Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội: Xã hội học số 3 (79), 2002 3
t− t−ởng hồ chí minh về phúc lợi xã hội
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga,
D−ơng Chí Thiện, Lê Hải Hà,
Nguyễn Thị Ph−ơng
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu T− t−ởng Hồ Chí Minh là một thách thức lớn, vì đây là một di sản
đồ sộ, phong phú và sâu sắc. Mặc dù vậy, nhóm nghiên cứu chúng tôi vẫn mạnh dạn
đặt ra cho mình nhiệm vụ này, ít nhất vì những lý do sau đây.1
Trong bối cảnh biến đổi xã hội nhanh chóng ở Việt Nam hiện nay, các vấn đề
phúc lợi xã hội đang nổi lên nh− là một trong những chủ đề trung tâm. Do sự phát
triển nhanh của nghiên cứu xã hội về thực tế Việt Nam, ngày càng tích tụ một khối
l−ợng dữ liệu và thông tin đáng kể, tạo điều kiện rút ra nhiều tri thức mới cần thiết
cho quản lý xã hội. Tuy nhiên, có vẻ nh− là vẫn còn thiếu những nền tảng lý luận và
t− t−ởng để tạo ra một khuôn khổ khái niệm cho việc xử lý khối l−ợng kiến thức trên.
Trở lại nghiên cứu di sản t− t−ởng Hồ Chí Minh là một đòi hỏi cấp bách hiện nay để
các nhà nghiên...
15 trang |
Chia sẻ: honghanh66 | Lượt xem: 1039 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xã hội học số 3 (79), 2002 3
t− t−ởng hồ chí minh về phúc lợi xã hội
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga,
D−ơng Chí Thiện, Lê Hải Hà,
Nguyễn Thị Ph−ơng
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu T− t−ởng Hồ Chí Minh là một thách thức lớn, vì đây là một di sản
đồ sộ, phong phú và sâu sắc. Mặc dù vậy, nhóm nghiên cứu chúng tôi vẫn mạnh dạn
đặt ra cho mình nhiệm vụ này, ít nhất vì những lý do sau đây.1
Trong bối cảnh biến đổi xã hội nhanh chóng ở Việt Nam hiện nay, các vấn đề
phúc lợi xã hội đang nổi lên nh− là một trong những chủ đề trung tâm. Do sự phát
triển nhanh của nghiên cứu xã hội về thực tế Việt Nam, ngày càng tích tụ một khối
l−ợng dữ liệu và thông tin đáng kể, tạo điều kiện rút ra nhiều tri thức mới cần thiết
cho quản lý xã hội. Tuy nhiên, có vẻ nh− là vẫn còn thiếu những nền tảng lý luận và
t− t−ởng để tạo ra một khuôn khổ khái niệm cho việc xử lý khối l−ợng kiến thức trên.
Trở lại nghiên cứu di sản t− t−ởng Hồ Chí Minh là một đòi hỏi cấp bách hiện nay để
các nhà nghiên cứu có thể tham khảo, tạo dựng những khung phân tích phù hợp với
thực tế phúc lợi hiện nay.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991) đã xác định cùng với chủ
nghĩa Mác-Lê Nin, T− t−ởng Hồ Chí Minh là nền tảng t− t−ởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và của dân tộc. Điều này đã trở thành động lực thúc đẩy mạnh
mẽ cho một b−ớc phát triển mới về nghiên cứu Hồ Chí Minh. Đã có những biến đổi
quan trọng trong giới nghiên cứu và về mặt định chế khoa học đối với việc nghiên
cứu di sản t− t−ởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hàng loạt đề tài khoa học cấp quốc
gia và nhiều công trình đã đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu T− t−ởng Hồ Chí Minh;
thành lập một số cơ sở nghiên cứu chuyên biệt về t− t−ởng của Ng−ời, đ−a T− t−ởng
Hồ Chí Minh lên thành môn học độc lập và giảng dạy rộng rãi.
Cần ghi nhận hai thực tế là nhiều công trình khoa học đã phân tích những
khía cạnh khác nhau trong di sản t− t−ởng của Hồ Chủ Tịch, chẳng hạn các quan
điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ
nghĩa xã hội và con đ−ờng đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, về đại đoàn kết, về
1 Bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài "T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội", Đề tài Viện Xã
hội học năm 2001. Chủ nhiệm đề tài: Bùi Thế C−ờng. Các thành viên nghiên cứu khác: Bế Quỳnh Nga,
D−ơng Chí Thiện, Lê Hải Hà, Nguyễn Thị Ph−ơng. T− liệu Th− viện Viện Xã hội học - 2002.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội 4
nhà n−ớc, về phụ nữ, về chính sách xã hội, ... Tuy nhiên, cho đến nay ch−a thấy công
trình nào quan tâm đến di sản t− t−ởng của Ng−ời về phúc lợi xã hội. Thứ hai, T−
t−ởng Hồ Chí Minh đã lôi cuốn mối quan tâm của nhiều bộ môn khoa học, nh− triết
học, kinh tế học, chính trị học, luật học, khoa học quân sự,... Tuy nhiên, còn rất ít
những công trình nghiên cứu di sản này từ góc độ xã hội học, đ−ợc thực hiện bởi các
nhà chuyên môn xã hội học.
Nh− trên đã nói, đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu ở đây là chấp nhận một thách
thức lớn. Tuy nhiên, cần sớm bắt đầu con đ−ờng khó khăn song đầy hứa hẹn. Đề tài
"T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội" là một b−ớc đi ngắn đầu tiên trên h−ớng
nghiên cứu mới mẻ này đối với xã hội học.
2. Khái niệm phân tích
Phúc lợi xã hội là một khái niệm bao hàm nhiều nghĩa, nhiều phạm vi, tùy
cách tiếp cận của từng nhà nghiên cứu. Ba thiết chế trụ cột trong một nhà n−ớc hiện
đại là chính trị, kinh tế và phúc lợi xã hội. Hệ thống phúc lợi xã hội có vai trò thiết
yếu vì nó nhằm đảm bảo các nhu cầu xã hội cơ bản của các tầng lớp dân c− và hình
thành nên những quan hệ xã hội. Là một mảng hiện thực xã hội, phúc lợi xã hội có
thể đ−ợc xem xét nh− là một hệ thống hay một định chế, mà chức năng xã hội của nó
là đảm bảo những nhu cầu xã hội thiết yếu của các tầng lớp dân c− theo những điều
kiện của cấu trúc xã hội. Nh− vậy nội dung của phúc lợi xã hội tùy thuộc vào phạm vi
những nhu cầu thiết yếu xã hội, đồng thời việc xác định những nhu cầu này do cấu
trúc xã hội quy định. Thông th−ờng, phạm vi các nhu cầu xã hội cơ bản này liên quan
đến nhu cầu về l−ơng thực thực phẩm, việc làm và phát triển nghề nghiệp, thu nhập,
nhà ở, chăm sóc sức khỏe và học tập. Với chức năng nh− vậy, phúc lợi xã hội có vai
trò lớn trong việc khắc phục khác biệt xã hội, tăng c−ờng liên kết xã hội và đảm bảo
ổn định chính trị-xã hội (Bùi Thế C−ờng, 2002).
Nh− trên đã nói, đây mới chỉ là một b−ớc đi đầu tiên mang tính chất thu thập
tài liệu và nghiên cứu thăm dò. Do đó, nhóm nghiên cứu chọn cách trình bày t− liệu
theo lịch sử, một trong những cách đơn giản và dễ dàng hơn cả.
