Tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục ở Việt Nam đầu thế kỷ XX

Tài liệu Tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục ở Việt Nam đầu thế kỷ XX: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016 89 Tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Huynh Thuc Khang’s ideas of educational innovation in Vietnam during the early twentieth century NCS. Nguyễn Hữu Sơn Học viện Khoa học Xã hội Nguyen Huu Son, Ph.D. student. Graduate Academy of Social Sciences Tóm tắt Bài viết trình bày những quan điểm của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới nền giáo dục Việt Nam vào đầu thế kỷ XX trong bối cảnh xã hội Việt Nam có nhiều biến động, đan xen giữa các yếu tố thủ cựu và cách tân, giữa cựu học với tân học Đó là những quan điểm về mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục với tư cách cốt lõi, cơ bản của một nền giáo dục hiện đại mà xã hội Việt Nam cần phải thay đổi. Từ đó, rút ra giá trị và ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong tư tưởng giáo dục của Huỳnh Thúc Kháng đối với đường lối đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. Từ khóa: quan điểm, quan...

pdf10 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 559 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 22 (47) - Thaùng 11/2016 89 Tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Huynh Thuc Khang’s ideas of educational innovation in Vietnam during the early twentieth century NCS. Nguyễn Hữu Sơn Học viện Khoa học Xã hội Nguyen Huu Son, Ph.D. student. Graduate Academy of Social Sciences Tóm tắt Bài viết trình bày những quan điểm của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới nền giáo dục Việt Nam vào đầu thế kỷ XX trong bối cảnh xã hội Việt Nam có nhiều biến động, đan xen giữa các yếu tố thủ cựu và cách tân, giữa cựu học với tân học Đó là những quan điểm về mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục và phương pháp giáo dục với tư cách cốt lõi, cơ bản của một nền giáo dục hiện đại mà xã hội Việt Nam cần phải thay đổi. Từ đó, rút ra giá trị và ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong tư tưởng giáo dục của Huỳnh Thúc Kháng đối với đường lối đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục Việt Nam hiện nay. Từ khóa: quan điểm, quan điểm của Huỳnh Thúc Kháng, quan điểm đổi mới giáo dục. Abstract This paper presents Huynh Thuc Khang’s ideas on educational innovation in the context of Vietnamese society during the early twentieth century, which changed rapidly and contained mixtures of conflicting elements such as Confucian and Western educational philosophies, traditional and modern ethical values. Huynh Thuc Khang believed that Vietnam needed new education with new objectives, new content, and new methods, focusing on building up core abilities and values for modern people. By pointing out humanistic values of Huynh Thuc Khang’s thoughts on education, the article provides experiences for the comprehensive educational innovation in Vietnam today. Keywords: ideas, ideas of Huynh Thuc Khang, ideas about educational innovation. Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), sinh tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình (nay là thôn Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam). Ông nổi tiếng thông minh, học giỏi, đỗ đầu kỳ thi Hương năm 1900 và đến năm 1904 đỗ Tiến sĩ kỳ thi Hội. Ông không ra làm quan mà đi dạy học, tìm đọc nhiều sách báo có nội dung tư tưởng mới, nuôi ý chí canh tân đất nước. Sau này ông trở thành Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ cách mạng liên hiệp, rồi Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi thăm nước Pháp năm 1946. Quá trình hình thành tư tưởng của 90 Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục theo khuynh hướng dân chủ tư sản chịu ảnh hưởng từ nhiều nguồn, đặc biệt là tư tưởng Canh Tân ở thế kỷ XIX và các Tân thư, cùng những thành tựu của văn minh phương Tây truyền bá vào Việt Nam đầu thế kỷ XX. 1. Những điều kiện, tiền đề lý luận hình thành tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục Về điều kiện lịch sử, đầu thế kỷ XX nền giáo dục Nho giáo phong kiến ở Việt Nam từng bước suy tàn và đánh dấu sự chấm dứt bằng kỳ thi cuối cùng do triều Nguyễn tổ chức vào năm 1919. Mặt khác, sự du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào Việt Nam theo cùng bước chân xâm lược của thực dân Pháp nhằm thay thế cho một nền sản xuất lạc hậu với phương thức sản xuất phong kiến thô sơ, tự cung tự tiêu “khép kín” đã tồn tại hàng ngàn năm. Sự thay đổi nền sản xuất xã hội là một tất yếu của lịch sử, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa làm thay đổi toàn bộ các quan hệ kinh tế - xã hội Việt Nam truyền thống trong đó có vấn đề về giáo dục. Giáo dục Việt Nam đứng trước những đòi hỏi bắt buộc phải đổi mới, xóa bỏ nền giáo dục Hán học bảo thủ, lạc hậu, giáo điều sang một nền giáo dục hiện đại và thực dụng (nghĩa là giáo dục phải làm sao đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, nhất là người học sau quá trình đào tạo thì phải thực hành và ứng dụng tri thức, kỹ năng vào trong thực tiễn). Huỳnh Thúc Kháng là một trong những nhà Nho yêu nước đi tiên phong trong công cuộc đổi mới tư duy với nguyện vọng xây dựng một xã hội mới, nâng cao hiểu biết cho quần chúng nhân dân, từng bước tiến tới thoát khỏi sự lệ thuộc và sự áp bức của thực dân xâm lược, khôi phục lại nền độc lập của dân tộc bằng sự tự lực, tự cường. Ngay từ khi còn nhỏ, Huỳnh Thúc Kháng đã thẫm đẫm tinh thần, cốt cách người “quân tử”qua quá trình tích lũy nền giáo dục Nho giáo phong kiến lâu đời của gia tộc, dòng họ. Với kết quả đỗ Đình Tam Giáp, đồng Tiến sĩ khi 28 tuổi (1904), thỏa được nguyện vọng của gia đình (học hành, thi cử, đỗ đạt) nhưng tự trong tư tưởng của ông đã có những chí hướng đổi khác: “Lâu nay chí kỳ vọng của gia nghiêm cốt ở thi đỗ đại khoa, nay thế là đạt mục đích, còn việc làm quan chẳng phải là điều mong muốn. Vì thế, sau khi đỗ Tiến sĩ, liền cáo bệnh ở nhà làm điếu ông” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 1455]. Bởi vì trong những năm trưởng thành học hành đỗ đạt thì cũng là những năm Huỳnh Thúc Kháng tận mắt chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, triều đình quy hàng thực dân Pháp xâm lược, người người nhà nhà ly tán bởi loạn lạc, còn sĩ phu trung nghĩa theo Chiếu Cần Vương chống giặc. Tuy phong trào Cần Vương thất bại nhưng đã để lại những dấu ấn sâu sắc không thể nào quên trong tâm trí của ông. Lần đầu tiên Huỳnh Thúc Kháng đã phê phán giới trí thức Nho học trước những đổi thay của thế giới: “Chiến tranh Trung Nhật vang động thế giới, thế mà sĩ phu trong nước chôn đầu vào khoa cử, ôm quyển ống, lều, chiếu, xem bảng vào trường, chen lấn náo nhiệt chẳng biết thế giới có việc gì, rõ kỳ quái!”