Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay - Vũ Thị Thu Huyền: 55
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG
VỚI NHÂN DÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐĨ ĐỐI VỚI
CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Vũ Thị Thu Huyền*
TĨM TẮT
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luơn luơn quan tâm đến vấn đề xây
dựng mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người đã chỉ rõ: Khơng cĩ quần chúng thì
khơng cĩ lực lượng. Khơng cĩ Đảng thì khơng cĩ người lãnh đạo, hướng dẫn, chỉ đường. Vì vậy,
phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Trong cơng cuộc đổi mới đất nước
với thuận lợi và khĩ khăn đang đặt ra hiện nay thì việc phát huy mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng nhân dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh càng cĩ ý nghĩa lớn lao.
Từ khĩa: Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân
HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON THE COMMUNIST PARTY AND THE
MASSES’ RELATIONSHIP AND ITS SIGNIFICANCE TO THE COUNTRY
INNOVATION TASK IN VIETNAM NOWADAYS
ABSTRACT
Being the founder and the trainer of the Communist Party, Ho Chi Minh...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 469 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng với nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay - Vũ Thị Thu Huyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG
VỚI NHÂN DÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐĨ ĐỐI VỚI
CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Vũ Thị Thu Huyền*
TĨM TẮT
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luơn luơn quan tâm đến vấn đề xây
dựng mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người đã chỉ rõ: Khơng cĩ quần chúng thì
khơng cĩ lực lượng. Khơng cĩ Đảng thì khơng cĩ người lãnh đạo, hướng dẫn, chỉ đường. Vì vậy,
phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Trong cơng cuộc đổi mới đất nước
với thuận lợi và khĩ khăn đang đặt ra hiện nay thì việc phát huy mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng nhân dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh càng cĩ ý nghĩa lớn lao.
Từ khĩa: Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân
HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON THE COMMUNIST PARTY AND THE
MASSES’ RELATIONSHIP AND ITS SIGNIFICANCE TO THE COUNTRY
INNOVATION TASK IN VIETNAM NOWADAYS
ABSTRACT
Being the founder and the trainer of the Communist Party, Ho Chi Minh was always
interested in constructing the relationship between the Party and the masses. He pointed out: without
the masses, the force would not exist. Without the Communist Party, there would be no leader, no
guide. Therefore, it is a must to consolidate the relationship between the Party and the masses. In
the country innovation task with the favorable and difficulties, promoting the Party and the masses’
relationship, which is based on Ho Chi Minh’s ideology, becomes more and more significant.
Keywords: The communist party and the masses’ relationship
* GV. Trường Cao đẳng Cơng nghệ Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh
1. Đặt vấn đề
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luơn
khẳng định việc liên hệ, gắn bĩ mật thiết giữa
Đảng với quần chúng nhân dân là nguồn gốc
chủ yếu để tạo nên sức mạnh, là một trong
những nguyên nhân giữ vững vai trị lãnh
đạo của Đảng và làm nên những thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Người đã từng dạy
rằng: “Dân chúng đồng lịng, việc gì cũng làm
được. Dân chúng khơng ủng hộ, việc gì làm
cũng khơng nên” [5. tr. 293]. Cho nên “Giữ
chặt mối liên hệ với dân chúng và luơn luơn
lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đĩ là nền
tảng lực lượng của Đảng và nhờ đĩ mà Đảng
ta thắng lợi.” [5, tr. 286] Thực tiễn cách mạng
Việt Nam 82 năm qua cũng đã chứng minh
điều đĩ. Khơng cĩ sức mạnh của “Ý Đảng,
lịng dân” chúng ta khơng thể cĩ được Cách
Tư tưởng Hồ Chí Minh . . .
56
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
mạng Tháng 8/1945 thành cơng, đại thắng
Mùa xuân 1975 và ngày hơm nay chúng ta
vững vàng trên con đường xây dựng CNXH.
