Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam: Tư tưởng hồ chí minh về quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở việt nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa của Người chiếm một vị trí khá
đặc biệt, nó là nền tảng cho các tư tưởng khác. Sau khi nêu những hạn chế của
nền văn hóa truyền thống, bài báo chỉ ra những định hướng cơ bản của Hồ Chí
Minh cho nền văn hóa mới ở Việt Nam, là sự kết nối giữa truyền thống và hiện
đại, mang giá trị khoa học, dựa trên nguyên tắc đại chúng. Đó chính là cơ sở để
hình thành quan điểm văn hóa xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình
thức của một giai đoạn lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam.
1. Mở đầu
Nền văn hóa cổ truyền của người Việt Nam được xây dựng trên vùng địa
văn hóa gió mùa nhiệt đới, bán đảo. Trong cái nôi phát sinh của loài người, người
Việt đã trải qua con người bộ lạc, con người của các mường Đông Nam Á rồi đến
con người làng xã định cư, trồng lúa nước. Trải qua các quá trình hoàn thiện các
công cụ lao động từ nền văn hóa đá cũ, đá mới đến thời đ...
8 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1644 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tư tưởng hồ chí minh về quá trình xây dựng nền văn hóa mới ở việt nam
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa của Người chiếm một vị trí khá
đặc biệt, nó là nền tảng cho các tư tưởng khác. Sau khi nêu những hạn chế của
nền văn hóa truyền thống, bài báo chỉ ra những định hướng cơ bản của Hồ Chí
Minh cho nền văn hóa mới ở Việt Nam, là sự kết nối giữa truyền thống và hiện
đại, mang giá trị khoa học, dựa trên nguyên tắc đại chúng. Đó chính là cơ sở để
hình thành quan điểm văn hóa xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình
thức của một giai đoạn lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam.
1. Mở đầu
Nền văn hóa cổ truyền của người Việt Nam được xây dựng trên vùng địa
văn hóa gió mùa nhiệt đới, bán đảo. Trong cái nôi phát sinh của loài người, người
Việt đã trải qua con người bộ lạc, con người của các mường Đông Nam Á rồi đến
con người làng xã định cư, trồng lúa nước. Trải qua các quá trình hoàn thiện các
công cụ lao động từ nền văn hóa đá cũ, đá mới đến thời đồ đồng, người Việt đã
nhảy xuống đồng bằng khai phá đất đai hoang dại, ẩm thấp, sình lầy, quần cư, từ
đó hình thành nên các làng, bản giống như các cư dân Nam Á khác.
Nền văn hóa cổ truyền của người Việt đã kết tinh nhiều giá trị tốt đẹp.
Chẳng hạn: Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa thích ứng, tình cảm vị tha, đức tính
hiếu học, cần cù, tiết kiệm và sáng tạo gắn chặt với cộng đồng làng xã là biểu
tượng văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam. Trong nền văn hóa cổ truyền có sự phát
triển ưu trội của các quan hệ đạo đức. Con người phải có bổn phận với cộng đồng
trên là vua, dưới là làng là cha mẹ, anh em và gia đình. Thiện ác, các tư tưởng bình
quân ngấm rất sâu vào văn hóa lao động, giao tiếp, gia đình và nhân cách mỗi
người. Bản chất kinh tế - xã hội của nó thể hiện lợi ích cộng đồng. Cơ cấu của nó,
như Hồ Chí Minh nhận dạng về chủ nghĩa Khổng Tử: làm cho “sự bình yên trong
132 xã hội không bao giờ thay đổi” (Báo Ngọn lửa nhỏ - Liên Xô, số 39, ngày 23-12-
1923).
2. Thực trạng nền văn hóa truyền thống VN trước Cách mạng Tháng Tám
Thực trạng nền văn hóa truyền thống Việt Nam trước Cách mạng Tháng
Tám 1945 có những biểu hiện sau:
2.1 Đó là một nền văn hóa theo chủ nghĩa dân tộc chật hẹp. Nền văn hóa truyền
thống đã đạt được những giá trị yêu nước to lớn, song nó phát triển cạnh chủ nghĩa
bành trướng Đại Hán nên cũng trở thành một chủ nghĩa Đại Việt hẹp hòi.
2.2 Đó là một nền văn hóa thiếu hụt một truyền thống khoa học, đặc biệt là khoa
học tự nhiên. Kết cấu giai cấp trong xã hội cổ truyền không những không có giai
cấp đại biểu cho công nghiệp mà còn vắng bóng cả tầng lớp trí thức đại biểu cho
khoa học. Kẻ sĩ trong xã hội truyền thống làm quan (văn, võ) thảo binh thư, quốc
pháp, lúc bãi triều thường làm thầy đồ, thầy thuốc và thầy địa lý để dạy chữ, bốc
thuốc chữa bệnh và trấn an tâm linh cho cộng đồng dân cư. Tư duy lý luận, các
khái niệm khoa học, phương pháp khoa học chưa được coi trọng trong nền văn
hóa truyền thống.
2.3 Nền văn hóa truyền thống của người Việt có hai dòng văn hóa rõ rệt. Dòng văn
hóa dân gian, văn hóa đại chúng thường phản ánh các kinh nghiệm sản xuất, tình
cảm yêu thiên nhiên, tình cảm trai gái, trữ tình. Nó không phải là những quan hệ,
khuynh hướng văn hóa chính thống và ưu tiên của xã hội, còn nền văn hóa bác học
thường chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Trung Quốc.
2.4 Văn hóa Trung Hoa và các tư tưởng của hệ tư tưởng Nho-Phật-Lão ảnh hưởng
rất mạnh trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Các tư tưởng này chi phối thiết
chế văn hóa lao động, văn hóa giao tiếp và các quan hệ khác, vừa ảnh hưởng lớn
đến nhân cách làm người đặc biệt là nhân cách kẻ sĩ.
3. Sự vận dụng tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh trong xây dựng nền văn
hoá mới
Năm 1943 với Đề cương về văn hóa Việt Nam của mình, Đảng Cộng sản ra
tuyên ngôn cơ cấu lại nền văn hóa truyền thống theo tư tưởng mácxít. Nhấn mạnh
các tư tưởng của Đảng Cộng sản thể hiện trong Đề cương về văn hóa Việt Nam
1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ phương thức cơ cấu lại nền văn hóa truyền
thống trong giai đoạn lịch sử mới của dân tộc. Như đã trình bày trong Báo cáo
chính trị đọc tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, ngày 11-2-1951, Hồ Chí
Minh viết rằng: “Xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ
mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc
địa và ảnh hưởng của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống
tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới
để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại
chúng”.
133 Đây là tư tưởng văn hóa bao quát nhất của Hồ Chí Minh nhằm cải biến, cơ
cấu lại nền văn hóa truyền thống Việt Nam trong giai đoạn cách mạng dân tộc –
dân chủ.
3.1 Xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ một
nguyên lý tư tưởng mới, trước hết là nguyên lý tư tưởng về truyền thống và hiện
đại. Nền văn hóa mới phải kế tục những giá trị nội sinh của nền văn hóa truyền
thống. Song nền văn hóa mới khác về chất so với nền văn hóa truyền thống, nó
đồng thời phát triển những giá trị truyền thống và hấp thụ những cái mới của văn
hóa tiến bộ. Đó là nguyên lý tư tưởng quan trọng bậc nhất của các nước đang phát
triển xây dựng nền văn hóa mới.
