Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay - Vũ Thị Thu Huyền

Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay - Vũ Thị Thu Huyền: 55 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐĨ ĐỐI VỚI CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Vũ Thị Thu Huyền* TĨM TẮT Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luơn luơn quan tâm đến vấn đề xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người đã chỉ rõ: Khơng cĩ quần chúng thì khơng cĩ lực lượng. Khơng cĩ Đảng thì khơng cĩ người lãnh đạo, hướng dẫn, chỉ đường. Vì vậy, phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Trong cơng cuộc đổi mới đất nước với thuận lợi và khĩ khăn đang đặt ra hiện nay thì việc phát huy mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh càng cĩ ý nghĩa lớn lao. Từ khĩa: Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON THE COMMUNIST PARTY AND THE MASSES’ RELATIONSHIP AND ITS SIGNIFICANCE TO THE COUNTRY INNOVATION TASK IN VIETNAM NOWADAYS ABSTRACT Being the founder and the trainer of the Communist Party, Ho Chi Minh...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay - Vũ Thị Thu Huyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VỚI NHÂN DÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐĨ ĐỐI VỚI CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Vũ Thị Thu Huyền* TĨM TẮT Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luơn luơn quan tâm đến vấn đề xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người đã chỉ rõ: Khơng cĩ quần chúng thì khơng cĩ lực lượng. Khơng cĩ Đảng thì khơng cĩ người lãnh đạo, hướng dẫn, chỉ đường. Vì vậy, phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Trong cơng cuộc đổi mới đất nước với thuận lợi và khĩ khăn đang đặt ra hiện nay thì việc phát huy mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh càng cĩ ý nghĩa lớn lao. Từ khĩa: Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON THE COMMUNIST PARTY AND THE MASSES’ RELATIONSHIP AND ITS SIGNIFICANCE TO THE COUNTRY INNOVATION TASK IN VIETNAM NOWADAYS ABSTRACT Being the founder and the trainer of the Communist Party, Ho Chi Minh was always interested in constructing the relationship between the Party and the masses. He pointed out: without the masses, the force would not exist. Without the Communist Party, there would be no leader, no guide. Therefore, it is a must to consolidate the relationship between the Party and the masses. In the country innovation task with the favorable and difficulties, promoting the Party and the masses’ relationship, which is based on Ho Chi Minh’s ideology, becomes more and more significant. Keywords: The communist party and the masses’ relationship * GV. Trường Cao đẳng Cơng nghệ Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh 1. Đặt vấn đề Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luơn khẳng định việc liên hệ, gắn bĩ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân là nguồn gốc chủ yếu để tạo nên sức mạnh, là một trong những nguyên nhân giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng và làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người đã từng dạy rằng: “Dân chúng đồng lịng, việc gì cũng làm được. Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì làm cũng khơng nên” [5. tr. 293]. Cho nên “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luơn luơn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đĩ là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đĩ mà Đảng ta thắng lợi.” [5, tr. 286] Thực tiễn cách mạng Việt Nam 82 năm qua cũng đã chứng minh điều đĩ. Khơng cĩ sức mạnh của “Ý Đảng, lịng dân” chúng ta khơng thể cĩ được Cách Tư tưởng Hồ Chí Minh . . . 