. Không chỉ giới sĩ phu mà cho đến quan lại triều đình cũng với thái độ bạc nhược khi: “Tôi cùng các bạn thí sinh ngụ tại Kinh đô hơn cả tháng, có yết kiến một vài quan lớn cùng nhà trưởng giả, nhưng thỉ chung chẳng nghe đề cập đến hiện trạng Trung Nhật, đủ thấy cảnh bế tắc quá sức cũng là một việc kỳ” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 1452]. Tuy nhiên, điều đó không có 91 nghĩa là tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng hoàn toàn đi theo cái bảo thủ của tinh thần “trung quân ái quốc” mà bước đầu đã có những suy nghĩ mới về thời cuộc, về thời đại mới trong mối liên hệ Việt Nam với khu vực và thế giới. Về tiền đề lý luận, bên cạnh những ảnh hưởng, tác động của hoàn cảnh lịch sử xã hội, tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục xuất phát trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng canh tân của các nhà Nho yêu nước đi trước ở thế kỷ XIX cùng với quan điểm canh tân trong các tân thư được truyền bá từ các quốc gia lân bang như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan Đặc biệt, sau khi Việt Nam đã trở thành thuộc địa nửa phong kiến của Pháp, sự du nhập làn sóng văn minh phương Tây thông qua các giao lưu thương mại đã buộc xã hội Việt Nam có những thay đổi. Điều này góp phần vào năng lực tiếp thu “tự giác”, chủ động của Huỳnh Thúc Kháng. Tất cả tạo thành động lực thôi thúc ông có những chuyển biến đổi mới về nhận thức và hành động nhằm canh tân nền giáo dục đất nước: Trước hết là, tư tưởng Canh Tân Việt Nam thế kỷ XIX chủ yếu từ các nhà Nho không phải là tầng lớp quan lại của triều đình. Trong đó, trước những thay đổi của tình thế đất nước và thế giới, Nguyễn Lộ Trạch là người có tư tưởng đổi mới đất nước nhiều mặt được Huỳnh Thúc Kháng quan tâm nhất. Ông đã nhận thấy được ở trong tư tưởng canh tân của Nguyễn Lộ Trạch một sự nhạy bén với thời cuộc: “cái lòng lo đời và cái khí ngạo đời”, nhưng cũng rất buồn và thở than cho số phận sự nghiệp tư tưởng của Nguyễn Lộ Trạch: “Con nhà quan ở đất Huế, học thức như ông mà thủy chung ôm lòng nhiệt thành đến chết, cái tội chung của xã hội hủ bại ta không sao tránh được” [Chương Thâu - Phạm Ngô Minh, 2010: 1505]. Huỳnh Thúc Kháng đã tiếp nhận tư tưởng canh tân một cách tự nhiên theo dòng chảy của lịch sử, từng bước chuyển đổi nhận thức của mình từ lối tư duy bảo thủ theo ý thức hệ phong kiến Nho giáo sang lối tư duy năng động, tích cực đổi mới trước những thay đổi của thời đại: “Canh tân là một cái sự thực trong lịch sử loài người về đường tấn bộ, không ngả nào tránh khỏi, song lúc phát sanh ra, thường thường bởi thời thế yêu cầu một cách cần thiết, chính là cái cớ còn mất sống chết của một quốc gia một dân tộc, mà không phải là điều ngẫu nhiên có cũng được mà không cũng được,” [Chương Thâu - Phạm Ngô Minh, 2010: 314]. Song song với tư tưởng canh tân của những nhà tư tưởng yêu nước Việt Nam đi trước là sự truyền bá của tân thư vào Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tân thư là những tài liệu, sách vở của nhiều tác giả như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng, Nghiêm Phục, Tôn Trung Sơn, v.v.. từ sự thành công của công cuộc cải cách ở một số quốc gia Châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc do giới trí thức yêu nước khởi xướng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ và thành tựu văn minh của tư bản phương Tây. Nội dung tân thư đề cập tới yêu cầu phải cải cách thể chế chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội, v.v.. theo đường lối như các nước tư bản phương Tây nhằm mục đích đổi mới tư duy, tự lực, tự cường bảo vệ nền độc lập và tạo ra sự phát triển mới. Người ta bắt đầu được nghe nói tới lối học mới, và làm quen dần với khoa học - kỹ thuật của phương Tây. Điều này đã làm cho Huỳnh Thúc Kháng bắt đầu có những biến chuyển tư tưởng, tiếp thu văn hóa mới của khu vực và phương Tây, mở ra một thời kỳ mới trong tư tưởng của ông: 92 “như trong buồng tối bỗng chợt thấy tia ánh sáng lọt vào, những học thuyết