3. T− t−ởng phúc lợi xã hội Hồ Chí Minh thời kỳ tr−ớc cách mạng
tháng Tám 1945
Toàn tập Hồ Chí Minh mở đầu từ năm 1919 với bài "Tâm địa thực dân". Từ đó
cho đến tận năm 1945, Hồ Chí Minh tập trung tìm kiếm và khẳng định con đ−ờng giải
phóng dân tộc. Trong khi làm điều này, Ng−ời luôn tìm đủ loại nguồn tài liệu để làm
sáng tỏ hoàn cảnh sống nghèo khổ và bị áp bức của nhân dân. Hồ Chí Minh cũng dành
nhiều tâm sức để suy nghĩ về chiến l−ợc phúc lợi xã hội sau khi giành đ−ợc độc lập.
Đời sống và phúc lợi nghèo nàn d−ới chế độ thực dân
Dựa vào những tài liệu và sự việc cụ thể, trong thời kỳ này Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết nhiều bài báo và tác phẩm vạch trần những tội ác của chế độ thực dân
đối với đời sống của ng−ời dân xứ thuộc địa. Nổi bật là việc nhà n−ớc cai trị đã hầu
nh− không có chi tiêu cho phúc lợi công cộng, duy trì điều kiện làm việc tồi tệ trong
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga, ... 5
các khu mỏ, đồn điền, làm đ−ờng; không đủ tr−ờng học cho trẻ em; đầu độc dân
chúng bằng r−ợu và thuốc phiện, bỏ mặc ng−ời dân khi gặp thiên tai.
Trong tác phẩm "Phong trào cách mạng ở Đông D−ơng", Nguyễn ái Quốc nói
về tình cảnh khổ cực của công nhân nh− sau: "Theo lời thú nhận của Toàn quyền
Đông D−ơng thì đời sống của thợ mỏ quá khổ cực và công việc của họ quá nặng nề
nên trong số 15.907 thợ mỏ thống kê đ−ợc vào năm 1906, không ai sống đến 60 tuổi.
Và bọn t− bản thuộc địa cũng lại viện cớ đó để từ chối không tổ chức quỹ h−u bổng
cho thợ thuyền bản xứ" (Phong trào cách mạng ở Đông D−ơng. T.1, tr. 229).
Thông qua số liệu về việc làm các con đ−ờng đi Đà Nẵng, Trấn Ninh và Lào,
Ng−ời tố cáo những ng−ời lao dịch phải đi bộ hàng trăm ki lô mét mới đến công
tr−ờng, bị giữ lại nhiều ngày, sống trong những điều kiện ăn ở và vệ sinh thảm hại.
Hoàn toàn không có y tế và lán trại trong suốt thời kỳ làm đ−ờng. Thức ăn thiếu
thốn và n−ớc uống thiếu vệ sinh. Tất cả những điều này đã dẫn đến hàng loạt những
ng−ời phu làm đ−ờng bị bệnh tật và chết chóc (Đông D−ơng - tạp dịch hay là khổ sai).
Lấy những con số thống kê, tác giả chỉ ra rằng nhà n−ớc cai trị đã chi tiêu cho
ngành y tế không đầy 400.000 phrăng và chỉ có 1 triệu phrăng cho ngành giáo dục.
Số tiền cho công việc xã hội này chỉ bằng không đầy một phần trăm số thu nhập do
bán r−ợu và thuốc phiện (Tập đoàn kẻ c−ớp. T.1, tr. 385).
Khi ng−ời dân gặp thiên tai lũ lụt, Nhà n−ớc thực dân đã hoàn toàn không
thực hiện nghĩa vụ phúc lợi của mình, ng−ợc lại còn lợi dụng để kiếm lời. Nguyễn ái
Quốc viết: "Sau những trận lụt, ng−ời An Nam ở Trung kỳ và Nam kỳ đã tổ chức
quyên góp để cứu giúp các đồng bào bất hạnh của mình. Nhà chức trách Pháp đã
xoáy mất phần lớn số tiền đó bỏ vào quỹ để nâng giá đồng phrăng lên! Mặc dù những
hiện vật quyên góp rất nhiều, nh−ng nhà chức trách chỉ phân phát cho những ng−ời
bị nạn mỗi ng−ời một tháng đ−ợc có 2 kilô r−ỡi gạo thôi!" (Sự thống trị của Đế quốc
Pháp. T. 2, tr. 253- 254).
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến tình trạng không có tr−ờng học cho trẻ
em, chỉ ra nguồn gốc về chính sách và tham nhũng của giới thực dân. Trong "Bản án
chế độ thực dân Pháp", Hồ Chủ Tịch đã lên án chế độ ngu dân, nền giáo dục què quặt
của chế độ thực dân ở các n−ớc thuộc địa, trong đó có Việt Nam. "Dân chúng đang đòi
hỏi phải có tr−ờng học, mà hiện nay, tr−ờng học đang thiếu một cách tệ hại. Mỗi
năm, cứ đến ngày khai tr−ờng, các bậc cha mẹ dù có đi gõ cửa khắp nơi, cầu xin mọi
sự giúp đỡ, thậm chí xin nộp gấp đôi tiền ăn học mà họ vẫn không gửi đ−ợc con cái
đến tr−ờng. Và những đứa trẻ này có đến hàng nghìn, bị đày vào cảnh ngu dốt, chỉ vì
không có đủ tr−ờng sở cho chúng đi học. Ng−ời ta sẽ nói rằng, vì ngân sách không đủ
cho chính phủ xây thêm tr−ờng mới. Không hẳn thế đâu. Trong số 12 triệu đồng của
ngân sách Nam kỳ, thì 10 triệu đồng đã tìm đ−ợc cách lọt vào túi các công chức"
(Nạn thiếu tr−ờng học. T. 1, tr. 154).
Mô hình phúc lợi quốc gia
Ngay trong thời kỳ đầu hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội 6
xuất những ý t−ởng xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia sau này. "Ch−ơng
trình Việt Minh" do Ng−ời soạn thảo là một văn kiện đặc biệt quan trọng, trình bày
c−ơng lĩnh giành độc lập dân tộc đồng thời mô tả những nét cơ bản nhất của một mô
hình nhà n−ớc mới, trong đó có lĩnh vực phúc lợi xã hội (Ch−ơng trình Việt Minh.
T.3, tr. 583- 586). Chính mô hình này đã góp phần động viên sức mạnh và sự tham
gia của toàn thể nhân dân vào công cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc. Mô hình mà
Ch−ơng trình đ−a ra một mặt liên quan đến những nguyên tắc phúc lợi cơ bản và
mặt khác trình bày những nội dung chủ yếu của phúc lợi theo các nhóm xã hội.
Những nguyên tắc phúc lợi cơ bản mà Ch−ơng trình đề cập bao gồm:
- Thi hành luật lao động dành cho ng−ời lao động, bao gồm cả lao động phụ nữ
và trẻ em.
- Nam nữ bình quyền.
- Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ, gây dựng nền quốc dân giáo dục, c−ỡng bức giáo
dục từ bậc sơ học, quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục dân tộc mình,
khuyến khích nền giáo dục quốc dân.
- Lập thêm nhà th−ơng, nhà đỡ đẻ, nhà d−ỡng lão.
- Nhà n−ớc chăm nom ng−ời già và kẻ tàn tật.
- Giúp đỡ gia đình đông con. Lập ấu trĩ viên để chăm nom trẻ con.
- Lập các nhà chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, th− viện để nâng cao trình độ
trí dục cho nhân dân.