56 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật mạng Tháng 8/1945 thành cơng, đại thắng Mùa xuân 1975 và ngày hơm nay chúng ta vững vàng trên con đường xây dựng CNXH. Ngày nay trong cơng cuộc đổi mới, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng vẫn được Đảng và nhân dân ta tiếp tục củng cố và phát huy trên hành trình hướng tới tương lai. Gần 30 năm đổi mới, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng, nhân dân ta đã làm nên một đất nước Việt Nam ngày càng cĩ vị thế trên trường quốc tế. Tuy nhiên, tác động của nền kinh tế thị trường cùng với những diễn biến khĩ lường, phức tạp trên thế giới, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bên ngồi đối với cách mạng nước ta và đặc biệt là tình trạng suy thối đạo đức, quan liêu mệnh lệnh, xa rời quần chúng của bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên đã khiến họ trượt dài trên con đường xa rời quần chúng, phản bội lại lợi ích của dân, của Đảng. Tất cả điều đĩ là nguyên nhân làm giảm sự gắn bĩ của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hịa bình” chống phá cách mạng nước ta. Trong điều kiện ấy, trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu để hiểu biết, nắm vững và vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân là điều hết sức cần thiết, vừa nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của Đảng với nhân dân, vừa gĩp phần làm tránh được những nguy cơ trong Đảng. 2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân khơng phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà là sự phản ánh nhu cầu của cách mạng Việt Nam. Những biến động của thế giới và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cùng với việc kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống dân tộc, sự dung hợp những tinh hoa văn hĩa nhân loại, kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trị của quần chúng nhân dân, cá nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân lao động trong cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là điều kiện lịch sử xã hội và tiền đề lý luận quan trọng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Chính những giá trị tư tưởng được chắt lọc, đã là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới nhận thức và hành động của Hồ Chí Minh nĩi chung và cách nhìn nhận của Người về quần chúng nhân dân, về Đảng và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân nĩi riêng. Với Hồ Chí Minh, nhân dân là gốc của nước, là cội nguồn của cách mạng; cách mạng là sự nghiệp của nhân dân; dân là chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhờ đĩ, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh giữ một vai trị to lớn trong mọi cơng cuộc cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ nhân dân, vì nhân dân, Hồ Chí Minh đã đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo quan điểm về Đảng của học thuyết mác – xít để dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và, từ đĩ hình thành mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân như một điều tất yếu. Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân là một tất yếu khách quan, là sự thống nhất và tác động qua lại biện chứng của 57 Tư tưởng Hồ Chí Minh . . . hai thực thể Đảng và quần chúng nhân dân. Trong mối quan hệ này thì Đảng là một thực thể chính trị, quần chúng nhân dân là một thực thể xã hội, khơng đồng nhất. Giữa hai thực thể đĩ vừa cĩ sự thống nhất, vừa cĩ sự tác động qua lại lẫn nhau. 2.1. Sự thống nhất của mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân được thể hiện: Thứ nhất, mục tiêu của Đảng và của dân tộc, của nhân dân ta là thống nhất. Sự gắn bĩ giữa Đảng với quần chúng nhân dân cĩ cơ sở sâu xa ở sự thống nhất về mục tiêu. Đĩ là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khát khao ngàn đời của dân tộc ta là độc lập dân tộc và chỉ thực hiện được độc lập dân tộc thì mới cĩ điều kiện để thực hiện ấm no, hạnh phúc và cơng bằng. Trải qua hàng ngàn năm bị xâm lược, đơ hộ, thống trị của bọn phong kiến, đế quốc ngoại bang, khát vọng của dân tộc ta là độc lập, là thốt khỏi cảnh nơ lệ của kẻ thù ngồi nước. Nhưng, chỉ đến khi cĩ Đảng Cộng sản lãnh đạo thì khát vọng độc lập của dân tộc mới thực hiện được. Với sự dẫn đường và tiên phong của Đảng, nhiệm vụ giải phĩng dân tộc do nhân dân tiến hành đã hồn tồn thắng lợi. Trên con đường đi đĩ, lý tưởng về một đất nước hồ bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, cơng bằng, văn minh đã trở thành mục tiêu chung mà Đảng và nhân dân cùng phấn đấu thực hiện. Nhận thức được sức mạnh to lớn và vai trị của nhân dân, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã khơng ngừng đấu tranh cho nền độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tồn bộ nghị lực của Đảng, tồn bộ sự phấn đấu, hy sinh của các thế hệ đảng viên