mới “cạnh tranh sinh tồn”, “nhân quyền tự do”, gần chiếm cả cái chủ tịch môn học khoa cử ngày trước, mà một tiếng sét nổ đùng, có sức kích thích mạnh nhất, thấu vào tâm não người Việt Nam ta là “trận chiến tranh 1904” (Nhật Bản thắng Nga)” [Huỳnh Thúc Kháng, 2000: 107]. Huỳnh Thúc Kháng đã thay đổi cách nghĩ, cách nhìn và hành động thực tiễn (1906): “cùng các thân hào bằng hữu đề xướng chung vốn lập thương cuộc tại Phố (Hội An - Faifoo) cùng lập trường học, hội nông, trồng quế Tùy theo phong khí biến đổi trong nước, nào ăn mặc theo Âu Tây, cúp tóc, náo nhiệt một thời” – điều này làm cho “bọn thủ cựu ngó nghiêng cặp mắt” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 1456]. Ông đã góp phần vào xung đột ngày càng gay gắt giữa hai giới cựu học và tân học bằng một tinh thần hết sức cầu thị: “mua nhiều sách báo mới (của Trung Quốc mới xuất bản), ngày rằm mỗi tháng họp giảng diễn thuyết một lần, mở một nhà học, rước thầy về dạy chữ Tây và Quốc ngữ cho con em” [Chương Thâu - Phạm Ngô Minh, 2010: 1457]. Trước những tác động của điều kiện, hoàn cảnh lịch sử về tư tưởng lý luận canh tân của các bậc tiền nhân và dòng chảy của tân thư, Huỳnh Thúc Kháng đã thể hiện sự tiếp thu một cách “chủ động” bằng chính năng lực nội tại cá nhân. Ngay cả đối với những giá trị tiến bộ của văn minh phương Tây, trong thời gian lao tù Côn Đảo suốt 13 năm (1908 – 1921), Huỳnh Thúc Kháng đã tự mình học Pháp ngữ nhằm tiếp cận những giá trị, thành tựu văn hóa Pháp. Quá trình giúp việc cho các quan cai ngục người Pháp đã góp phần vào quá trình xây dựng cơ sở lý luận cho sự hình thành quan điểm đổi mới giáo dục sau đó của Huỳnh Thúc Kháng bằng cách: “mang theo một quyển Pháp – Việt từ điển của Trương Vĩnh Ký, một quyển Lecture language, và một quyển mẹo (Grammaire) mỗi giờ làm việc xong, vào khám thì học chữ Tây... cùng nhau nghiên cứu, có hiểu biết Pháp văn nhiều ít” và dù chỉ tạm dừng ở chỗ “đọc sách hiểu nghĩa, đặt câu và phiên dịch, biết được đại khái” nhưng cũng đủ cho thấy tinh thần canh tân tiếp cận tư tưởng mới của phương Tây. Ông tiếp thu lối làm việc của Tây khi được đưa từ buồng giam tù chính trị lên giúp việc phòng giấy Tham biện (Directeur): “lúc mới vào không hiểu gì cả. Nhưng dần dần rồi tìm ra mối manh, thấy rõ người Tây về mặt sổ sách, biên chép, số mục thứ lớp, cái gì ra vào cùng ghi ngày tính tháng, có môn loại rành rẽ, nhân đó được môn học thực nghiệm về mặt làm việc tập sự”[Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 837 – 839]. Điều đặc biệt trong nhận thức của Huỳnh Thúc Kháng khi xác định ở tù còn là “đi học” ở nơi mà ông gọi là “thiên nhiên học hiệu”. Thời gian này đã làm cho tư tưởng của ông không ngừng được mở rộng, phong phú thêm về mặt kiến thức cũng như nhận thức về các vấn đề thời đại khi tiếp xúc với văn minh phương Tây thông qua việc tự học Pháp ngữ và làm việc cho cai ngục người Pháp. Những điều kiện và tiền đề tư tưởng trên đã góp phần hình thành những tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục với nội dung mang đậm tính đặc sắc của riêng ông. 2. Nội dung tư tưởng của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục ở Việt Nam đầu thế kỷ XX Trên cơ sở những yếu tố tác động của điều kiện lịch sử và tiền đề tư tưởng, 93 Huỳnh Thúc Kháng đã có những nhận thức tích cực, nhạy bén trước những biến chuyển của thời cuộc. Ông đã đưa ra quan điểm phải đổi mới thay thế nền giáo dục phong kiến lạc hậu bằng việc tiếp thu những thành tựu văn minh của giáo dục phương Tây và những cải cách tiến bộ ở các quốc gia khác trong khu vực. Trước hết, Huỳnh Thúc Kháng tuy xuất thân là một Nho sĩ đỗ đạt khoa cử của triều Nguyễn nhưng nhận thức rõ được tình cảnh “nô lệ” ở chốn quan trường dưới sự cai trị của thực dân Pháp nên ông cự tuyệt nhận chức quan. Đồng thời từ sự tiếp thu, ảnh hưởng của tư tưởng Canh tân đất nước và Tân thư từ bên ngoài mà ông có sự thay đổi nhận thức, phê phán nền giáo dục Nho học phong kiến lỗi thời, bảo thủ và trì trệ. Trong bối cảnh cuối thế kỷ XIX, nền giáo dục phong kiến đang dần suy thoái cùng với sự du nhập và từng bước hình thành hệ thống giáo dục phương Tây hiện đại thì một bộ phận không nhỏ tầng lớp trí thức Nho học chủ yếu vẫn “trung thành” với tứ thư - ngũ kinh, với cầm - kỳ - thi - họa được xác định là nhân cách, lẽ sống của người quân tử, khinh miệt “kẻ tiểu nhân”. Sự chi phối của nền giáo dục phong kiến Nho học đối với người học không còn được như trước mà tùy thuộc vào khả năng nhận thức của người học trước những chuyển biến của thời đại về khoa học, kỹ thuật và mục đích của bản thân người học không còn xác định việc học hành đỗ đạt làm quan, tuyệt đối trung thành dưới sự cai trị của chế độ quân chủ chuyên chế nữa. Huỳnh Thúc Kháng phê phán quyết liệt nền giáo dục phong kiến bởi sự bảo thủ về nội dung, giáo điều về phương pháp và hư vô về kỹ năng, thực hành làm cho mục tiêu của người học không rõ ràng. Dù rằng, trong tâm thức của người Việt bao đời nay luôn hướng tới việc: “ “đi học cốt để làm quan”, vì cái tánh đó cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học phép thi đổi ra cách mới, công chiến thương chiến giặc tới bên chưn, mà người đi học trong nước vẫn ôm cái hy vọng “làm quan” là chủ chốt.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 281]. Từ đó, ông chỉ trích việc người học chỉ có một lối thoát mà đồng thời là tham vọng duy nhất trên con đường học vấn: có được một vị trí chốn quan trường: “Người hạng nào cũng có thể mong làm nên quan được, nhưng đã lên đến bực quan thì đối với dân “nhứt tự cách trùng sơn” trong khoảng quan dân bỗng nhiên sinh ra xa nhau như trời và vực Quan là rất quý mà dân là rất tiện, trong xã hội ai cũng hăm hở mong quan, từ khi mới để trái đào cắp sách đi học cũng đã mang cái mộng tưởng làm quan trong não”. Điều này là dễ hiểu, bởi dưới chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến thì triều đình phải đặt ra chế độ khoa cử nhằm bó buộc và lung lạc những kẻ sĩ, chỉ nhằm một mục đích duy nhất là bảo vệ quyền lợi của giai cấp cầm quyền, Huỳnh Thúc Kháng đã chỉ rõ: “sĩ phu mà đã đi vào đường ấy thì không những không khi nào nghị luận đến quyền quân chủ mà lại là những phần tử tận trung tận tín, làm vây cánh rất mạnh mẽ cho triều đình.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 493]. Bên cạnh việc cho rằng tất cả mọi cái đều có chung một cái gốc là Hán học xưa cũ gây ra: “học thuyết tôn quân, gốc trong Hán học mà Hán học đã thành ra tro tàn, thì tâm lý tôn quân trong xã hội cũng theo mà nguội lạnh, muốn tôn quân quyền mà bỏ Hán học ấy là một điều trái ngược” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 521]; Huỳnh Thúc Kháng cũng phê phán việc học trước đây thực chất không ngoài 94 mục đích “phục vụ” cho tầng lớp quan lại, triều đình phong kiến, vì mục tiêu là “vinh thân, phì gia”, nên ông cho rằng: “Nếu như ngày trước học Hán văn, chăm chú vào khoa danh lợi lộc, cốt làm sao cho đạt được cái mục đích “thi đỗ làm quan”; thì ngày nay cốt sao cho dựt được tấm bằng để kiếm việc làm, mà việc làm ấy không ngoài phạm vi thân gia.