Riêng về mặt giáo dục, Ch−ơng trình Việt Minh đã chú trọng đến việc tổ chức
các câu lạc bộ, các lớp học, các tổ chức giáo dục nhằm phát triển ý thức xã hội trong
thanh niên công nông. Chú trọng công tác xuất bản nhằm mục đích bảo vệ, tuyên
truyền và giúp dân chúng lớn tuổi mù chữ có đ−ợc trình độ học vấn phổ thông. Ng−ời
cho rằng hệ thống giảng dạy sẽ phải đ−ợc thay đổi sao cho con em ng−ời nghèo đ−ợc
đi học. Xây dựng chế độ học không mất tiền và chế độ tự quản cho sinh viên.
Về mặt phúc lợi cho các nhóm xã hội, tác giả tr−ớc hết đề cập đến giai cấp
công nhân và những ng−ời làm công, trong đó kể cả phụ nữ và công nhân nông
nghiệp. Ch−ơng trình Việt Minh dự kiến đảm bảo những quy định phúc lợi nh− sau:
- Quyền tổ chức các công đoàn.
- Ngày lao động 8 giờ cho ng−ời lớn và 6 giờ cho thiếu niên và những ng−ời làm
việc nặng.
- Cấm làm việc quá giờ trong những xí nghiệp độc hại, cấm sử dụng lao động
trẻ em và phụ nữ làm việc vào ban đêm.
- Hàng năm công nhân đ−ợc nghỉ phép 2 tuần.
- Trả công ngang nhau cho nam nữ công nhân.
- Đối với phụ nữ làm công việc nặng nhọc đ−ợc nghỉ 8 tuần tr−ớc khi đẻ và 8
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga, ... 7
tuần sau khi đẻ, 6 tuần nghỉ đẻ đối với phụ nữ làm công chức và làm những
công việc nhẹ, có trả l−ơng.
- Thành lập Ban kiểm tra của công nhân.
- Ban hành Luật bảo hiểm đối với công nhân.
- Nhà n−ớc có trách nhiệm giúp đỡ các tổ chức công nhân áp dụng chế độ giáo
dục ngoài nhà tr−ờng cho công nhân lớn tuổi.
Hồ Chủ Tịch quan niệm rằng trí thức là một bộ phận quan trọng trong phong
trào cách mạng ở Việt Nam. Ng−ời luôn động viên trí thức tham gia đóng góp cho
cách mạng, đồng thời khẳng định cần có những chính sách thích hợp tạo điều kiện
cho trí thức cống hiến. Trong "Ch−ơng trình Việt Minh", Ng−ời nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của phát triển nền giáo dục mang tính phổ cập và toàn diện, chú trọng
đào tạo nhân tài cho n−ớc nhà, "khuyến khích và giúp đỡ các hạng trí thức đ−ợc phát
triển tài năng của họ".
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến trẻ em khi trong "Ch−ơng trình" Ng−ời
dành nhiều quyền lợi phúc lợi cho trẻ em. Ch−ơng trình Việt Minh nêu rõ xã hội
phải bảo đảm:
- Chế độ ngày làm 6 giờ cho trẻ em. Cấm tuyển lao động trẻ em d−ới 12 tuổi.
- Mỗi tuần đ−ợc nghỉ 36 giờ, hoàn toàn đ−ợc nghỉ vào các ngày lễ.
- Cấm chủ và thợ học việc ký các hợp đồng t− nhân. Ban hành các đạo luật bảo
vệ giới học nghề.
- Cải thiện điều kiện vệ sinh trong lao động. Cấm sử dụng lao động trẻ em d−ới
16 tuổi trong các ngành sản xuất nguy hiểm.
Các tổ chức phúc lợi
Hồ Chí Minh sớm quan tâm đến vai trò của các tổ chức xã hội trong lĩnh vực
phúc lợi. Ng−ời đã dành nhiều công sức bàn về các tổ chức xã hội nh− Công hội, tổ
chức Dân cày, Hợp tác xã. Hồ Chủ Tịch đã giới thiệu về lịch sử, cách tổ chức và hoạt
động của các tổ chức này để vận dụng vào hệ thống phúc lợi xã hội của chế độ mới.
Tác phẩm "Đ−ờng kách mệnh" đã dành một phần lớn để trình bày về các tổ chức có
vai trò to lớn trong lĩnh vực phúc lợi.
Về tổ chức Công hội cho công nhân, Ng−ời giải thích về mục đích của việc lập
ra Công hội: "Tổ chức Công hội tr−ớc là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm
tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân
cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công nhân; năm là để giúp cho
quốc dân, giúp cho thế giới". Tác giả còn h−ớng dẫn cụ thể những công việc mà Công
hội nên làm, nh− tổ chức tr−ờng học cho công nhân và con em họ; tạo ra những nơi
xem sách báo; tổ chức nhà th−ơng, nhà ngủ, nhà tắm, nhà hát cho công nhân. Ng−ời
khuyến khích Công hội mở các "hiệp tác xã; tổ chức công binh, đồng tử quân" để
khuyếch tr−ơng phong trào công hội. (Đ−ờng kách mệnh- Cách tổ chức công hội. T.2,
tr. 302, 306- 307).
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội 8
Xây dựng tổ chức cho nông dân là một trong những trọng tâm đ−ợc Hồ Chủ
Tịch chú trọng. Ng−ời dặn dò những công việc mà tổ chức "Dân cày" có thể và nên
làm bao gồm: điều tra cách làm ăn và các việc trong làng; đề x−ớng làm các hợp tác
xã; mở mang giáo dục, nh− lập tr−ờng, tổ chức nhà xem sách; xây dựng nếp sống mới
("khuyên bảo anh em dân cày cấm r−ợu, a phiến, đánh bạc"); lập hội cứu tế (Đ−ờng
kách mệnh- Tổ chức dân cày. T.2, tr. 310- 311).
Hồ Chí Minh còn chỉ ra ý nghĩa chính trị của công tác phúc lợi xã hội, khi đề
cập đến các tổ chức cứu trợ quốc tế. Ng−ời viết: "Nh− n−ớc An Nam gặp lúc vỡ đê vừa
rồi, hay những khi đại hạn và lụt, nếu Quốc tế biết, chắc có giúp đỡ. Song: 1) Là vì
dân ta ch−a ai biết đến mà kêu van; 2) Là Pháp sợ Quốc tế làm cho dân ta biết cách
thân ái và liên hợp của vô sản giai cấp trong thế giới; 3) Nó sợ tuyên truyền cách
mệnh cho nên nó hết sức dấu dân ta không cho biết rằng trong thế giới có một hội
nh− thế và ngăn trở Quốc tế ấy lọt vào đến An Nam" (Đ−ờng kách mệnh- Quốc tế
giúp đỡ. T. 2, tr. 297).
4. T− t−ởng phúc lợi xã hội Hồ Chí Minh thời kỳ cách mạng tháng
Tám và kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
Giai đoạn 1945-1954 đ−ợc coi là một thời kỳ có những sự kiện vô cùng trọng
đại, mở đầu là cách mạng tháng Tám với sự ra đời của Nhà n−ớc dân chủ nhân dân
đầu tiên ở châu á. Cách mạng đã phải tiếp quản một đất n−ớc bị tàn phá nặng nề
sau hàng thập niên d−ới ách thực dân Pháp, phát xít Nhật. Đồng thời, Cách mạng đã
phải bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở
lại xâm l−ợc. Trong bối cảnh đó, Nhà n−ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ phải
tiến hành giải quyết ngay hàng loạt yêu cầu phúc lợi xã hội. Trong những ngày này,
Hồ Chủ Tịch đã dành một phần quan trọng trong suy nghĩ và hoạt động chỉ đạo của
Ng−ời để giải quyết những yêu cầu phúc lợi cơ bản và tr−ớc mắt, đồng thời từng b−ớc
xây dựng nền tảng cho một hệ thống phúc lợi xã hội mới.