đều hướng vào mục tiêu giải phĩng dân tộc, giải phĩng nhân dân, giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Trong những khúc quanh co của lịch sử, Đảng ta luơn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trách nhiệm to lớn đối với nhân dân, đối với vận mệnh của dân tộc. Trong cơng cuộc xây dựng đất nước, Đảng khơng ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, phát huy vai trị làm chủ của nhân dân trong khối đại đồn kết dân tộc. Đảng luơn ý thức rằng, chăm lo nhu cầu, lợi ích của nhân dân nhất là nhân dân lao động, là mục tiêu, động lực to lớn của cách mạng nước ta. Đảng thực hiên mục tiêu lý tưởng của mình cũng chính là thực hiện mục tiêu lý tưởng của nhân dân, của dân tộc, của Tổ quốc nên nĩ cĩ cơ sở khách quan bền vững. Vì thế mà nhân dân gắn bĩ với Đảng, cùng với Đảng, thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng làm cách mạng Thứ hai, lợi ích của Đảng, của quần chúng nhân dân và của cả dân tộc là một, là thống nhất. Khơng chỉ thống nhất về mục tiêu, mà Đảng với quần chúng nhân dân cịn cĩ sự thống nhất về lợi ích. Đảng ta là người đại diện trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư tưởng của mình về sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người viết: “lợi ích của dân tộc, gồm cĩ lợi ích của Đảng”, “... lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc”, “ngồi lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng khơng cĩ lợi ích gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải phĩng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt văn hĩa, chính trị của nhân dân. Vì tồn dân được giải phĩng tức là Đảng được giải phĩng” [3, tr. 250]. Vì vậy, ngay từ khi mới ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo dân tộc chiến đấu, chấp nhận sự hy sinh vì sự nghiệp giải phĩng dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. 58 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Khi tiếng súng kẻ thù phương Tây xâm lược nước ta, nhân dân ta lâm vào cảnh nước mất, nhà tan. Thì khi ấy “độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày” là khẩu hiệu tranh đấu của Đảng trong chặng đường đầu của cách mạng, đã hàm chứa mục đích sống cịn và tiên quyết của Đảng là vì dân tộc và nhân dân. Trên quan điểm giai cấp cơng nhân, ngồi mục đích vì dân tộc, vì nhân dân, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh, Đảng khơng cĩ mục đích tự thân. Đấu tranh vì lợi ích của giai cấp cơng nhân và của nhân dân lao động là mục đích hoạt động, là lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng. Thứ ba, Đảng với quần chúng nhân dân cùng chung một cội nguồn Quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân là mối quan hệ hai chiều trong một chỉnh thể thống nhất. Ở đĩ, Đảng với quần chúng nhân dân cùng chung một cội nguồn. Theo Hồ Chí Minh, Đảng khơng phải từ trên trời sa xuống mà từ quần chúng nhân dân mà ra. Đảng cũng ở trong xã hội. Người nĩi: “Đồn thể từ trung ương tới xã đều do dân tổ chức nên” [3, tr. 299]. “Đồn thể mình mạnh hay yếu là ở dân”. Sở dĩ cĩ Đảng anh hùng vì cĩ nhân dân anh hùng. Đảng từ quần chúng nhân dân mà ra, nhờ cĩ quần chúng nhân dân mà cĩ Đảng, Đảng phải dựa vào quần chúng nhân dân để thực hiện vai trị lãnh đạo của mình; quần chúng nhân dân nhờ cĩ sự dẫn dắt của Đảng, nhờ cĩ Đảng lãnh đạo thì mới cĩ hướng đi đúng đắn và cách mạng mới giành được thắng lợi. Đảng với quần chúng nhân dân là hai thành tố cơ bản gắn bĩ hữu cơ, là điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng. Giữa Đảng với quần chúng nhân dân phải cĩ sự nương tựa vào nhau. Lịch sử đã chứng minh chỉ cĩ quần chúng nhân dân mới là lực lượng trực tiếp làm cách mạng và chỉ cĩ Đảng Cộng sản lãnh đạo thì quần chúng nhân dân mới tiến hành cách mạng thành cơng. Hồ Chí Minh đã ví, Đảng với quần chúng nhân dân như “người chèo” và “người lái” trên con thuyền cách mạng. Nếu chỉ cĩ người chèo khơng cĩ người lái cũng khơng được. Cho nên người chèo và người lái phải đồn kết với nhau. Người chèo ở đây là lực lượng, sức mạnh của quần chúng nhân dân. Người cầm lái là Đảng, là Chính phủ, là Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. 