Như đã trình bày, chủ nghĩa yêu nước truyền thống trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là một giá trị quan trọng. Nó đã tạo nên khí phách kiên cường và chủ nghĩa
anh hùng Việt Nam. Nó thử thách cái đẹp, cái xấu, cái cao cả, cái thấp hèn, cái
chính nghĩa, cái phi nghĩa. Tuy nhiên chủ nghĩa yêu nước truyền thống coi vấn đề
dân tộc theo một thế giới quan “vị chủng”. Xây dựng nền văn hóa mới, tư tưởng
biến nền văn hóa dân tộc thành “một bộ phận tinh thần quốc tế” (1, tr.367), một
mặt, mỗi dân tộc phải chăm lo tới sự phát triển toàn diện của mình, mặt khác nó
phải xác lập được nguyên lý giao tiếp văn hóa bình đẳng trên nền tảng giá trị. Văn
hóa Việt Nam vừa kết tinh bản sắc dân tộc, vừa gắn với các giá trị văn hóa loài
người. Dưới ánh sáng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, mấy chục năm qua văn hóa
Việt Nam đã được cơ cấu lại theo định chuẩn tính dân tộc mới. Các thành tựu của
nó to lớn và đáng tự hào. Từ một đất nước hơn 90% số dân mù chữ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã phát động phong trào chống giặc dốt, đến nay 80%-90% số dân biết
chữ. Sự tham gia của Hồ Chí Minh vào việc làm trong sáng tiếng Việt đã ngày
càng làm hoàn thiện và nâng cao những giá trị văn hóa mới. Nền văn hóa mới có
giao lưu quốc tế mở rộng.
Hiệu ứng lịch sử có một quy luật rất nghiêm ngặt. Đó là quy luật phát triển
tự nhiên nội sinh của các quá trình văn hóa. Nếu truyền thống không phát triển kịp
các giá trị mới thì sự hấp thụ văn hóa sẽ gặp nhiều khó khăn và xuất hiện hai
khuynh hướng trong nền văn hóa dân tộc: Khuynh hướng bảo thủ và khuynh
hướng lai căng. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trước và cảnh báo “phải tránh nguy cơ
trở thành kẻ bắt chước” (2, tr.51).
3.2 Để phát triển được các giá trị truyền thống, hấp thụ các cái mới, cơ cấu lại nền
văn hóa Việt Nam, Đảng Cộng sản và Hồ Chí Minh coi việc xây dựng một hệ
thống các giá trị khoa học trong đời sống xã hội có một ý nghĩa đặc biệt quan
trọng.
Như đã trình bày, nền văn hóa truyền thống trong toàn cơ cấu của nó chưa
được xây dựng trên nền tảng khoa học. Nền sản xuất nhỏ, tư duy kinh nghiệm
chiếm vị trí ưu trội trong nền văn hóa ấy. Nước ta xây dựng nền văn hóa mới bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã khẳng định tư tưởng
khoa học hóa của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 là có một ý nghĩa rất
quan trọng. Quan điểm phát xít mới đã lợi dụng những thành quả của cuộc cách
134 mạng khoa học kỹ thuật nửa đầu thế kỷ XX, quốc tế hóa sự bóc lột giá trị thặng dư
định áp đặt chủ nghĩa cực quyền lên các nền văn hóa của dân tộc lạc hậu bị chúng
nô dịch. Để bù đắp sự thiếu hụt về các giá trị khoa học của nền văn hóa truyền
thống Việt Nam và cơ cấu lại nền văn hóa đó, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như
Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng chỉ có khoa học mới đưa nền văn hóa Việt Nam
bước vào thời đại mới. Chỉ có khoa học mới cải tạo được các phong tục tập quán
lạc hậu. Chỉ có khoa học mới bắt kịp được nền văn minh thế giới. Một nền văn hóa
dựa trên cơ sở khoa học là dựa vào chiếc kiềng ba chân của cái đúng, cái chân lý,
đó là: 1) Quy luật khách quan, 2) Cơ cấu công nghệ và 3) Hành lang pháp luật.
Thực chất nền văn hóa như vậy chưa từng có trong lịch sử dân tộc; bởi vì nó phải
xây dựng một cơ cấu giai cấp mới, một nhà nước pháp quyền Việt Nam và một
phương pháp tư duy biện chứng.
