh tàn phá và tác động thiên tai, nhiều cơ sở th tự của các tôn giáo bị h hỏng, xuống cấp cần đ ơc trùng tụ tôn tạo. Mặt khác, số l ợng tín đồ tôn giáo tăng nhanh nên nhu cầu về cơ sở th tự cũng tăng theo. Đáp ứng nhu cầu chính đáng của quần chúng tín đồ, chính quyền tỉnh Bình Ph ớc đã cho phép các tôn giáo trên địa bàn tỉnh sửa chữa và xây dựng mới nhiều cơ sở th tự. Chỉ tính từ năm 2014 đến năm 2016, chính quyền đã cho phép sửa chữa và xây dựng mới 62 cơ sở th tự, trong đó có 36 cơ sở xây dựng mới [15, tr. 16].Cơ sở th tự đ ợc sửa chữa, xây dựng khang trang đã tạo ra diện mạo mới trong đ i sống tín ng ỡng tôn giáo, đáp ứng lòng mong muốn của tín đồ và chức sắc các tôn giáo. Trong những năm qua, các cấp chính quyền luôn tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức tôn giáo cử ng i đi đào tạo nhằm khắc phục tình trạng thiếu chức sắc ở một số cơ sở th tự. Từ năm 2012 đến năm 2016, chính quyền đã xem xét và chấp thuận cho các tổ chức tôn giáo cử 122 ng i đi học ở các tr ng đào tạo về tôn giáo ở trong n ớc, 03 ng i đi du học ở n ớc ngoài; chấp thuận cho các tổ chức tôn giáo mở 50 lớp bồi d ỡng linh vụ, bồi d ỡng thánh kinh căn bản cho hàng nghìn l ợt chức sắc, chức việc, tín đồ tham gia; chấp thuận 174 tr ng hợp phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, 210 l ợt chức sắc đ ợc bầu cử, suy cử [13, tr. 2]. Mọi sinh hoạt tôn giáo bình th ng của bà con giáo dân diễn ra tại cơ sở tôn giáo hay tại gia đều đ ợc nhân dân và các cấp chính quyền địa ph ơng tôn trọng, quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi. Các ngày lễ trọng, các kỳ đại hội của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh luôn đ ợc các cấp chính quyền quan tâm h ớng dẫn, giúp đỡ, phối hợp hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi góp phần làm cho những sự kiện đó diễn ra một cách long trọng, vui t ơi, an toàn. Thực hiện theo t t ởng Hồ Chí Minh: “Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào m ợn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết... hoặc làm những việc khác trái pháp luật”, đồng th i với việc đảm bảo quyền tự do tín ng ỡng của nhân dân, các cấp chính quyền cũng đề cao cảnh giác, kịp th i phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm những tr ng hợp hoạt động tôn giáo trái pháp luật hoặc những phần tử giả danh tôn giáo hoạt động thực hiện ý đồ chính trị phản động. Qua tổng hợp kết quả báo cáo hằng năm của Sở Nội vụ tỉnh Bình Ph ớc, từ năm 2012 đến năm 2016, các cấp chính quyền kịp th i phát hiện, ngăn chặn và xử lý 118 vụ việc hoạt động tôn giáo trái pháp luật và hoạt động lợi dụng tôn giáo [15, tr. 5]. Hai là, đoàn kết lương giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phần lớn tín đồ tôn giáo ở Bình Ph ớc là nông dân lao động nghèo. Họ vừa là những ng i có niềm tin tôn giáo, vừa là những ng i công dân có lòng yêu n ớc TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO VỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ VÂN DỤNG TƯ TƯỞNG 118 nồng nàn. Cùng với việc tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình th ng theo đúng pháp luật, giải quyết kịp th i những nhu cầu tôn giáo chính đáng, Tỉnh ủy Bình Ph ớc đã chỉ đạo đẩy mạnh phong trào thi đua yêu n ớc, sống “tốt đ i, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ và các chức sắc tôn giáo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ quê h ơng, đất n ớc. hông qua các ph ơng tiện thông tin đại chúng, đ ng lối chính sách của Đảng và Nhà n ớc về: thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên mỗi địa bàn khu dân c , củng cố và tăng c ng khối đại đoàn kết toàn dân; giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc, bài trừ các phong tục tập quán lạc hậu, xây dựng đ i sống văn hóa tiến bộ... đ ợc tuyên truyền phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào theo các tôn giáo. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền cũng đẩy mạnh công tác vận động đồng bào giáo dân thi đua yêu n ớc, sống “tốt đ i, đẹp đạo”, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thông qua những hành động trực tiếp, những việc làm cụ thể. Vào những dịp lễ tết, sự kiện trọng đại của các tôn giáo, các cấp chính quyền đều có đại diện ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đến thăm hỏi, chúc mừng, động viên chức sắc và đồng bào giáo dân. Qua đó ghi nhận và biểu d ơng những thành quả tích cực của đồng bào đã thể hiện tinh thần yêu n ớc và lối sống “tốt đ i, đẹp đạo”, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đồng th i, chính quyền cũng kêu gọi toàn thể chức sắc và đồng bào giáo dân phát huy và đẩy mạnh hơn nữa việc h ởng ứng các phong trào thi đua yêu n ớc, thực hiện tốt ph ơng châm “một tín đồ tôn giáo tốt cũng là một công dân tốt”. Các cấp chính quyền còn có chính sách động viên khen th ởng kịp th i đối với những tín đồ và chức sắc tôn giáo là tấm g ơng tiên tiến điển hình trong xây dựng cuộc sống “tốt đ i, đẹp đạo”. Tổ chức cho chức sắc tôn giáo tham quan tìm hiểu các công trình kinh tế - xã hội lớn của đất n ớc, các di tích lịch sử, văn hóa truyền thống, những tập thể và cá nhân điển hình trong xây dựng cuộc sống “tốt đ i, đẹp đạo”. Qua đó nhằm nhắc nhỡ, vận động các chức sắc tuyên truyền cho tin đồ noi g ơng ng i tốt việc tốt, phát huy tinh thần yêu n ớc, đoàn kết gắn bó với cộng đồng dân c , cùng toàn dân phấn đấu vì mục tiêu chung: dân giàu, n ớc mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Ba là, luôn trân trọng những giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Cùng với xu thế chung trên cả n ớc, trong những năm gần đây, hoạt động lễ hội của đồng bào các tôn giáo ở Bình Ph ớc đ ợc tổ chức một cách rầm rộ, long trọng, với quy mô ngày càng lớn và diễn ra khắp các địa ph ơng trong tỉnh thu hút sự quan tâm, tham gia của nhiều ng i kể cả những ng i không theo tôn giáo, đặc biệt đối với giới trẻ. Phần lớn đây là những lễ hội truyền thống gắn với sinh hoạt tín ng ỡng tôn giáo của đồng bào, biểu hiện của việc l u giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các tôn giáo, góp phần tô điểm cho văn hóa dân tộc thêm đa dạng và phong phú sắc màu. Nhận thức rõ điều đó, trong những năm qua các cấp chính quyền ở Bình Ph ớc đã quan tâm giúp đỡ, phối hợp hỗ trợ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những lễ hội của tôn giáo diễn ra một cách long trọng, vui t ơi, an toàn. Qua đó thể hiện chính quyền luôn trân trọng và tạo HỒ VĂN ĐỨC 119 điều kiện phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các tôn giáo. Đồng th i, các cấp chính quyền cũng đề cao cảnh giác, kịp th i phát hiện, ngăn chặn và xử lý những tr ng hợp tự ý tổ chức lễ hội bất hợp pháp. Hoạt động từ thiện của các tôn giáo có ý nghĩa tích cực đối với xã hội, qua đó thể hiện tinh thần từ bi, bác ái, giá trị đạo đức của tôn giáo. Trong những năm qua các cấp chính quyền đã tăng c ng h ớng dẫn các tôn giáo trên địa bàn tỉnh hoạt động từ thiện đúng chủ tr ơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà n ớc và đã đem lại những kết quả thiết thực. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo tỉnh Bình Ph ớc, hàng năm các tôn giáo đã tổ chức đ ợc hàng trăm đợt hoạt động từ thiện xã hội nh : phát quà từ thiện, trao học bổng, phát xe lăn và xe đạp, khám bệnh phát thuốc, phát quà trung thu và tập vở cho các em thiếu nhi, ủng hộ bếp cơm từ thiện, ủng hộ tiền của cho đồng bào bị thiên tai, xây dựng hàng trăm căn nhà tình th ơng cho ng i nghèo... [13, tr. 3]. Những hoạt động nhân đạo từ thiện của các tôn giáo đã có ý nghĩa tích cực, góp phần giải quyết khó khăn cho xã hội, thể hiện tinh thần t ơng thân, t ơng ái trong nhân dân. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền ở Bình Ph ớc cũng luôn đề cao cảnh giác, kịp th i phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những thế lực hòng thông qua hoạt động từ thiện để làm động lực thu hút tín đồ, tập hợp lực l ợng, lôi kéo, xúi giục, kích động quần chúng hoạt động vì mục đích ngoài nhân đạo từ thiện. Bốn là, thường xuyên quan tâm đến đời sống của đồng bào có đạo. Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng: “ hực hiện tốt các ch ơng trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đ i sống vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo” [10, tr. 238]. Trong những năm qua tỉnh Bình Ph ớc đã thực hiện đồng bộ nhiều ch ơng trình, dự án, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đ i sống vật chất, văn hóa của nhân dân trong tỉnh, trong đó có đồng bào các tôn giáo và kết quả đã đạt đ ợc những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Qua đó thể hiện sự quan tâm của chính quyền địa ph ơng đến đ i sống của đồng bào các tôn giáo trên địa bàn tỉnh. hực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã triển khai kịp th i việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Bên cạnh việc cho vay hỗ trợ lãi suất, các ngân hàng th ơng mại và Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh tỉnh Bình Ph ớc cũng đã giúp nhiều đối t ợng chính sách vay đ ợc vốn tín dụng u đãi của nhà n ớc để giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Hiện nay, tổng d nợ của Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Bình Ph ớc đạt trên 1.250 tỷ đồng [12, tr. 304]. Nh nguồn vốn vay của Ngân hàng, hàng trăm nghìn hộ nghèo ở Bình Ph ớc, trong đó có đồng bào các tôn giáo có điều kiện đầu t phát triển sản xuất kinh doanh, tạo đ ợc công ăn việc làm, có điều kiện nuôi con ăn học, làm đ ợc nhà kiên cố, mua sắm đ ợc tiện nghi sinh hoạt gia đình... góp phần làm thay đổi bộ mặt những vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn ở tỉnh Bình Ph ớc. Bên cạn đó, chính quyền rất chú trọng công tác trợ giá, trợ c ớc hàng hóa cho đồng bào dân tộc thiểu số ở 28 xã nghèo của tỉnh, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Qua đó thể hiện rõ sự quan tâm cũng nh những u tiên của chính quyền địa ph ơng đối với việc thực hiện chính sách dân tộc, chính TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO VỀ TÔN GIÁO VÀ SỰ VÂN DỤNG TƯ TƯỞNG 120 sách tôn giáo. Cùng với lĩnh vực kinh tế, việc thực hiện chủ tr ơng, chính sách và các ch ơng trình trong các lĩnh y tế, giáo dục, văn hoá cũng đ ợc quan tâm thực hiện. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế đ ợc đầu t ngày càng hiện đại và đầy đủ hơn; đội ngũ cán bộ y tế đ ợc đào tạo, tuyển dụng ngày càng đầy đủ về số l ợng, nâng cao về trình độ chuyên môn; nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân đ ợc đáp ứng ngày càng tốt hơn. Quy mô giáo dục các cấp tăng nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật từng b ớc bổ sung; chất l ợng giáo dục toàn diện đ ợc đổi mới và nâng cao; công tác h ớng nghiệp và đào tạo nghề ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; công tác giáo dục cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số ở tr ng Phổ thông Dân tộc nội trú luôn đ ợc tỉnh đặc biệt quan tâm. Bình Ph ớc là tỉnh duy nhất trong khu vực miền Đông Nam Bộ có ch ơng trình phát thanh truyền hình bằng tiếng dân tộc Xtiêng và tiếng dân tộc Khmer; Bình Ph ớc còn thực hiện ch ơng trình cấp phát miễn phí báo cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi với mục đích nâng cao sự hiểu biết cho đồng bào về đ ng lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà n ớc. Bên cạnh những thành tựu đạt đ ợc, việc thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Ph ớc trong những năm qua cũng tồn tại những hạn chế, yếu kém nhất định: Một số địa ph ơng còn có biểu hiện lúng