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 591]. Quan điểm về giáo dục của Huỳnh Thúc Kháng đã thoát khỏi những phạm trù của Nho giáo (vốn dĩ lấy quá trình tu dưỡng đạo đức, nhân cách con người làm trung tâm cũng như lấy việc tận trung phục vụ chính quyền phong kiến và dựa vào nó là cớ “sinh nhai, phì gia, vinh thân” cho cá thân, gia đình, dòng họ”) chuyển sang một phạm trù mới xác định người học là trung tâm của sự phát triển xã hội, phát huy vai trò lao động của con người trong phát triển kinh tế, đó là: Về mục đích của giáo dục, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng giáo dục phải làm cho người học có đầy đủ tri thức và kỹ năng để đáp ứng được việc làm trong xã hội, nuôi sống bản thân, gia đình góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Ông đề cao vai trò của tân học, xóa bỏ cựu học nhưng đồng thời cũng chỉ ra giáo dục phải biết xác định mục tiêu cụ thể là thực hành nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu lao động xã hội. Đồng thời, trong điều kiện xã hội mới tập trung đến yếu tố nghề nghiệp, việc làm thì Huỳnh Thúc Kháng lưu ý đối với quần chúng nhân dân cần có sự lựa chọn việc học tập sao phù hợp với bản thân, năng lực và đáp ứng được cái thực tiễn, chớ vì “tâm lý” chạy theo đám đông mà theo học không hiểu biết gì vừa mất công vừa mất thời gian lãng phí vô ích: “Nói cho rõ là học cái hay bỏ cái dở mà lựa chọn lừa lọc rất cẩn thận, không có cái “theo mù” và chỉ tô cái vỏ bề ngoài như lối học của người Nam ta” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 610]. Những nhận xét của ông thật xác đáng và sâu sắc với xã hội Việt Nam hiện nay của thế kỷ XXI khi không ít người học chưa xác định rõ nhu cầu, năng lực của bản thân cũng như yêu cầu kỹ năng nghề nghiệp của xã hội đối với từng lĩnh vực việc làm mà học tập cốt chỉ để lấy mảnh bằng đại học nhằm dễ xin việc vào trong “biên chế nhà nước” cũng như chạy theo “thị hiếu sính bằng cấp” dẫn đến tình trạng “thất nghiệp” tràn lan sau khi tốt nghiệp hoặc làm việc trái với ngành, nghề đã được đào tạo: “những quyền lợi của người làm quan, cách đối đại đặc biệt với những học sinh thi đậu, đã gây cho dân ta ngày nay một cái tâm lý “học để đi thi” không khác gì cái tâm lý của sĩ phu xưa vậy” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 495]. Vì vậy, Huỳnh Thúc Kháng nhấn mạnh ngay từ đầu người dân cần nhận thức rõ việc xác địch mục đích học tập, khoa cử là như thế nào, xác định dựa trên thực tế điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội của đất nước chứ không phải chạy theo lối học mới, theo đám đông mà không hiểu biết gì. Huỳnh Thúc Kháng chú trọng đến mục đích giáo dục kỹ năng nghề nghiệp, tính chuyên môn hóa như quan điểm từ truyền thống của ông cha là “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Ông cho rằng, giáo dục phải chú trọng đến mặt ứng dụng, thực hành với tư cách là một nghề phù hợp với khuynh hướng, năng khiếu của mỗi người và xã hội đang cần: “Trong nước, người nào cũng phải biết một nghề. Kỹ nghệ là nghề, khảo cứu là nghề, trước thuật cũng là nghề. Muốn công nghệ được thịnh, giáo sư phải biết trọng khiếu riêng của thiếu niên Học thuật mà càng chuyên môn, thời cuộc tấn hóa mới càng chóng thịnh.” [Chương Thâu 95 – Phạm Ngô Minh, 2010: 268]. Mục đích của giáo dục mới theo Huỳnh Thúc Kháng không phải là con đường học để đi thi, để đỗ đạt làm quan, mà là học để có tri thức, có kỹ năng, hiểu biết nghề nghiệp làm việc trong xã hội, nuôi sống bản thân, nuôi sống gia đình và góp phần phát triển xã hội. Về nội dung giáo dục, theo Huỳnh Thúc Kháng xác định cốt lõi cần đào tạo về kỹ năng ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) và tri thức hiểu biết về khoa học, kỹ thuật cho người học trong bối cảnh xã hội phát triển