Ngày nay trong cơng cuộc đổi mới, mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng
vẫn được Đảng và nhân dân ta tiếp tục củng cố
và phát huy trên hành trình hướng tới tương
lai. Gần 30 năm đổi mới, dưới ánh sáng của
tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng, nhân dân
ta đã làm nên một đất nước Việt Nam ngày
càng cĩ vị thế trên trường quốc tế. Tuy nhiên,
tác động của nền kinh tế thị trường cùng với
những diễn biến khĩ lường, phức tạp trên thế
giới, sự chống phá quyết liệt của các thế lực
thù địch bên ngồi đối với cách mạng nước
ta và đặc biệt là tình trạng suy thối đạo đức,
quan liêu mệnh lệnh, xa rời quần chúng
của bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên đã
khiến họ trượt dài trên con đường xa rời quần
chúng, phản bội lại lợi ích của dân, của Đảng.
Tất cả điều đĩ là nguyên nhân làm giảm sự
gắn bĩ của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch thực hiện “diễn
biến hịa bình” chống phá cách mạng nước ta.
Trong điều kiện ấy, trở lại với tư tưởng
Hồ Chí Minh, nghiên cứu để hiểu biết, nắm
vững và vận dụng đúng đắn tư tưởng của
Người về mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng nhân dân là điều hết sức cần thiết, vừa
nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của Đảng
với nhân dân, vừa gĩp phần làm tránh được
những nguy cơ trong Đảng.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng
nhân dân
Với tính cách là một hình thái ý thức xã
hội, sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân
dân khơng phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà
là sự phản ánh nhu cầu của cách mạng Việt
Nam. Những biến động của thế giới và xã hội
Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
cùng với việc kế thừa, phát triển những giá trị
truyền thống dân tộc, sự dung hợp những tinh
hoa văn hĩa nhân loại, kết hợp nhuần nhuyễn,
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vai trị của quần chúng nhân dân, cá
nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa Đảng
với nhân dân lao động trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa chính là điều kiện lịch sử xã hội và
tiền đề lý luận quan trọng cho sự hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân.
Chính những giá trị tư tưởng được chắt
lọc, đã là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới nhận
thức và hành động của Hồ Chí Minh nĩi
chung và cách nhìn nhận của Người về quần
chúng nhân dân, về Đảng và mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân nĩi riêng.
Với Hồ Chí Minh, nhân dân là gốc của
nước, là cội nguồn của cách mạng; cách mạng
là sự nghiệp của nhân dân; dân là chủ, mọi
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhờ
đĩ, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
một vai trị to lớn trong mọi cơng cuộc cách
mạng Việt Nam.
Xuất phát từ nhân dân, vì nhân dân, Hồ
Chí Minh đã đến với cách mạng Tháng Mười
Nga, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người
đã vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo quan
điểm về Đảng của học thuyết mác – xít để dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Và, từ đĩ hình thành mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với quần chúng nhân dân như một
điều tất yếu.
Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng
nhân dân là một tất yếu khách quan, là sự
thống nhất và tác động qua lại biện chứng của
57
Tư tưởng Hồ Chí Minh . . .
hai thực thể Đảng và quần chúng nhân dân.
Trong mối quan hệ này thì Đảng là một thực
thể chính trị, quần chúng nhân dân là một thực
thể xã hội, khơng đồng nhất. Giữa hai thực thể
đĩ vừa cĩ sự thống nhất, vừa cĩ sự tác động
qua lại lẫn nhau.
2.1. Sự thống nhất của mối quan hệ
giữa Đảng với quần chúng nhân dân được
thể hiện:
Thứ nhất, mục tiêu của Đảng và của dân
tộc, của nhân dân ta là thống nhất. Sự gắn bĩ
giữa Đảng với quần chúng nhân dân cĩ cơ sở
sâu xa ở sự thống nhất về mục tiêu. Đĩ là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Khát khao ngàn đời của dân tộc ta là độc
lập dân tộc và chỉ thực hiện được độc lập dân
tộc thì mới cĩ điều kiện để thực hiện ấm no,
hạnh phúc và cơng bằng. Trải qua hàng ngàn
năm bị xâm lược, đơ hộ, thống trị của bọn
phong kiến, đế quốc ngoại bang, khát vọng
của dân tộc ta là độc lập, là thốt khỏi cảnh
nơ lệ của kẻ thù ngồi nước. Nhưng, chỉ đến
khi cĩ Đảng Cộng sản lãnh đạo thì khát vọng
độc lập của dân tộc mới thực hiện được. Với
sự dẫn đường và tiên phong của Đảng, nhiệm
vụ giải phĩng dân tộc do nhân dân tiến hành
đã hồn tồn thắng lợi. Trên con đường đi đĩ,
lý tưởng về một đất nước hồ bình, độc lập, tự
do, hạnh phúc, dân chủ, cơng bằng, văn minh
đã trở thành mục tiêu chung mà Đảng và nhân
dân cùng phấn đấu thực hiện.