T− t−ởng nền tảng về phúc lợi
T− t−ởng bao trùm của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này là ý chí đấu tranh
ngoan c−ờng cho độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân
Việt Nam. Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc không tách rời với tự do hạnh phúc
của nhân dân. Ng−ời nói: "Nếu n−ớc độc lập mà dân không h−ởng hạnh phúc tự do,
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" (Th− gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện
và làng. T. 4, tr. 56). Ng−ời nhấn mạnh thêm: "Chúng ta tranh đ−ợc tự do độc lập rồi
mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá
trị của tự do, của độc lập khi mà dân đ−ợc ăn no, mặc đủ". (Bài phát biểu tại cuộc
họp đầu tiên của ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc. T. 4, tr. 152).
Ng−ời khẳng định chính sách của Chính phủ là phải đoàn kết toàn dân thực
hiện cho đ−ợc các vấn đề thuộc lĩnh vực phúc lợi xã hội sau: "Đạo nghĩa là chính sách
của Chính phủ đối với dân chúng - chính sách này phải hợp với nguyện vọng và
quyền lợi của dân chúng. Đối với dân, Chính phủ phải thi hành một nền chính trị
liêm khiết nh− cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ xã
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga, ... 9
hội, phát triển kinh tế, văn hóa, v.v... Có nh− thế, dân chúng mới đoàn kết chung
quanh Chính phủ, ..." (Binh pháp Tôn tử. T. 4, tr. 227).
Xuất phát từ quan điểm cơ bản trên, trong bối cảnh nhiều nhà cách mạng còn
đang say s−a với nền độc lập dân tộc mới giành lại đ−ợc, Hồ Chủ Tịch đã đề ra mục
tiêu cấp bách của Chính phủ là: "Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có
ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành. Cái
mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó..." (Bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của ủy
ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc. T. 4, tr. 152). Bốn điều trên thể hiện những nội
dung cơ bản của phúc lợi xã hội.
Chống nạn đói và khởi x−ớng cứu trợ xã hội
Cách mạng tháng Tám 1945 đã nổ ra trong bối cảnh đất n−ớc vừa trải qua
một nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử làm chết hơn 2 triệu ng−ời. Đứng tr−ớc
tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định rất đúng đắn: một nhiệm vụ chủ
yếu của Chính phủ là phát động một phong trào cứu đói rộng rãi trong cả n−ớc. Vì
vậy, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Ng−ời đề ra 6 nhiệm vụ
cấp bách cần giải quyết nhằm đáp ứng những đòi hỏi tr−ớc mắt của nhân dân. "Một
là, nhân dân ta đang đói... Hơn hai triệu đồng bào chúng ta đã chết đói vì chính sách
độc ác này. Vừa rồi, nạn lụt đã phá hoại tám tỉnh sản xuất lúa gạo. Điều đó càng làm
cho tình hình trầm trọng hơn. Những ng−ời thoát chết đói nay cũng bị đói. Chúng ta
phải làm nh− thế nào cho họ sống" (Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà n−ớc Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. T. 4, tr. 7-9). Tiếp đó, Ng−ời đã đề nghị Chính phủ phát
động phong trào chống nạn đói: "Trong khi chờ đợi ngô, khoai và những thứ l−ơng
thực phụ khác, phải ba bốn tháng mới có, tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. M−ời
ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một bữa. Gạo tiết kiệm đ−ợc sẽ góp
lại và phát cho dân nghèo". (Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà n−ớc Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. T. 4, tr. 7-8).
Có thể nói Hồ Chí Minh chính là cha đẻ của cứu trợ xã hội với tính cách là
một phong trào phúc lợi khi kêu gọi nhân dân cả n−ớc mở cuộc quyên góp giúp đỡ
dân nghèo đói. "Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta
không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả n−ớc, và tôi xin thực hành
tr−ớc: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa
một bơ) để cứu dân nghèo. Nh− vậy thì những ng−ời nghèo sẽ có bữa rau, bữa cháo
để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói". (Sẻ cơm nh−ờng áo. T. 4, tr. 31).
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã làm cho một bộ phận lớn nhân dân phải tản
c−, rời bỏ tài sản, nhà cửa, nơi chôn rau cắt rốn. Điều này đặt ra một loạt những vấn
đề chính trị và xã hội. Tr−ớc hoàn cảnh nh− vậy, Hồ Chủ Tịch đã phát động một
phong trào giúp đỡ xã hội dành riêng cho đồng bào tản c−, khi kêu gọi cán bộ chính
quyền và toàn thể nhân dân ở những vùng có đồng bào tản c− đến giúp đỡ ng−ời dân
tản c− nhanh chóng ổn định và bảo đảm cuộc sống vật chất và tinh thần.
Ng−ời viết: "Hiện n−ớc ta đang kháng chiến, từ đây ra Bắc có những nơi,
thành thị biến thành chiến tuyến, có nhiều đồng bào tản c− không chịu ở lại với Pháp
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội 10
mà đi rất cực khổ, phần đông tay không chân rời. ở Hà Nội có nhiều ng−ời tay đốt
nhà mình, phá nhà mình đi. Nay đồng bào hậu ph−ơng có ăn mà để họ đói, có áo mà
để họ rét, có đúng không? Mong đồng bào ủng hộ đồng bào đó, giúp đỡ đồng bào tản
c− tức là giúp đỡ kháng chiến, giúp cho kẻ có vốn để có thể tự lực đ−ợc, kẻ không có
vốn thì giúp họ có công ăn việc làm, chỗ ở". (Bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ,
trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa. T. 5, tr. 57-63). "Lúc này, nhiều đồng bào phải tản
c−, để tránh sự giết hại, dâm hiếp của địch. Trong lúc tản c−, không tránh khỏi mệt
nhọc đói khát. Vậy đồng bào tản c− đến đâu, thì đồng bào ở nơi đó- tr−ớc hết là các
ban hành chính, các ban tản c−, anh em thanh niên, chị em phụ nữ, các cháu nhi
đồng - cần phải an ủi họ, giúp đỡ họ. Có cơm giúp cơm, có cháo giúp cháo. ít nhất
cũng có một bát n−ớc chè, một lời thân ái gọi là tỏ nghĩa đồng tình. "Nhiễu điều phủ
lấy giá g−ơng, Ng−ời trong một n−ớc phải th−ơng nhau cùng". Tuyệt đối chớ lợi dụng
dịp này, mà đối với đồng bào tản c−, mua rẻ bán đắt, hoặc làm khó dễ ..." (Th− gửi
đồng bào hậu ph−ơng. T. 5, tr. 81).
Không chỉ phát động một phong trào cứu trợ xã hội, bằng các chính sách và
sắc lệnh từ c−ơng vị của mình, Hồ Chí Minh còn tạo dựng từng b−ớc cả một hệ thống
chính sách và định chế cứu trợ xã hội, làm cơ sở cho bộ phận này trong những thời kỳ
sau. Chẳng hạn, đối với các nhóm xã hội yếu thế nh− ng−ời già, trẻ em, ng−ời đau
ốm, thai sản, Ng−ời chỉ thị: "Về xã hội: Thiết lập nhà d−ỡng lão, nhà trẻ, mở nhiều
nhà th−ơng, cứu tế những ng−ời thất nghiệp, cấm chỉ bán dâm, lập nhà hộ sinh"
(Th− gửi t−ớng Trần Tu Hòa. T. 4, tr. 117- 118).