Để thực hiện được quá trình khoa học văn hóa, Hồ Chí Minh đã xác lập
một kế hoạch rất sâu rộng. Trước hết, Người đào tạo những chủ thể quản lý văn
hóa có trình độ khoa học và xác lập một cơ cấu xã hội công-nông-trí. Hồ Chí Minh
đã đề ra kế hoạch “dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học kỹ thuật làm cho các
cháu, ngay từ thuở nhỏ đã biết yêu khoa học” (3, tr.7). Định chuẩn khoa học mà tư
tưởng văn hóa Hồ Chí Minh đã nêu là thành quả phát triển chín muồi của nền dân
chủ quốc tế và các thành tựu khoa học kỹ thuật của thời đại. Để thực hiện được
định chuẩn này trong văn hóa, kế hoạch lớn lao và triệt để cách mạng của Hồ Chí
Minh là giải phóng các năng lực sản xuất cá nhân và thực hiện quyền dân chủ xã
hội trên nền tảng pháp luật. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh quan
tâm sâu sắc tới nền dân chủ “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết
dùng quyền dân chủ của mình” (4, tr.84).
Nền văn hóa cổ truyền có một cơ cấu giai cấp và một chủ thể văn hóa của
nó. Muốn cơ cấu lại nền văn hóa truyền thống cần phải cơ cấu lại các khuynh
hướng ưu tiên trong cơ cấu giai cấp. Chủ thể của nền văn hóa mới phải đại diện
cho một trình độ văn hóa cao. Nó cần phải có trí tuệ. Để cơ cấu lại nền văn hóa
truyền thống, Hồ Chí Minh có kế hoạch liên kết các giai cấp công nhân, nông dân,
trí thức thành một chế định xã hội mới của văn hóa. Quá trình đó là một quá trình
chuyển hóa và tăng cường khả năng trí tuệ trong cơ cấu văn hóa. Trong một lời
kêu gọi quan trọng định hướng việc hình thành chủ thể mới của nền văn hóa, Hồ
Chí Minh viết rằng: “Lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang. Công-
nông-trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
3.3 Nguyên tắc đại chúng hóa mà Đề cương văn hóa năm 1943 đã nêu được Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ II năm 1951 xuất phát từ
một quan điểm lớn của lịch sử. Đó là nguyên tắc giải phóng năng lượng sáng tạo to
lớn trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Ánh sáng của nó mở đường, rọi chiếu xuống
lòng sâu của xã hội, làm bật dậy các khả năng sáng tạo và khêu gợi trong tận cùng
tâm khảm những khát vọng sáng tạo của hàng triệu quần chúng đã từng bị lịch sử
dồn nén và bỏ quên.
135 Trên ý tưởng này, nhiều lần Hồ Chí Minh đã nói rằng: sản xuất văn hóa
nghệ thuật cốt để phục vụ nhân dân. Trong tác phẩm “Cách đường xích đạo hai
bước” do Nhà xuất bản nhà văn Liên Xô ấn hành năm 1967, ký giả Rút Bersatski
kể lại một lần gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gây ấn tượng rất mạnh cho ông.
Cuộc trao đổi giữa hai người về nhiều vấn đề quan trọng của văn hóa nghệ thuật,
trong đó vấn đề tính nhân dân của văn hóa được xem như tư tưởng quan trọng của
Hồ Chí Minh. Người nói: “Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác của nhà
văn bằng nguồn nhựa sống, còn nếu nhà văn quên điều đó – nhân dân cũng sẽ quên
anh ta” (2, tr.516).
Trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, khái niệm nhân dân, đại chúng vừa
có tính phổ cập vừa có tính nâng cao. Tính phổ cập ở chỗ dễ hiểu, nhiều người
cùng biết, nhiều người cùng thực hiện; thực hiện một lần rồi lại thực hiện nhiều
lần. Như Hồ Chí Minh thường nói về lợi ích của văn hóa nghệ thuật đối với nhân
dân, làm sao cho mọi người thích xem, khi xem thì hiểu, xem một lần rồi muốn
xem thêm. Tính nâng cao ở chỗ nó kết tinh tinh hoa của cộng đồng rộng lớn, thể
hiện cái khát vọng vươn lên của những lực lượng cách mạng và có thể cách mạng
tới cùng. Nó làm nền tảng của mọi sự phát triển lành mạnh của xã hội. Hồ Chí
Minh đã nói vể phẩm chất của nhân dân như sau: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực
giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm”.
Trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, tính phổ cập và tính nâng cao luôn
luôn tác động biện chứng trên trục giải phóng năng lượng sáng tạo của đông đảo
nhân dân lao động trong xã hội. Phổ cập để nâng cao, nâng cao để phổ cập rộng
hơn trên một trình độ cao hơn. Hồ Chí Minh coi tính cộng đồng, tính truyền cảm,
tính dễ hiểu vừa là nội dung quan trọng của cả phổ cập và nâng cao. Song Hồ Chí
Minh rất coi trọng chất lượng văn hóa. Người đã nói tới các giá trị đã kết tinh tài
năng giá trị của nhân dân. “Quần chúng là những người sáng tạo. Những sáng tác
ấy là những hòn ngọc quý” (2, tr.18).
Hồ Chí Minh quan tâm đến tính đại chúng của văn hóa trên nền tảng giá trị
và tính liên tục lịch sử. Các giá trị văn hóa do quần chúng sáng tạo, phục vụ quần
chúng, đánh thức những nhà văn hóa trong biển cả quần chúng từ thế hệ này sang
thế hệ khác tạo ra những vòng khâu chất lượng vô tận của chủ thể và đối tượng
văn hóa trong các nhu cầu ngày càng cao của lịch sử. Trong tư tưởng văn hóa Hồ
Chí Minh, tính đại chúng vừa mang tính chính trị vừa mang tính phổ cập và nâng
cao của văn hóa. Văn hóa khơi dậy các khả năng sáng tạo của đại chúng, chúng tạo
nên các chủ thể văn hóa có chất lượng cao của lịch sử. Đó chính là nội dung cơ
bản của yếu tố văn hóa trong sự phát triển của xã hội.
3.4. Văn hóa, nghệ thuật tuy có những lớp, những vùng cộng đồng rộng
lớn, song cái lõi cứng của nó vẫn là hệ tư tưởng. Nền văn hóa truyền thống của
người Việt xây dựng trên hệ tư tưởng Nho – Phật – Lão đã được Việt Nam hóa.
Đầu thế kỷ XX, nói chính xác là năm 1919 khoa thi Nho giáo cuối cùng ở nước ta
đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của hệ ý thức phong kiến trong nền giáo dục. Các
tầng lớp thanh niên năng động nhất của lịch sử đều hướng sang phương Tây, tìm
136 kiếm hệ tư tưởng mới. Một bộ phận trí thức Việt Nam đã bắt gặp các tư tưởng tự
do, bình đẳng, bác ái của các nhà khai sáng thế kỷ XX của Châu Âu. Một bộ phận
khác đã tìm gặp chủ nghĩa Mác-Lênin trong đó có Hồ Chí Minh. Ngay từ năm
1927, trong cuốn Đường Kách Mệnh của Nguyễn Ái Quốc do bộ phận tuyên
truyền của hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản đã có đoạn viết
rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, kách mệnh nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin”. Từ năm 1930, sau
khi thành lập Đảng Cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin đã dần dần chiếm ưu thế trong
đời sống xã hội. Năm 1943, với Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng Cộng sản
đã tuyên ngôn cơ cấu lại nền văn hóa mới theo lập trường mác xít. Lập trường mác
xít trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh không phải là cái gì chủ nghĩa Mác-Lênin
đã nói, đã ứng dụng ở các nước khác, cũng có thể đưa vào văn hóa Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã viết rằng: “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử
lý mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý
phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh
thực tế ở nước ta. Học để mà làm, lý luận đi đôi với thực tế”.
Nhưng có đồng chí học thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác-lênin.
Họ tự cho mình là hiểu biết chủ nghĩa Mác-Lênin hơn ai hết. Song khi gặp việc
thực tế thì họ hoặc là máy móc hoặc là lúng túng. Lời nói và việc làm của họ
không nhất trí. Họ học sách vở Mác-Lênin nhưng không học tinh thần Mác-lênin.
Học để trang sức chứ không phải học để vận dụng vào công việc cách mạng. Đó
cũng chính là “cá nhân chủ nghĩa”.