Nhận thức được sức mạnh to lớn và vai
trị của nhân dân, ngay từ khi mới ra đời,
Đảng đã khơng ngừng đấu tranh cho nền độc
lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tồn bộ
nghị lực của Đảng, tồn bộ sự phấn đấu, hy
sinh của các thế hệ đảng viên đều hướng vào
mục tiêu giải phĩng dân tộc, giải phĩng nhân
dân, giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Trong những khúc quanh co của lịch sử,
Đảng ta luơn thể hiện bản lĩnh chính trị vững
vàng, trách nhiệm to lớn đối với nhân dân, đối
với vận mệnh của dân tộc. Trong cơng cuộc
xây dựng đất nước, Đảng khơng ngừng chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
phát huy vai trị làm chủ của nhân dân trong
khối đại đồn kết dân tộc. Đảng luơn ý thức
rằng, chăm lo nhu cầu, lợi ích của nhân dân
nhất là nhân dân lao động, là mục tiêu, động
lực to lớn của cách mạng nước ta.
Đảng thực hiên mục tiêu lý tưởng của mình
cũng chính là thực hiện mục tiêu lý tưởng của
nhân dân, của dân tộc, của Tổ quốc nên nĩ cĩ
cơ sở khách quan bền vững. Vì thế mà nhân
dân gắn bĩ với Đảng, cùng với Đảng, thừa
nhận sự lãnh đạo của Đảng làm cách mạng
Thứ hai, lợi ích của Đảng, của quần chúng
nhân dân và của cả dân tộc là một, là thống nhất.
Khơng chỉ thống nhất về mục tiêu, mà
Đảng với quần chúng nhân dân cịn cĩ sự
thống nhất về lợi ích. Đảng ta là người đại
diện trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng
nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư tưởng của
mình về sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với
quần chúng nhân dân. Người viết: “lợi ích
của dân tộc, gồm cĩ lợi ích của Đảng”, “...
lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc,
của Tổ quốc”, “ngồi lợi ích của dân tộc, của
Tổ quốc, thì Đảng khơng cĩ lợi ích gì khác.
Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân,
lãnh đạo nhân dân để giải phĩng nhân dân và
để nâng cao sinh hoạt văn hĩa, chính trị của
nhân dân. Vì tồn dân được giải phĩng tức là
Đảng được giải phĩng” [3, tr. 250]. Vì vậy,
ngay từ khi mới ra đời đến nay, Đảng đã lãnh
đạo dân tộc chiến đấu, chấp nhận sự hy sinh
vì sự nghiệp giải phĩng dân tộc, vì hạnh phúc
của nhân dân.
58
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Khi tiếng súng kẻ thù phương Tây xâm
lược nước ta, nhân dân ta lâm vào cảnh nước
mất, nhà tan. Thì khi ấy “độc lập cho dân tộc,
ruộng đất cho dân cày” là khẩu hiệu tranh đấu
của Đảng trong chặng đường đầu của cách
mạng, đã hàm chứa mục đích sống cịn và
tiên quyết của Đảng là vì dân tộc và nhân dân.
Trên quan điểm giai cấp cơng nhân, ngồi
mục đích vì dân tộc, vì nhân dân, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn
minh, Đảng khơng cĩ mục đích tự thân. Đấu
tranh vì lợi ích của giai cấp cơng nhân và của
nhân dân lao động là mục đích hoạt động, là
lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng.