Chống giặc dốt, mở rộng giáo dục và xây đời sống mới
Tình trạng mù chữ của hơn 90% dân số đ−ợc Hồ Chủ Tịch xem nh− là một
trong ba "quốc nạn", bởi theo Ng−ời "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Vì vậy,
Ng−ời đã coi xóa nạn mù chữ cho đông đảo dân c− là một nhiệm vụ phúc lợi hàng
đầu của Nhà n−ớc cách mạng. Ng−ời nói: "Số ng−ời Việt Nam thất học so với số ng−ời
trong n−ớc là 95 phần trăm, nghĩa là hầu hết ng−ời Việt Nam mù chữ. Nh− thế thì
tiến bộ làm sao đ−ợc? Nay chúng ta đã giành đ−ợc quyền độc lập. Một trong những
công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí. Chính phủ đã ra
hạn trong một năm, tất cả mọi ng−ời Việt Nam đều phải biết chữ quốc ngữ" (Chống
nạn thất học. T. 4, tr. 36-37). Xa hơn, Bác yêu cầu rằng ng−ời dân biết chữ là để "có
kiến thức mới", từ đó mới có thể làm chủ đ−ợc vận mệnh của đất n−ớc và bản thân.
"... Mọi ng−ời Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng n−ớc nhà, và tr−ớc
hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ" (Chống nạn thất học. T. 4, tr. 36-37).
Ng−ời đã xác định rõ khía cạnh phúc lợi trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục của
Chính phủ là phải: "Về văn hóa: Thực hành chế độ giáo dục bắt buộc, mở nhiều
tr−ờng học, rạp hát, tổ chức các lớp bình dân học vụ, giúp đỡ những ng−ời nghèo mà
hiếu học. Phát triển thể dục, đức dục, bãi bỏ học phí nhập học do ng−ời Pháp đặt ra"
(Th− gửi t−ớng Trần Tu Hòa. T. 4, tr. 117-118).
H−ởng ứng lời kêu gọi này của Ng−ời, một phong trào toàn dân rộng lớn
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga, ... 11
ch−a từng thấy thanh toán nạn mù chữ đã đ−ợc thực hiện trên cả n−ớc. Đây có thể
là phong trào xóa mù chữ mang tính quần chúng lớn nhất đầu tiên trong thế giới
các n−ớc thuộc địa, điều đã góp phần khiến cho UNESCO công nhận Hồ Chí Minh
là danh nhân văn hóa thế giới. Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn hai triệu ng−ời
đã biết đọc, biết viết. Và chỉ sau 5 năm nắm chính quyền, Nhà n−ớc mới đã ghi
đ−ợc một thành tích vang dội là giúp cho khoảng 13 triệu ng−ời dân Việt Nam biết
đọc biết viết.
Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm xóa nạn mù chữ, tầm nhìn của Ng−ời nhằm
tới hai chân trời xa hơn cho dân tộc: tạo dựng một nền giáo dục tiên tiến cho toàn
dân và xây đời sống mới. Điều này thể hiện trong lời căn dặn giáo viên: "Đồng thời
tôi mong rằng các lớp bình dân học vụ chẳng những dạy cho đồng bào học chữ, làm
tính mà dạy thêm về công cuộc kháng chiến, cứu n−ớc, tăng gia sản xuất, giúp mùa
đông binh sĩ, giúp đồng bào tản c−, khoa học th−ờng thức" (Th− gửi ông giám đốc và
toàn thể nam nữ giáo viên bình dân học vụ khu III. T. 5, tr. 307-308). "Trong phong
trào Thi đua ái quốc, tôi mong các bạn cũng hăng hái xung phong. ... các bạn thi đua
để tiến lên một b−ớc nữa, bằng cách dạy cho đồng bào: 1. Th−ờng thức vệ sinh, để
dân bớt ốm đau. 2. Th−ờng thức khoa học, để dân bớt mê tín nhảm. 3. Bốn phép tính,
để làm ăn có ngăn nắp. 4. Lịch sử và địa d− n−ớc ta (vắn tắt bằng thơ hoặc ca), để
nâng cao lòng yêu n−ớc. 5. Đạo đức của công dân, để thành ng−ời công dân đứng
đắn" (Th− gửi nam nữ chiến sĩ bình dân học vụ. T. 5, tr. 489-490).
Khởi x−ớng chính sách −u đãi xã hội
Cuộc kháng chiến ác liệt chống Pháp xâm l−ợc đã khiến cho dân tộc chịu
nhiều hy sinh, mất mát. Cùng với thời gian và mức độ khốc liệt của chiến tranh, số
l−ợng liệt sĩ th−ơng binh ngày càng tăng. Hồ Chủ Tịch cũng chính là ng−ời đã khởi
x−ớng công tác giúp đỡ th−ơng binh, gia đình liệt sĩ, điều sau này đã trở thành vừa là
một phong trào vừa là một bộ phận của hệ thống phúc lợi xã hội quốc gia.
Ng−ời viết: "Th−ơng binh là những ng−ời đã hy sinh gia đình, hy sinh x−ơng
máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các
đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ
những ng−ời con anh dũng ấy. Trong lúc chống nạn đói kém, đồng bào ta đã từng
mỗi tuần nhịn ăn một bữa để giúp các đồng bào bị đói. Bây giờ chống nạn ngoại xâm,
tôi chắc đồng bào ta sẽ vui lòng vài ba tháng nhịn ăn một bữa để giúp đỡ chiến sĩ bị
th−ơng. Ngày 27 tháng 7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý
yêu mến th−ơng binh. Nh−ng tôi e trong lúc thi hành, hăng hái thái quá, vậy tôi xin
đề nghị: 1) Hôm đó các cụ già th−ợng thọ, các cháu bé sơ sinh, các bộ đội các mặt
trận, những đồng bào đang đau yếu, thì không nên nhịn. Còn các cơ quan, các bộ đội,
các tr−ờng học, các đoàn thể và toàn thể đồng bào cả n−ớc đều nhịn ăn một bữa. 2)
Đó là việc hiếu nghĩa, mọi ng−ời tự động làm, tuyệt đối không c−ỡng bức... 4) Hôm đó
tuy các giới, các tổ chức đều hăng hái tham gia, đặc biệt là đoàn thể phụ nữ, thanh
niên và nhi đồng cần phải ra sức tuyên truyền, giải thích và giúp việc. Luôn luôn tin
vào lòng nh−ờng cơm, sẻ áo của đồng bào ta, tôi chắc rằng "Ngày th−ơng binh" sẽ có
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội 12
kết quả mỹ mãn. Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã
biếu tôi, một tháng l−ơng của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ
Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai m−ơi bảy đồng (1.127đ00)" (Th− gửi ban
th−ờng trực của ban tổ chức "Ngày th−ơng binh toàn quốc". T. 5, tr. 175-176).
Ng−ời đã phát động và cổ vũ cho các phong trào giúp đỡ th−ơng binh, gia đình
liệt sĩ d−ới nhiều hình thức nh−: nhận con liệt sĩ làm con nuôi, lập hội nghĩa th−ơng,
lập an d−ỡng đ−ờng, quĩ ủng hộ và giúp đỡ th−ơng binh và gia đình liệt sĩ; đ−a
th−ơng binh về sống trong cộng đồng, cấp đất cho th−ơng binh, giúp đỡ th−ơng binh
trong việc tăng gia sản xuất và các công việc hàng ngày có thể đ−ợc. Ng−ời đã nhấn
mạnh đến t− t−ởng giúp đỡ th−ơng binh lâu dài, tại cộng đồng và hội nhập xã hội.