2.2. Sự tác động qua lại giữa Đảng và quần chúng nhân dân Bên cạnh sự thống nhất, hai thực thể Đảng và quần chúng nhân dân cịn cĩ những khác biệt. Hai chủ thể này cĩ sự tác động qua lại nhau. Điều đĩ được thể hiện rõ ở vai trị của Đảng đối với quần chúng nhân dân và vai trị của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Trước hết, chúng ta xem xét vai trị của Đảng đối với quần chúng nhân dân: Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, Đảng là chủ thể lãnh đạo, cịn quần chúng nhân dân là đối tượng lãnh đạo. Đảng cĩ vai trị lãnh đạo quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh. Chúng ta biết rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng, sức mạnh vĩ đại của quần chúng nhân dân chỉ cĩ thể phát huy và trở thành lực lượng vật chất khi cĩ sự lãnh đạo của Đảng. Sự nghiệp cách mạng cũng chỉ cĩ thể thành cơng được khi cĩ Đảng dẫn dắt. Lịch sử các phong trào giải phĩng dân tộc của Việt Nam ta đã chứng minh, con đường giải phĩng dân tộc, giải phĩng giai cấp bao giờ cũng địi hỏi phải cĩ một hệ tư tưởng khoa học tiên tiến thay thế cho hệ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời lạc hậu. Song, hệ tư tưởng ấy phải cĩ một tổ chức tiên phong cách mạng tập 59 Tư tưởng Hồ Chí Minh . . . hợp quần chúng nhân dân đơng đảo, biến hệ tư tưởng khoa học đĩ thành hiện thực. Hồ Chí Minh coi “cơng nơng là gốc của cách mạng”, song cơng nơng và dân chúng nĩi chung phải giác ngộ, và muốn được giác ngộ, đi từ tự phát đến tự giác, thì phải được trang bị bởi hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản. Do đĩ, phải cĩ Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản. Khi Đảng Cộng sản lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành cách mạng vơ sản, cách mạng giải phĩng dân tộc thành cơng, giành được chính quyền, thì khơng thể dừng lại ở đĩ. Mà, Đảng phải tiếp tục lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, vai trị và trách nhiệm lãnh đạo khơng thuộc về ai khác ngồi Đảng Cộng sản. Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân ta tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng thành cơng chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chủ nghĩa xã hội là con đường đi lên, là mục tiêu phấn đấu mà Đảng và nhân dân ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã dứt khốt lựa chọn. Như vậy, cả trong sự nghiệp cách mạng giải phĩng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đều thể hiện rất rõ vai trị lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân. Ở đĩ, Đảng là nhân tố thúc đẩy, phát huy, và nhân lên sức mạnh của quần chúng, làm tăng hiệu quả hoạt động của quần chúng, cịn bản thân sự nghiệp hoạt động cách mạng là của quần chúng và do quần chúng quyết định. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân, sự tác động qua lại khơng chỉ là: Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện cách mạng giải phĩng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà cịn là Đảng dựa vào dân, gắn với dân thì mới cĩ sức mạnh, mới làm nên thắng lợi trong cách mạng. Điều này, nĩi lên vai trị to lớn của quần chúng nhân dân đối với Đảng, vai trị đĩ được thể hiện ở những luận điểm sau: Thứ nhất, quần chúng nhân dân là cội nguồn và sức mạnh của Đảng. Trong điều kiện đặc thù của nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước. Giai cấp cơng nhân Việt Nam, dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đĩ, cĩ thể nĩi mối quan hệ máu thịt giữa Dân với Đảng là một trong những nhân tố cơ bản dẫn đến sự ra đời của Đảng. Hơn nữa, Đảng tồn tại và phát triển được là nhờ dựa vào dân, lực lượng của Đảng cĩ lớn mạnh được hay khơng là do dân. Nhân dân là người xây dựng đồng thời là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng, Dân như nước cán bộ như cá. Cá khơng thể sinh tồn và phát triển được nếu như khơng cĩ nước. Nhân dân là người che chở, đùm bọc cho Đảng trước mọi đàn áp, khủng bố của quân thù, trước mọi tấn cơng của chủ nghĩa đế quốc. Nhờ dựa vào quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân, sức mạnh của Đảng ta đã trở thành vơ địch. Đảng đã tổ chức và lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua mọi khĩ khăn, thử thách, nguy hiểm, giành nhiều thắng lợi vẻ vang trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và thành tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Đúng như Người đã