Thứ ba, Đảng với quần chúng nhân dân
cùng chung một cội nguồn
Quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân
dân là mối quan hệ hai chiều trong một chỉnh
thể thống nhất. Ở đĩ, Đảng với quần chúng
nhân dân cùng chung một cội nguồn. Theo
Hồ Chí Minh, Đảng khơng phải từ trên trời
sa xuống mà từ quần chúng nhân dân mà ra.
Đảng cũng ở trong xã hội. Người nĩi: “Đồn
thể từ trung ương tới xã đều do dân tổ chức
nên” [3, tr. 299]. “Đồn thể mình mạnh hay
yếu là ở dân”. Sở dĩ cĩ Đảng anh hùng vì cĩ
nhân dân anh hùng.
Đảng từ quần chúng nhân dân mà ra, nhờ
cĩ quần chúng nhân dân mà cĩ Đảng, Đảng
phải dựa vào quần chúng nhân dân để thực
hiện vai trị lãnh đạo của mình; quần chúng
nhân dân nhờ cĩ sự dẫn dắt của Đảng, nhờ cĩ
Đảng lãnh đạo thì mới cĩ hướng đi đúng đắn
và cách mạng mới giành được thắng lợi.
Đảng với quần chúng nhân dân là hai thành
tố cơ bản gắn bĩ hữu cơ, là điều kiện cần và
đủ cho một cuộc cách mạng. Giữa Đảng với
quần chúng nhân dân phải cĩ sự nương tựa
vào nhau. Lịch sử đã chứng minh chỉ cĩ quần
chúng nhân dân mới là lực lượng trực tiếp làm
cách mạng và chỉ cĩ Đảng Cộng sản lãnh đạo
thì quần chúng nhân dân mới tiến hành cách
mạng thành cơng. Hồ Chí Minh đã ví, Đảng
với quần chúng nhân dân như “người chèo” và
“người lái” trên con thuyền cách mạng. Nếu
chỉ cĩ người chèo khơng cĩ người lái cũng
khơng được. Cho nên người chèo và người
lái phải đồn kết với nhau. Người chèo ở đây
là lực lượng, sức mạnh của quần chúng nhân
dân. Người cầm lái là Đảng, là Chính phủ, là
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2.2. Sự tác động qua lại giữa Đảng và
quần chúng nhân dân
Bên cạnh sự thống nhất, hai thực thể Đảng
và quần chúng nhân dân cịn cĩ những khác
biệt. Hai chủ thể này cĩ sự tác động qua lại
nhau. Điều đĩ được thể hiện rõ ở vai trị của
Đảng đối với quần chúng nhân dân và vai trị
của quần chúng nhân dân đối với Đảng.
Trước hết, chúng ta xem xét vai trị của
Đảng đối với quần chúng nhân dân:
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân
dân, Đảng là chủ thể lãnh đạo, cịn quần chúng
nhân dân là đối tượng lãnh đạo. Đảng cĩ vai
trị lãnh đạo quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, làm cho dân giàu nước mạnh.
Chúng ta biết rằng, cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng nhân dân. Nhưng, sức mạnh
vĩ đại của quần chúng nhân dân chỉ cĩ thể phát
huy và trở thành lực lượng vật chất khi cĩ sự
lãnh đạo của Đảng. Sự nghiệp cách mạng cũng
chỉ cĩ thể thành cơng được khi cĩ Đảng dẫn
dắt. Lịch sử các phong trào giải phĩng dân tộc
của Việt Nam ta đã chứng minh, con đường
giải phĩng dân tộc, giải phĩng giai cấp bao
giờ cũng địi hỏi phải cĩ một hệ tư tưởng khoa
học tiên tiến thay thế cho hệ tư tưởng phong
kiến đã lỗi thời lạc hậu. Song, hệ tư tưởng ấy
phải cĩ một tổ chức tiên phong cách mạng tập
59
Tư tưởng Hồ Chí Minh . . .
hợp quần chúng nhân dân đơng đảo, biến hệ
tư tưởng khoa học đĩ thành hiện thực. Hồ Chí
Minh coi “cơng nơng là gốc của cách mạng”,
song cơng nơng và dân chúng nĩi chung phải
giác ngộ, và muốn được giác ngộ, đi từ tự
phát đến tự giác, thì phải được trang bị bởi
hệ tư tưởng của giai cấp vơ sản. Do đĩ, phải
cĩ Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản.
Khi Đảng Cộng sản lãnh đạo quần chúng
nhân dân tiến hành cách mạng vơ sản, cách
mạng giải phĩng dân tộc thành cơng, giành
được chính quyền, thì khơng thể dừng lại ở
đĩ. Mà, Đảng phải tiếp tục lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, vai
trị và trách nhiệm lãnh đạo khơng thuộc về ai
khác ngồi Đảng Cộng sản.
Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân ta
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm
xây dựng thành cơng chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Chủ nghĩa xã hội là con đường đi
lên, là mục tiêu phấn đấu mà Đảng và nhân
dân ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã dứt
khốt lựa chọn.
Như vậy, cả trong sự nghiệp cách mạng
giải phĩng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đều thể hiện rất rõ vai trị lãnh đạo của
Đảng đối với quần chúng nhân dân. Ở đĩ,
Đảng là nhân tố thúc đẩy, phát huy, và nhân
lên sức mạnh của quần chúng, làm tăng hiệu
quả hoạt động của quần chúng, cịn bản thân
sự nghiệp hoạt động cách mạng là của quần
chúng và do quần chúng quyết định.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân, sự
tác động qua lại khơng chỉ là: Đảng lãnh đạo
quần chúng nhân dân thực hiện cách mạng giải
phĩng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa,
mà cịn là Đảng dựa vào dân, gắn với dân thì
mới cĩ sức mạnh, mới làm nên thắng lợi trong
cách mạng. Điều này, nĩi lên vai trị to lớn của
quần chúng nhân dân đối với Đảng, vai trị đĩ
được thể hiện ở những luận điểm sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là cội
nguồn và sức mạnh của Đảng.
Trong điều kiện đặc thù của nước ta, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào cơng nhân
và phong trào yêu nước. Giai cấp cơng nhân
Việt Nam, dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt
Nam đã sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Do
đĩ, cĩ thể nĩi mối quan hệ máu thịt giữa Dân
với Đảng là một trong những nhân tố cơ bản
dẫn đến sự ra đời của Đảng.
Hơn nữa, Đảng tồn tại và phát triển được
là nhờ dựa vào dân, lực lượng của Đảng cĩ lớn
mạnh được hay khơng là do dân. Nhân dân
là người xây dựng đồng thời là người bảo vệ
Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng, Dân như nước
cán bộ như cá. Cá khơng thể sinh tồn và phát
triển được nếu như khơng cĩ nước. Nhân dân
là người che chở, đùm bọc cho Đảng trước
mọi đàn áp, khủng bố của quân thù, trước mọi
tấn cơng của chủ nghĩa đế quốc.
Nhờ dựa vào quần chúng nhân dân, phát
huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân
dân, sức mạnh của Đảng ta đã trở thành vơ
địch. Đảng đã tổ chức và lãnh đạo cách mạng
nước ta vượt qua mọi khĩ khăn, thử thách,
nguy hiểm, giành nhiều thắng lợi vẻ vang
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
trong kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và thành
tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Đúng
như Người đã nĩi: “dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chĩng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đồn
thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”. [3, tr.295]
Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực
lượng cơ bản, cĩ sức mạnh to lớn để thực
hiện chủ trương, đường lối, chính sách của
60
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Đảng; những sáng kiến, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân là cơ sở, là nguồn gốc,
là những gợi ý để Đảng xây dựng, hồn thiện
và điều chỉnh đường lối chính sách.
Chúng ta biết rằng, tư tưởng tự bản thân
nĩ khơng làm biến đổi được thực tiễn xã hội.
Tư tưởng chỉ cĩ giá trị khi nĩ dẫn đến hành
động làm biến đổi lịch sử, mà điều đĩ chỉ
cĩ thể xảy ra khi nhân dân đồng lịng, nhiệt
tình và quyết tâm hành động. Điều đĩ cũng
cĩ nghĩa là mọi chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng ta chỉ cĩ ý nghĩa khi nĩ đi vào
cuộc sống của nhân dân, được chủ thể quần
chúng nhân dân thực hiện.