Hồ Chủ Tịch viết: "Anh em th−ơng binh đã hy sinh một phần x−ơng máu để
giữ gìn Tổ quốc, bảo vệ đồng bào, đã tận trung với n−ớc, tận hiếu với dân. Họ đã làm
tròn nhiệm vụ, họ không đòi hỏi gì cả. Song đối với những ng−ời con trung hiếu ấy,
Chính phủ và đồng bào phải báo đáp nh− thế nào cho xứng đáng? Tôi có ý kiến nh−
sau: Chính quyền, đồng bào và các đoàn thể nhân dân trong mỗi xã phải tùy theo sự
cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em th−ơng binh. Giúp lâu
dài, chứ không phải chỉ giúp trong một thời gian. Không phải giúp bằng cách góp gạo
nuôi th−ơng binh, nh−ng giúp bằng cách này: 1. Mỗi xã trích một phần ruộng công,
nếu không có ruộng công thì m−ợn ruộng của những đồng bào hằng tâm hằng sản,
nếu không m−ợn đ−ợc ruộng thì chính quyền, đoàn thể và đồng bào trong xã chung
sức phát vỡ một số đất mới để giúp th−ơng binh. 2. Chính quyền, đoàn thể và đồng
bào trong xã sẽ tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi
sẽ để nuôi th−ơng binh. 3. Tùy theo số ruộng đất trích đ−ợc, m−ợn đ−ợc hoặc khai
khẩn đ−ợc, mà đón nhiều hoặc ít th−ơng binh về xã. Anh em th−ơng binh sẽ tùy sức
mà làm những công việc nhẹ, nh− học may vá, đan lát, hớt tóc hoặc giúp việc phòng
giấy, giúp việc bình dân học vụ trong làng v.v... Nh− thế thì đồng bào mỗi xã đã đ−ợc
thỏa mãn lòng −ớc ao báo đáp anh em th−ơng binh; mà anh em th−ơng binh thì đ−ợc
yên ổn về vật chất và vui vẻ về tinh thần và vẫn có dịp tham gia sự hoạt động ích lợi
cho xã hội" (Th− gửi cụ Bộ tr−ởng Bộ th−ơng binh, cựu binh. T. 6, tr. 261-262).
5. T− t−ởng phúc lợi xã hội Hồ Chí Minh thời kỳ Xây dựng chủ nghĩa
xã hội (1954 - 1969)
Sau hòa bình lập lại năm 1954, lịch sử Việt Nam b−ớc vào một thời kỳ vừa lặp
lại vừa mới mẻ ch−a từng đ−ợc đặt ra trong quá khứ. Một mặt, một lần nữa đất n−ớc
lại bị chia cắt thành hai miền Nam-Bắc giống nh− thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh,
một thời kỳ chia cắt kéo dài nhiều thế kỷ và chỉ đ−ợc chấm dứt bởi ng−ời anh hùng
Nguyễn Huệ. Lần chia cắt này tạo ra một nguy cơ lịch sử, điều có thể trở thành một
cản trở đối với sự thống nhất và phát triển đất n−ớc. Mặt khác, một loạt những điều
kiện lịch sử đã dẫn đến việc miền Bắc Việt Nam có thể đi vào quỹ đạo xây dựng chế
độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh này đã dẫn đến quyết định của Đảng và Hồ Chủ
Tịch rằng giai đoạn sắp tới cách mạng Việt Nam phải đồng thời tiến hành hai nhiệm
vụ chiến l−ợc: tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga, ... 13
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong thời gian này, T− t−ởng của Hồ Chí Minh
về những vấn đề phúc lợi xã hội đ−ợc thể hiện trong hoàn cảnh đặc biệt của miền
Bắc Việt Nam vừa chuẩn bị góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất n−ớc,
vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội và phúc lợi
B−ớc sang giai đoạn mới, Hồ Chí Minh xác định chăm lo đời sống của nhân
dân là một mục tiêu hàng đầu của Nhà n−ớc. "Kiên quyết nâng cao dần mức sống
của nhân dân, tr−ớc hết là của công nhân, bộ đội và công chức, đồng thời giảm nhẹ
dần sự đóng góp của nông dân (T. 7, tr. 48). "Tất cả những việc Đảng và Chính phủ
đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà không nhằm mục đích
ấy là không đúng" (T. 7, tr. 150).
Mục tiêu này đã đ−ợc Bác gắn với chủ nghĩa xã hội, khi ta thấy trong mọi
định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, bao giờ cũng thấy Bác nêu vấn đề đời sống của các
tầng lớp nhân dân. Trong một văn kiện rất quan trọng của Đảng, Bác nói chủ nghĩa
xã hội "tr−ớc hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
ng−ời có công ăn việc làm, đ−ợc ấm no và sống một đời hạnh phúc" (Ba m−ơi năm
hoạt động của Đảng ta. T. 10, tr. 17).
Khi nói chuyện ở tỉnh Lạng Sơn, Bác lại xác định: "Chủ nghĩa xã hội là mọi
ng−ời dân đ−ợc áo ấm cơm no, nhà ở tử tế, đ−ợc học hành" (Nói chuyện với đồng bào
và cán bộ tỉnh Lạng Sơn. T. 10, tr. 72). Trong mọi định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chủ Tịch đều gắn với mục đích của nó, đó là "Mục đích của chủ nghĩa xã hội là
không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân" (Nói chuyện với Đại hội Đảng bộ
thành phố Hà Nội. T. 10, tr. 159). Điều này cho thấy một sự gắn bó chặt chẽ giữa chủ
nghĩa xã hội và phúc lợi trong quan niệm của Bác về phúc lợi xã hội. Ng−ời cũng
nhấn mạnh rằng con đ−ờng phát triển phúc lợi là công nghiệp hóa (Con đ−ờng phía
tr−ớc. T. 10, tr. 40).
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội một mặt là sự công bằng trong lao
động và h−ởng thụ, đồng thời là phúc lợi cho những nhóm ng−ời yếu thế. "Chủ nghĩa
xã hội là công bằng hợp lý: làm nhiều h−ởng nhiều, làm ít h−ởng ít, không làm thì
không đ−ợc h−ởng. Những ng−ời già yếu và tàn tật sẽ đ−ợc nhà n−ớc giúp đỡ chăm
nom” (T. 9, tr. 175). “Trừ các cụ già yếu nhiều tuổi, những ng−ời th−ơng tật, phụ nữ
có thai, các cháu bé, còn ai có sức lao động mà trốn trách nhiệm, l−ời biếng không đi
chống hạn sẽ phải phạt. Còn phạt nh− thế nào sẽ do khu, tỉnh, huyện quy định cho
đúng mức” (T. 9, tr. 18).
Đảng và phúc lợi xã hội
Hồ Chí Minh cho rằng trong công tác lãnh đạo nói chung của Đảng cần đặc
biệt quan tâm đến phúc lợi của con ng−ời, xem đây là một nội dung công tác chính
trong mọi giai đoạn của cách mạng, nhất là trong giai đoạn đồng thời tiến hành hai
nhiệm vụ chiến l−ợc. Trong "Bài nói tại Hội nghị tổng kết công tác của Bộ công
nghiệp", Bác đã phê phán xu h−ớng một số cán bộ thiếu quan tâm đến việc phát
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội 14
triển đời sống công nhân. Bác nhấn mạnh đến công tác làm nhà ở, nhà giữ trẻ, câu
lạc bộ, vệ sinh, an toàn lao động, cải thiện điều kiện làm việc (T. 10, tr .43).