túng, bị động khi giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo. Có nơi chính quyền cơ sở ch a phân biệt rõ giữa tín ng ỡng tôn giáo của quần chúng với âm m u thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch; Hoạt động thông tin tuyên truyền về các phong trào thi đua yêu n ớc, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân... ở một số địa ph ơng ch a đ ợc tiến hành th ng xuyên. Nội dung, hình thức, ph ơng pháp tuyên truyền, vận động ch a thật phù hợp; Hiệu quả của việc thực hiện các ch ơng trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, đ i sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo còn gặp nhiều thiếu thốn, khó khăn... Để khắc phục những hạn chế, yếu kếm trong việc thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Bình Ph ớc, ỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, các cơ quan đoàn thể, các ngành chức năng có liên quan cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng t t ởng Hồ Chí Minh về tôn giáo vào quá trình thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn tỉnh. 5. Kết luận t ởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là những chỉ dẫn mang tính khoa học và nhân văn mà ngày nay chúng ta cần phải tiếp tục đào sâu, nghiên cứu kỹ. Thực hiện chính sách đối với tôn giáo theo t t ởng Hồ Chí Minh là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ng ỡng của nhân dân; đoàn kết l ơng giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc; trân trọng những giá trị văn hóa và đạo đức của tôn giáo; th ng xuyên quan tâm đến đ i sống của đồng bào có đạo. Bởi vậy, khi ứng xử và giải quyết vấn đề tôn giáo ở n ớc ta nói chung, tại các địa ph ơng nói riêng phải nắm vững quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh về tôn giáo, không thể chỉ xem xét tôn giáo một cách phiến diện trong những mặt tiêu cực và hạn chế. Qua bài viết này, tác giả góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của t t ởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, cũng nh sự vận dụng những quan điểm khoa học đó vào quá trình thực hiện chính sách tôn giáo hiện nay tại một địa ph ơng cụ thể ở n ớc ta là tỉnh Bình Ph ớc. HỒ VĂN ĐỨC 121 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban t ởng - Văn hóa rung ơng (2002) Vấn đề về tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Cục Thống kê tỉnh Bình Ph ớc (2016), Niên giám thống kê tỉnh Bình Phước. 3. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Nguyễn Đức Lữ (2009), Tôn giáo - Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 11. Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Ph ớc (2015), Địa chí Bình Phước, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12. Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Ph ớc (2015), Địa chí Bình Phước, tập II, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 13. Tỉnh ủy Bình Ph ớc - Ban Chỉ đạo công tác tôn giáo, Báo cáo tình hình hoạt động của các tổ chức tôn giáo và việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước của các tôn giáo trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, số 17-BC/BCĐ, ngày 30/11/2016. 14. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Ph ớc (2014), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận 57- KL/TW ngày 03/11/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo. 15. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Ph ớc - Sở Nội vụ, Báo cáo tình hình tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo năm 2016; phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2017, số 30/BC-SNV, ngày 25/11/2016. 16. Viện Nghiên cứu tôn giáo (1996), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Ngày nhận bài: 04/01/2017 Biên tập xong: 15/3/2017 Duyệt đăng: 20/3/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf109_3505_2215161.pdf
Tài liệu liên quan