Tuy nhiên, Đảng muốn đề ra được những
chủ trương, chính sách đúng đắn thì phải bắt
nguồn từ lợi ích của quần chúng nhân dân,
cán bộ đảng viên cĩ hịa mình trong quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, tìm
hiểu những tâm tư nguyện vọng của quần
chúng và quần chúng cĩ tin yêu Đảng, đĩng
gĩp xây dựng Đảng thì mới giúp cho Đảng
định ra những chủ trương, chính sách, đường
lối hợp với thực tế và yêu cầu nguyện vọng
của nhân dân.
Khi những sáng kiến, nguyện vọng chính
đáng của quần chúng nhân dân nâng lên thành
đường lối, chính sách thì chính nhân dân lại
là lực lượng thực hiện để chuyển những ý
tưởng đĩ vào đời sống thực tiễn, tìm những
phương pháp, biện pháp để thực hiện cĩ hiệu
quả cao nhất. Nhân dân sẽ tham gia trong vai
trị là chủ thể trực tiếp của các quá trình hoạt
động thực tiễn, sẽ là người phản biện các chủ
trương chính sách của Đảng, phát hiện, kiểm
tra tính đúng đắn và sự phù hợp đối với đường
lối của Đảng. Và, thơng qua việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, nhân dân lại
cĩ điều kiện cung cấp những tư tưởng, những
dữ kiện mới nảy sinh từ thực tiễn để Đảng
hồn thiện đường lối, chính sách.
Nhân dân cịn là người giám sát việc thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Bằng sự
phản ánh của mình, nhân dân thực hiện chức
năng phê bình đối với Đảng, trên cơ sở đĩ
Đảng “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa
chữa cán bộ và tổ chức”. [3, tr.297]. Chính
vì vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở
Đảng ta cần phải biết lắng nghe ý kiến của
nhân dân, phải bàn bạc, thảo luận với nhân
dân những vấn đề “quốc kế dân sinh”. Người
cho rằng: “Việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân
chúng, cùng dân chúng bàn bạc và giải thích
cho dân chúng”. [3, tr. 294-295]
Thứ ba, quần chúng nhân dân cùng Đảng
tham gia chống tệ nạn tham ơ, lãng phí, quan
liêu và các tệ nạn khác trong bộ máy của Đảng
và Nhà nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng
đã thành cơng, Đảng ta đương nhiên trở
thành Đảng cầm quyền vì Đảng đã lãnh đạo
cách mạng trong điều kiện cĩ chính quyền và
lãnh đạo chính quyền nhân dân một cách trực
tiếp, tồn diện. Tuy nhiên, trong điều kiện
của một Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã
cảnh báo những căn bệnh dễ phát sinh trong
Đảng. Và, thực tế đã cĩ rất nhiều thĩi hư, tật
xấu nảy sinh trong Đảng, làm tha hĩa Đảng.
Người chỉ ra hàng loạt những lỗi lầm nghiêm
trọng trong hàng ngũ cán bộ đảng viên, đĩ là
tệ tham ơ, lãng phí, quan liêu... Theo Người,
đĩ chính là thứ “giặc nội xâm” vì nĩ phá hoại
ta từ bên trong.
Từ đĩ, Người kêu gọi tất cả bộ máy Đảng
và Nhà nước, mọi cán bộ đảng viên phải ra
sức chống ba căn bệnh trên, làm trong sạch
bộ máy Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, Người
cũng nhắc nhở “phong trào chống tham ơ, lãng
phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần
chúng thì mới thành cơng” [4, tr.495]. Chính
61
Tư tưởng Hồ Chí Minh . . .
vì vậy, để phịng trừ, đấu tranh với tệ tham ơ,
lãng phí, quan liêu, phương thuốc hữu hiệu
nhất là phải phát huy dân chủ, tơn trọng quyền
làm chủ của nhân dân, vận động mọi tầng lớp
nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu.
Người coi việc quần chúng nhân dân tham
gia vào cuộc đấu tranh chống tham ơ, lãng
phí, quan liêu là chìa khĩa đi đến thắng lợi,
bởi trong cuộc đấu tranh chống những kẻ cơ
hội chủ nghĩa, những kẻ luơn luơn giấu mặt,
tinh vi và cĩ nhiều thủ đoạn, tất yếu phải nhờ
vào tai, mắt, trí tuệ của quần chúng nhân dân.