nĩi: “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chĩng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”. [3, tr.295] Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản, cĩ sức mạnh to lớn để thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của 60 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Đảng; những sáng kiến, nguyện vọng của quần chúng nhân dân là cơ sở, là nguồn gốc, là những gợi ý để Đảng xây dựng, hồn thiện và điều chỉnh đường lối chính sách. Chúng ta biết rằng, tư tưởng tự bản thân nĩ khơng làm biến đổi được thực tiễn xã hội. Tư tưởng chỉ cĩ giá trị khi nĩ dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, mà điều đĩ chỉ cĩ thể xảy ra khi nhân dân đồng lịng, nhiệt tình và quyết tâm hành động. Điều đĩ cũng cĩ nghĩa là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng ta chỉ cĩ ý nghĩa khi nĩ đi vào cuộc sống của nhân dân, được chủ thể quần chúng nhân dân thực hiện. Tuy nhiên, Đảng muốn đề ra được những chủ trương, chính sách đúng đắn thì phải bắt nguồn từ lợi ích của quần chúng nhân dân, cán bộ đảng viên cĩ hịa mình trong quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, tìm hiểu những tâm tư nguyện vọng của quần chúng và quần chúng cĩ tin yêu Đảng, đĩng gĩp xây dựng Đảng thì mới giúp cho Đảng định ra những chủ trương, chính sách, đường lối hợp với thực tế và yêu cầu nguyện vọng của nhân dân. Khi những sáng kiến, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân nâng lên thành đường lối, chính sách thì chính nhân dân lại là lực lượng thực hiện để chuyển những ý tưởng đĩ vào đời sống thực tiễn, tìm những phương pháp, biện pháp để thực hiện cĩ hiệu quả cao nhất. Nhân dân sẽ tham gia trong vai trị là chủ thể trực tiếp của các quá trình hoạt động thực tiễn, sẽ là người phản biện các chủ trương chính sách của Đảng, phát hiện, kiểm tra tính đúng đắn và sự phù hợp đối với đường lối của Đảng. Và, thơng qua việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, nhân dân lại cĩ điều kiện cung cấp những tư tưởng, những dữ kiện mới nảy sinh từ thực tiễn để Đảng hồn thiện đường lối, chính sách. Nhân dân cịn là người giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Bằng sự phản ánh của mình, nhân dân thực hiện chức năng phê bình đối với Đảng, trên cơ sở đĩ Đảng “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức”. [3, tr.297]. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở Đảng ta cần phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, phải bàn bạc, thảo luận với nhân dân những vấn đề “quốc kế dân sinh”. Người cho rằng: “Việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc và giải thích cho dân chúng”. [3, tr. 294-295] Thứ ba, quần chúng nhân dân cùng Đảng tham gia chống tệ nạn tham ơ, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn khác trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng đã thành cơng, Đảng ta đương nhiên trở thành Đảng cầm quyền vì Đảng đã lãnh đạo cách mạng trong điều kiện cĩ chính quyền và lãnh đạo chính quyền nhân dân một cách trực tiếp, tồn diện. Tuy nhiên, trong điều kiện của một Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã cảnh báo những căn bệnh dễ phát sinh trong Đảng. Và, thực tế đã cĩ rất nhiều thĩi hư, tật xấu nảy sinh trong Đảng, làm tha hĩa Đảng. Người chỉ ra hàng loạt những lỗi lầm nghiêm trọng trong hàng ngũ cán bộ đảng viên, đĩ là tệ tham ơ, lãng phí, quan liêu... Theo Người, đĩ chính là thứ “giặc nội xâm” vì nĩ phá hoại ta từ bên trong. Từ đĩ, Người kêu gọi tất cả bộ máy Đảng và Nhà nước, mọi cán bộ đảng viên phải ra sức chống ba căn bệnh trên, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, Người cũng nhắc nhở “phong trào chống tham ơ, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành cơng” [4, tr.495]. Chính 61 Tư tưởng Hồ Chí Minh . . . vì vậy, để phịng trừ, đấu tranh với tệ tham ơ, lãng phí, quan liêu, phương thuốc hữu hiệu nhất là phải phát huy dân chủ, tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham ơ, lãng phí, quan liêu. Người coi việc quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là chìa khĩa đi đến thắng lợi, bởi trong cuộc đấu tranh chống những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những kẻ luơn luơn giấu mặt, tinh vi và cĩ nhiều thủ đoạn, tất yếu phải nhờ vào tai, mắt, trí tuệ của quần chúng nhân dân. Cho nên, vấn đề cĩ tính chất quyết định đến thành cơng hay thất bại của mặt trận chống tham ơ, lãng phí, quan liêu là phải động viên, tập hợp mọi lực lượng, mọi tầng lớp xã hội tham gia vào trận tuyến vơ hình nhưng đầy khĩ khăn và quyết liệt này. 3. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đối với cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Cần khẳng định rằng, củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bĩ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là một vấn đề cĩ ý nghĩa thiết thực, cấp bách, lại vừa cĩ ý nghĩa chiến lược lâu dài, là điều kiện cơ bản đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cơng cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam đang ở thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hĩa, hiện đại hĩa đất nước, diễn ra trong điều kiện cĩ nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết về Đảng, về dân, về mối quan hệ giữa Đảng với dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh. Đĩ là sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự ảnh hưởng xấu từ cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trên thế giới, đặc biệt là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bên ngồi bằng các thủ đoạn diễn biến hịa bình hết sức tinh vi, phức tạp, và đặc biệt quan trọng hơn nữa là vấn đề suy thối đạo đức, lối sống của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ đảng viên... Tất cả điều đĩ ảnh hưởng nghiêm trọng đến mối quan hệ gắn bĩ, mật thiết giữa Đảng với nhân dân ở Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân cĩ ý nghĩa hết sức quan trọng. Bản thân tư tưởng của Người đã cung cấp cho chúng ta những nguyên lý, những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản để chúng ta tìm lời giải đáp cho những vấn đề của hiện tại. Từ tinh thần ấy, chúng tơi nhận thấy rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân chính là kim chỉ nam định hướng, là cơ sở lý luận quan trọng trong việc hoạch định mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ tư tưởng của Người, Đảng cần đặc biệt coi trọng và phát huy hơn nữa vai trị, sức mạnh của mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong điều kiện mới. Để cĩ thể giữ vững và tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề quan trọng là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ nhân dân, phải quán triệt chặt chẽ bốn nguyên tắc chủ yếu sau đây: Một là, Đảng phải thực sự lấy dân làm gốc, phải thực sự phục vụ lợi ích thiết thực của nhân dân. Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam phải thực sự dựa vào dân và biết phát huy đầy đủ sức mạnh của quần chúng nhân dân cho sự nghiệp cách mạng. Ba là, Đảng cần phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tạo động lực đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới đất nước. Bốn là, Đảng phải thực sự chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thật 62 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật sự vì dân, để làm cho quần chúng nhân dân tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Đảng, ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng. 4. Kết luận Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam đầu tiên đã cĩ tư tưởng về Đảng, về quần chúng nhân dân và mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân cũng chính là cơ sở để chúng ta vận dụng trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Điều đĩ vừa giúp cho chúng ta vượt qua những nguy cơ và thách thức của tình hình mới, vừa đảm bảo cho Đảng luơn luơn giữ vững được bản chất giai cấp cơng nhân, giữ vững được vai trị lãnh đạo của mình đồng thời phát huy được sức mạnh, mọi tiềm năng sáng tạo và tinh thần làm chủ của nhân dân, hồn thành được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh” mà Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã dứt khốt lựa chọn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996),Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5 [4]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 6 [5]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. tập 8

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf45_4944_2121821.pdf
Tài liệu liên quan