Thông qua Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, chủ nghĩa Mác đến với văn
hóa Việt Nam lúc đầu nó có sức mạnh cải tạo phong tục tập quán lạc hậu và gợi
lên lý tưởng về các giá trị văn hóa tốt đẹp: tự do, công bằng xã hội và ấm no hạnh
phúc, con người với con người là bạn bè, là anh em. Có thể nói chủ nghĩa Mác-
Lênin đã làm thay đổi nhanh chóng diện mạo nền văn hóa Việt Nam. Hàng triệu
người nghèo khổ sống dưới đáy bùn, bị lịch sử bỏ quên được chủ nghĩa Mác cổ vũ
đứng lên chống áp bức bóc lột, dành lại nhân phẩm. Nó đã thổi sinh khí mới vào
văn hóa Việt Nam. Chủ nghĩa Mác đã thúc đẩy tiềm năng tinh thần trong văn hóa
Việt Nam và định hướng cho một xã hội nhân cách xuất hiện. Nó xác lập một giá
trị mới trong lối sống Việt Nam. Nó là yếu tố văn hóa quan trọng thúc đẩy nước ta
theo con đường chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh phản ánh sự thấu hiểu sáng tạo chủ nghĩa
Mác trong hoàn cảnh thực tiễn của dân tộc Việt Nam. Người coi trọng tất cả các
giá trị tinh thần của nhân loại. Tư tưởng văn hóa của Người thấm sâu vào các định
chuẩn văn hóa của thời đại làm rõ tư tưởng bao dung Hồ Chí Minh (La tolérance).
Đó là tư tưởng kết hợp tuyệt vời giữa truyền thống và hiện đại mang tên Người.
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh cố gắng xác lập một môi trường văn hóa mà ở đó
mang tính bao dung rộng lớn giữa các dân tộc, giữa các cá nhân và xã hội, giữa
truyền thống và hiện đại. Hồ Chí Minh luôn coi trọng cộng đồng “nguyên là người
lính vâng lệnh quốc dân ra mặt trận”, Người luôn luôn chống chủ nghĩa cá nhân.
137 138
Nhưng Người lại viết rằng: “Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là
giày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng,
đời sống riêng của bản thân và gia đình mình”.
4. Kết luận
Mục tiêu của cuộc cách mạng Việt Nam trước hết là tiến tới chủ nghĩa xã
hội. Chế định xã hội của văn hóa dẫn ta tới việc phải xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa. Đó cũng là mục tiêu mà Đề cương văn hóa 1943 đã nêu và khát vọng
nhất quán trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh viết rằng: “Để phục
vụ sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. Văn hóa phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân
tộc về hình thức” (Báo Nhân dân 12-2-1960). Đây là một tư tưởng văn hóa lớn của
Hồ Chí Minh. Dân tộc Việt Nam hướng tới chủ nghĩa xã hội nếu đúng quy luật và
theo quan điểm về tính hợp lý, cách mạng phải làm hai việc với truyền thống văn
hóa như Hồ Chí Minh đã nói: 1- Phát triển các truyền thống tốt đẹp, xác lập một
truyền thống văn hóa dân tộc mới để đảm bảo tính liên tục lịch sử. 2- Hấp thụ
những cái mới để nâng văn hóa mới lên một tầm cao mới. Nội dung xã hội chủ
nghĩa trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là phản ánh các quan hệ mới giữa con
người và con người, xác lập một hệ chuẩn giá trị mới mà từ đó con người sống
đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Đó là một nền văn hóa trong lao động mỗi người được
cộng đồng tôn trọng và các cá nhân có trách nhiệm với cộng đồng; trong giao tiếp
mọi người sống có đạo đức và tình yêu thương; trong gia đình thì có lễ giáo, có kỉ
cương; mỗi nhân cách đều được phát triển hết năng lực sáng tạo nhưng luôn luôn
tôn trọng cộng đồng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_qua_trinh_xay_dung_nen_van_hoa_moi_o_viet_nam__7712.doc