Cho nên, vấn đề cĩ tính chất quyết định đến
thành cơng hay thất bại của mặt trận chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu là phải động viên,
tập hợp mọi lực lượng, mọi tầng lớp xã hội
tham gia vào trận tuyến vơ hình nhưng đầy
khĩ khăn và quyết liệt này.
3. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đối
với cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Cần khẳng định rằng, củng cố và tăng
cường mối quan hệ gắn bĩ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân là một vấn đề cĩ ý nghĩa
thiết thực, cấp bách, lại vừa cĩ ý nghĩa chiến
lược lâu dài, là điều kiện cơ bản đảm bảo
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
Cơng cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam
đang ở thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hĩa,
hiện đại hĩa đất nước, diễn ra trong điều kiện
cĩ nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết về
Đảng, về dân, về mối quan hệ giữa Đảng với
dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh. Đĩ là
sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự
ảnh hưởng xấu từ cuộc đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp trên thế giới, đặc biệt là sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch
bên ngồi bằng các thủ đoạn diễn biến hịa
bình hết sức tinh vi, phức tạp, và đặc biệt quan
trọng hơn nữa là vấn đề suy thối đạo đức, lối
sống của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ đảng
viên... Tất cả điều đĩ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến mối quan hệ gắn bĩ, mật thiết giữa Đảng
với nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
Trong điều kiện ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân cĩ ý
nghĩa hết sức quan trọng. Bản thân tư tưởng
của Người đã cung cấp cho chúng ta những
nguyên lý, những nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản để chúng ta tìm lời giải đáp cho
những vấn đề của hiện tại. Từ tinh thần ấy,
chúng tơi nhận thấy rằng tư tưởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
chính là kim chỉ nam định hướng, là cơ sở
lý luận quan trọng trong việc hoạch định mọi
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Từ tư tưởng của Người, Đảng
cần đặc biệt coi trọng và phát huy hơn nữa vai
trị, sức mạnh của mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân trong điều kiện mới. Để cĩ thể giữ
vững và tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân trong cơng cuộc đổi mới
ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề quan trọng
là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng phải xuất phát từ nhân dân, phải quán
triệt chặt chẽ bốn nguyên tắc chủ yếu sau đây:
Một là, Đảng phải thực sự lấy dân làm
gốc, phải thực sự phục vụ lợi ích thiết thực
của nhân dân.
Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam phải
thực sự dựa vào dân và biết phát huy đầy đủ
sức mạnh của quần chúng nhân dân cho sự
nghiệp cách mạng.
Ba là, Đảng cần phải phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, tạo động lực đẩy mạnh
cơng cuộc đổi mới đất nước.
Bốn là, Đảng phải thực sự chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thật
62
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
sự vì dân, để làm cho quần chúng nhân dân
tin vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào đường
lối xây dựng và phát triển đất nước của Đảng,
ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng.
4. Kết luận
Hồ Chí Minh là người cộng sản Việt Nam
đầu tiên đã cĩ tư tưởng về Đảng, về quần
chúng nhân dân và mối quan hệ giữa Đảng
với quần chúng nhân dân. Những nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng
với quần chúng nhân dân cũng chính là cơ sở
để chúng ta vận dụng trong cơng cuộc đổi mới
đất nước. Điều đĩ vừa giúp cho chúng ta
vượt qua những nguy cơ và thách thức của
tình hình mới, vừa đảm bảo cho Đảng luơn
luơn giữ vững được bản chất giai cấp cơng
nhân, giữ vững được vai trị lãnh đạo của
mình đồng thời phát huy được sức mạnh,
mọi tiềm năng sáng tạo và tinh thần làm
chủ của nhân dân, hồn thành được mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh” mà Hồ Chí Minh, Đảng
và nhân dân ta đã dứt khốt lựa chọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996),Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),Văn kiện đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[3]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 5
[4]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 6
[5]. Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. tập 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 45_4944_2121821.pdf