Bác chỉ ra ý nghĩa của phúc lợi đối với nhân dân và kết luận: "Vì vậy chính
sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân.
Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy
cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống d−ới đều phải hết sức quan tâm đến đời
sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và
tiết kiệm. Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đ−a ra sẽ
dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng
không thực hiện đ−ợc" (Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói. T. 7, tr. 260).
Hồ Chí Minh cho rằng nhiệm vụ của cán bộ quản lý không phải chỉ là những
công việc lớn mang tính chiến l−ợc, mà còn là đời sống trực tiếp của ng−ời d−ới
quyền. Ng−ời dạy "Phải quan tâm tới điều kiện sinh hoạt vật chất của công nhân.
Cán bộ từ trên xuống d−ới phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ ở, chỗ làm việc của công
nhân, h−ớng dẫn anh chị em cách tổ chức nhà ăn, nhà ở, nhà giữ trẻ cho tốt, cho chu
đáo" (Bài nói chuyện tại Hội nghị phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung −ơng lần thứ
ba về Kế hoạch nhà n−ớc năm 1961. T. 9, tr. 15).
Hồ Chủ tịch nhấn mạnh việc chăm lo đến đời sống nhân dân, đặc biệt là của
những nhóm ng−ời có công là "nhiệm vụ thiêng liêng". Bác nói: "Tất cả chúng ta từ
trên xuống d−ới, cán bộ cũng nh− Đảng viên, đoàn viên phải làm nhiệm vụ thiêng
liêng của chúng ta là quan tâm lo lắng đến đời sống của nhân dân. Phải giúp đỡ
nhân dân trong mọi việc. Tùy hoàn cảnh và khả năng của mình giúp đỡ anh em
th−ơng binh, bệnh binh, anh em phục viên, gia đình chiến sĩ, liệt sĩ. Bởi vì anh em
th−ơng binh, bệnh binh cũng nh− gia đình liệt sĩ đó là những ng−ời đã có những cống
hiến đối với tổ quốc ...Vì vậy chúng ta phải giúp đỡ thực sự về tinh thần lẫn vật chất"
(Nói chuyện với Hội nghị cán bộ toàn tỉnh Nghệ An. T. 8, tr. 413).
Phúc lợi là sự nghiệp của chính nhân dân
Mặc dù nhấn mạnh đến trách nhiệm lãnh đạo và chăm lo của Đảng đến phúc
lợi, song Bác cũng khẳng định rằng phúc lợi là sự nghiệp của chính ng−ời dân. "Cứ
chờ Đảng và chờ Chính phủ giúp đỡ, thì không đúng đâu. Đảng và Chính phủ đề ra
chính sách, phái cán bộ về h−ớng dẫn, thế là giúp đỡ. Nh−ng đó là phụ. Lực l−ợng
nhân dân tổ chức nhau lại là chính. Không nên ỷ lại, mà phải tự lực cánh sinh. Việc
cải thiện đời sống cho nhân dân cũng phải do nhân dân tự giúp lấy mình là chính"
(Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cải cách miền biển. T. 7, tr. 114-115).
Tổ chức phúc lợi: hợp tác xã và công đoàn
Trong hệ thống quan niệm phúc lợi xã hội của mình, Hồ Chí Minh đã dành
cho công đoàn một vị trí quan trọng. Ng−ời nhấn mạnh mục đích của công đoàn là
cải thiện dần đời sống công nhân, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của giai cấp
công nhân nói riêng và của nhân dân nói chung (Nói chuyện ở Tr−ờng cán bộ công
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga, ... 15
đoàn. T. 7, tr. 567). Do đó, "Cán bộ công đoàn phải tùy khả năng mà cải thiện đời
sống vật chất và văn hóa của công nhân, vì đời sống vật chất và văn hóa có khá thì
làm việc mới tốt. Cho nên cần phải chú ý cải thiện sinh hoạt cho công nhân" (Bài nói
tại Hội nghị cán bộ công đoàn. T. 8, tr. 343).
Phê phán việc thiếu quan tâm đến an toàn lao động, Bác cho rằng điều này
phản ánh việc thiếu quý trọng con ng−ời, xem nhẹ phúc lợi của con ng−ời. "Nhiều nơi
thiếu giáo dục công nhân về kỷ luật lao động, về ý thức làm chủ và về bảo hộ lao
động. Một số nơi đã để xảy ra tai nạn lao động, điều đó rất đáng tiếc. Chúng ta phải
quý trọng con ng−ời, nhất là công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội.
Chúng ta cần phải hết sức bảo vệ, không để xảy ra tai nạn lao động" (Bài nói tại Hội
nghị cán bộ công đoàn. T. 8, tr. 343).
Bản Di chúc - một phác thảo toàn diện cho phúc lợi sau chiến tranh
Nhiều công trình và bài viết đã phân tích về tầm vóc trí tuệ và nhân văn của
Bản Di chúc Hồ Chủ Tịch. Tuy nhiên, ng−ời ta còn ít thấy rằng văn bản này thực sự
là một kế hoạch toàn diện về phúc lợi cho nhân dân.
Trong Di chúc, Ng−ời nhấn mạnh sau khi thắng lợi, "Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân" (Di chúc. T. 10, tr. 835). Bác đã đề cập đến lĩnh vực y tế và giáo
dục cho nhân dân: "ở đây nói về kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp
đẽ, đàng hoàng hơn tr−ớc khi chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế.
Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới
của nhân dân, nh− phát triển các tr−ờng nửa ngày học tập nửa ngày lao động..." (Di
chúc. T. 10, tr. 41-43).
Tiếp theo, trong Di chúc Bác đã đề cập đến các định h−ớng chính sách cơ bản
cho mọi tầng lớp dân c−. Chẳng hạn, Bác đã yêu cầu phải làm tốt công tác −u đãi xã
hội cho những ng−ời đã có cống hiến trong chiến tranh. "Đối với những ng−ời đã
dũng cảm hy sinh một phần x−ơng máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du
kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách
làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp
với mỗi ng−ời để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh ... Đối với các liệt sĩ, mỗi địa
ph−ơng (thành phố, làng xã) cần xây dựng v−ờn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh
anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu n−ớc cho nhân dân ta...
Đối với cha mẹ, vợ con (của th−ơng binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng
thiếu, thì chính quyền địa ph−ơng (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác
xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị
đói rét" (Di chúc. T. 10, tr. 41-43).
Hồ Chủ Tịch còn chú ý đến cả những ng−ời lầm lỗi cần sự giúp đỡ xã hội:
"Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, nh− trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn
lậu,v.v..., thì nhà n−ớc phải vừa dùng giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ,
giúp họ trở nên những ng−ời lao động l−ơng thiện" (Di chúc. T. 10, tr. 41-43).
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
T− t−ởng Hồ Chí Minh về phúc lợi xã hội 16
6. Kết luận
Trong kho tàng t− t−ởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có một hệ thống các luận
điểm về phúc lợi xã hội. Điều này xuất phát từ động lực duy nhất và ngay từ đầu
trong cuộc đời đấu tranh của Ng−ời, đó là độc lập dân tộc và ấm no hạnh phúc cho
đồng bào của mình, tr−ớc hết là nhân dân lao động. Từ quan niệm cơ bản này, Ng−ời
đã phát triển nên hệ thống t− t−ởng của mình, trong đó có t− t−ởng về phúc lợi xã
hội. T− t−ởng này đã đ−ợc Bác dành nhiều tâm sức ngay trong thời kỳ suy nghĩ tìm
con đ−ờng cứu n−ớc. Kết quả là ngay từ tr−ớc cách mạng thành công, Ng−ời đã đề
xuất những ý t−ởng chủ yếu về hệ thống phúc lợi cho xã hội mới.
Trong từng thời kỳ cách mạng cụ thể, Hồ Chủ Tịch đã trực tiếp chỉ đạo công tác
phúc lợi xã hội, xuất phát từ yêu cầu thực tế mà tập trung vào những mắt xích quan
trọng nhất để đột phá. Điều này chỉ có thể làm đ−ợc trên cơ sở vừa có một chủ thuyết
rõ ràng về phúc lợi, vừa có khả năng nắm bắt đ−ợc những yêu cầu của đời sống nhân
dân. D−ới những chủ tr−ơng mang tính lý luận và định h−ớng cũng nh− d−ới sự chỉ
đạo trực tiếp của Hồ Chủ Tịch, qua thời gian, Nhà n−ớc Việt Nam đã dần dần hình
thành nên hệ thống phúc lợi quốc gia mang đậm nét t− t−ởng xã hội của Hồ Chí Minh.
Thời kỳ tr−ớc cách mạng tháng Tám, trong lĩnh vực phúc lợi Bác dành nhiều
sự chú ý đến việc làm rõ tình trạng khổ cực của nhân dân trong chế độ thực dân
phong kiến. Đây là một cơ sở nhận thức cho hành động cách mạng, và cũng là một
nội dung quan trọng làm cơ sở cho các hoạt động phúc lợi. Ng−ời cũng đã phác họa
nên những ý t−ởng chủ yếu về hệ thống phúc lợi cho xã hội mới, nhìn từ góc độ các
nguyên tắc cơ bản cũng nh− từ góc độ phúc lợi đối với các nhóm xã hội chủ yếu
trong xã hội. Ng−ời ta cũng có thể thấy đ−ợc những gợi ý về các tổ chức xã hội phục
vụ trong lĩnh vực phúc lợi.
Ngay từ ngày đầu thành lập n−ớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh
đã đ−a ra nhiều t− t−ởng và quan điểm cơ bản về phúc lợi xã hội của n−ớc ta, đ−ợc
xem nh− là những cơ sở và nền tảng ban đầu của những vấn đề về phúc lợi xã hội ở
Việt Nam những năm sau này.
Những t− t−ởng và quan điểm cơ bản của Hồ Chủ Tịch về phúc lợi xã hội đã xuất
phát từ thực tiễn cụ thể của đất n−ớc, tập trung vào những mắt xích quan trọng nhất để
đột phá. Những t− t−ởng và quan điểm cơ bản của Hồ Chủ Tịch về phúc lợi xã hội đã
đ−ợc Ng−ời nêu lên, bao gồm một hệ thống vấn đề có quan hệ rất chặt chẽ với nhau:
- Những vấn đề thuộc nền tảng của phúc lợi xã hội: Đấu tranh giành độc lập tự
do, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với mang lại hạnh phúc ấm no cho mọi ng−ời dân; Vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc... Đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt giai cấp, tầng
lớp xã hội, tôn giáo, sắc tộc.
- Những nội dung thuộc những lĩnh vực cơ bản và những nhóm đối t−ợng của
phúc lợi xã hội: Cứu đói; Xóa nạn mù chữ; Bầu cử tự do và bình đẳng; Xóa bỏ bất
bình đẳng nam - nữ; Mở mang hệ thống y tế, giáo dục; Chăm sóc và trợ giúp th−ơng
binh, gia đình liệt sĩ; Trợ giúp đồng bào tản c−; Chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bảo vệ
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.ac.vn
Bùi Thế C−ờng, Bế Quỳnh Nga, ... 17
và chăm sóc ng−ời già, phụ nữ, ng−ời ốm đau, ng−ời thất nghiệp, v.v...
- Những biện pháp, giải pháp thực hiện phúc lợi xã hội đều vừa mang tính cơ
bản, lâu dài, vừa mang ý nghĩa trực tiếp tr−ớc mắt, vừa đa dạng, phong phú về hình
thức tổ chức thực hiện: Phát triển tăng gia sản xuất, chú trọng phát triển sản xuất
nông nghiệp, song không bỏ quên phát triển các lĩnh vực sản xuất khác nh− công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, th−ơng nghiệp...; Thực hiện chính sách thuế, chính
sách ruộng đất mới; Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô; Thực hiện thông
qua các phong trào thi đua (tuần lễ vàng, tấc đất tấc vàng, ái quốc, đời sống mới);
Thực hành các hình thức gây quĩ (nghĩa th−ơng, kháng chiến, độc lập,...); Lấy ngày
27-7 hàng năm là ngày toàn dân nhớ ơn các th−ơng binh, gia đình liệt sĩ; Tổ chức
giúp đỡ và chăm sóc th−ơng binh, gia đình liệt sĩ, ng−ời di tản, chăm sóc và giáo dục
trẻ em, v.v... d−ới mọi hình thức có thể đ−ợc.
Tất cả các biện pháp, giải pháp, hình thức trên chỉ có thể thực thi có hiệu quả
các lĩnh vực cơ bản của phúc lợi xã hội, đều dựa trên quan điểm là huy động và phát
huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân: của hệ thống Chính phủ và
chính quyền các cấp, của các tổ chức xã hội, của các dân tộc, các tôn giáo và của mọi
ng−ời dân cùng tham gia.
Những t− t−ởng của Bác trong giai đoạn 1954-1969 đ−ợc gắn với hoàn cảnh lịch
sử miền Bắc Việt Nam vừa giành độc lập, miền Nam đang bị đế quốc Mỹ xâm l−ợc.
Nhìn chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm rất rõ những đặc điểm thực tế và t− t−ởng
của Ng−ời là cơ sở cho Chính phủ đề ra chính sách trong tình hình mới. Một trong
những quan tâm của Ng−ời trong giai đoạn này là làm sao cho kinh tế phát triển, cải
thiện đời sống nhân dân. Hồ Chí Minh đã gắn chặt giữa chủ nghĩa xã hội với phúc lợi
xã hội, xem đây là mục đích của chủ nghĩa xã hội. Hồ Chủ Tịch nhấn mạnh vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phúc lợi, xem đây là trách nhiệm của mọi cán bộ.
Đồng thời, Ng−ời lại nhấn mạnh phúc lợi xã hội là sự nghiệp của chính nhân dân.
Toàn bộ t− t−ởng phúc lợi của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này toát lên một quan niệm
và chiến l−ợc rõ ràng về một hệ thống và kế hoạch phúc lợi cho ng−ời dân.
Tài liệu tham khảo
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Tập bài giảng T− t−ởng Hồ Chí Minh. Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, 2001.
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. T.1 - T.12. Xuất bản từ 1994 - 1999
3. Hồ Chí Minh về Chính sách xã hội. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995.
4. Lê Thi: Chủ tịch Hồ Chí Minh và con đ−ờng đ−a phụ nữ Việt Nam đi tới bình đẳng tự do,
phát triển. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1990.
5. Bùi Thế C−ờng: Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90. Hà Nội-2002.
6. Nguyễn Mạnh Hảo: Ph−ơng pháp xã hội học trong di sản t− t−ởng Hồ Chí Minh. Viện
Khoa học xã hội nhân văn quân sự. Hà Nội-2000.
Bản quyền thuộc Viện Xó hội học. www.ios.org.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- so3_2002_buithecuong_8345.pdf