mới: Nếu như trước đây việc dạy kỹ năng ngôn ngữ (gồm: tiếng nói và chữ viết) chủ yếu tập trung vào dạy chữ Hán, thực hiện trên cơ sở dạy Tam tự kinh hay Minh tâm bảo giám mang tính kinh điển nhằm thực hành lễ nghi đạo đức trong gia đình, dòng họ, cộng đồng thì nay tập trung dạy Quốc ngữ thông qua dạy lịch sử Việt Nam và thế giới, địa lý, bác vật (khoa học tự nhiên), toán pháp. Ông coi chữ Quốc ngữ là tiếng mẹ đẻ: “vẫn nhận chữ Quốc ngữ là tiếng nước nhà, làm nền cho môn học phổ thông” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 574]. Mặt khác, Huỳnh Thúc Kháng đã có sự nhận thức rất tiến bộ trước bối cảnh thời đại khi xác định chữ Pháp là chìa khóa cho việc tiếp thu văn hóa, văn minh phương Tây: “hoàn cảnh sanh hoạt của nước ta ngày nay, chữ Pháp là cần nhứt” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 574], bởi vì mọi giao thương với khu vực và thế giới của Việt Nam lúc bấy giờ chủ yếu đều thông qua sự bảo hộ của chính quyền thực dân Pháp. Điều đó có ý nghĩa như ngày nay, khi Anh ngữ trở thành công cụ giao tiếp thông dụng cho mọi hoạt động giao lưu hội nhập quốc tế đòi hỏi phải xác định giáo dục kỹ năng tiếng Anh trở thành ngoại ngữ thứ hai cho mọi người, như ông từng viết: “Giáo dục nhất định theo sự tất yếu trên đường sanh hoạt một dân tộc” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 575]. Tuy nhiên, Huỳnh Thúc Kháng vốn dĩ xuất thân là một nhà Nho chịu ảnh hưởng của nền Hán học nên ông không phủ nhận những giá trị tích cực của việc học tập chữ Hán mới tư cách là công cụ trong ghi chép của nước ta suốt mất ngàn năm qua cũng như mối quan hệ giao lưu Việt – Hoa trên nhiều lĩnh vực văn hóa – kinh tế cho nên: “mù chữ Hán vẫn có điều bất tiện” [Chương Thâu - Phạm Ngô Minh, 2010: 573]. Bên cạnh đó, vai trò của tri thức khoa học kỹ thuật không chỉ với tư cách là làm thay đổi nhận thức của người học mà còn giúp cho kế sinh nhai nghề nghiệp người học trong thực tiễn đời sống xã hội mới cũng không kém phần quan trọng trong nội dung giáo dục theo quan điểm của Huỳnh Thúc Kháng. Ông cho rằng, có ngôn ngữ rồi thì mới đọc và học được những tri thức khác, do đó việc tiếp thu tri thức khoa học chính là sự mở rộng hiểu biết của tư duy làm cho tư tưởng con người được tự do không lệ thuộc vào sự “ngu muội” thiếu hiểu biết, lạc hậu, hạn hẹp về tầm nhìn, tính tích cực, sáng tạo được mở rộng: “Học giới nước ta không có tư tưởng tự do, không có năng lực sáng tạo, mất hẳn tính chất phán đoán, chỉ một mực nhắm mắt theo mù làm nô lệ cho người xưa” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 269]. Do đó mà ông nhận định: “muốn tư tưởng được tự do, thời tâm trí phải biết tự lập mới được. Tự lập nghĩa là tự mình xét, tự mình tin phải có não khảo cứu phải lấy khoa học làm chủ nghĩa” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 269]. Trong quá trình học thì người học cần phải có tư duy khoa học để nghiên cứu tìm tòi 96 nội dung của môn học trong thực tiễn, đó là căn cứ vào thực tiễn, lý tính chứ không mơ hồ, chủ quan, cảm tính. Huỳnh Thúc Kháng đã chỉ ra hạn chế của nội dung học tập rập khuôn, máy móc và thậm chí là sáo rỗng của nền giáo dục phong kiến là: “Ngày trước học Hán văn, đọc sách làm văn, theo lối từ chương không cần biết đến thực dụng học văn của thánh hiền là thế nào, nên mài miệt theo mậu thuyết Tống nho mà hết ngày” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 591]. Nội dung giáo dục theo quan điểm của Huỳnh Thúc Kháng vừa thể hiện tính hai mặt lại vừa thống nhất trong một quá trình, đó là: học ngôn ngữ, tập chữ viết làm công cụ, cơ sở để học tập tri thức khoa học, kỹ thuật, tiếp cận được với những thông tin mới mẻ của thế giới nhằm nâng cao nhận thức tư duy, làm cho tư tưởng tích cực, sáng tạo, gắn với thực tiễn đời sống xã hội, đất nước và thời đại. Về phương pháp giáo dục, muốn thực hiện được nội dung mới của giáo dục là đào tạo kỹ năng ngôn ngữ và tri thức khoa học kỹ thuật, Huỳnh Thúc Kháng cho rằng phải đi từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, nghĩa là phải có tính hệ thống liên thông từ tiểu học, trung học và phổ thông rồi đến “chuyên môn”, ngày nay chính là giáo dục phổ thông (mầm non, tiểu học, trung học) và giáo dục chuyên nghiệp (trung cấp – cao đẳng – đại học). Mà giáo dục phổ thông chính là nền tảng cơ bản để người học có cơ sở tiếp thu những bậc học cao hơn, cho nên trong giáo dục việc đầu tiên là có phương pháp hệ thống: “có chuyên môn mà không có phổ thông lại là một điều hại vì không có học thức phổ thông thời “không có não tổng hợp” Giáo dục phổ thông bởi cớ ấy mà thành một việc trọng yếu.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 268]. Ngoài ra, phương pháp giáo dục còn phải là gắn liền giữa lý thuyết với thực hành, trong đó chú trọng đến ứng dụng thực nghiệm khi Huỳnh Thúc Kháng chỉ ra thực trạng người học: “ra ở đời, nhiều điều có học mà vô dụng, nhiều điều xã hội cần lại không biết” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 269]. Quan điểm này của Huỳnh Thúc Kháng có một ý nghĩa lớn cho đến ngày nay với thực trạng giáo dục Việt Nam vẫn chưa có sự gắn kết thực sự giữa nhà trường với xã hội, hay nói cách khác là đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Nguyên nhân một phần là sự ảnh hưởng của nền giáo dục phong kiến hàng ngàn năm theo lối: “trích cú tầm chương, chú thích từng câu từng chữ trong thánh kinh hiền truyện để tô vẽ cho đạo lý tôn quân, cách học ấy rất là áp chế tư tưởng, thúc phược tinh thần chính là thích hợp với cái nhu cầu của nhà quân chủ để bảo trì quyền uy của mình và khu hết cả sĩ phu trong nước vào cái đường tối tăm chặt hẹp có lợi cho mình.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 492]. Phương pháp giáo dục này đã làm cho người học trở nên thụ động: về mặt tư duy người học tiếp thu theo hướng “một chiều”, đánh mất đi tính phản biện “đa chiều” của tư tưởng; về mặt hành vi người học rập khuôn theo quan điểm người dạy và nội dung sách vở mà không chú ý đến tính sinh động của hoàn cảnh thực tiễn xã hội luôn thay đổi. Vì lẽ đó, ông yêu cầu phải: “Học đường phải dọn đường cho xã hội mới được. Muốn thế, phải: a) dạy thực hành (pratique) trước rồi dạy lý luận (theorie) sau; b) dùng phép thực nghiệm (experience) để dạy hơn là dùng sách.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 269]. Từ đó, ông chỉ ra lối học với tư duy phản biện của người phương Tây là: “nhờ cái mối tư tưởng tự do mà phát đạt 97 rất sớm. Tư tưởng được tự do, nên phàm nhà hiền triết, sáng lập và phát minh được cái thuyết gì thì làm ra sách vở, công bố cho người đời tha hồ biện bác phê bình. Nhờ lối biện bác phê bình ấy mà chân lý càng bày tỏ ra, không bị cái gì che lấp” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 505]. Mặt khác, từ thực tiễn từ thực tiễn bản thân mình, Huỳnh Thúc Kháng khẳng định vai trò quan trọng nhất của phương pháp giáo dục là tự học, tự nghiên cứu. Ông cho rằng: “muốn tư tưởng được tự do, thời tâm trí phải biết tự lập mới được”, đồng thời chỉ rõ: “học đường là nơi “dọn đường” cho xã hội, nên học đường phải luyện tập não khảo cứu cho thiếu niên” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 269]. Như vậy, trong các quan điểm đổi mới về phương pháp giáo dục, Huỳnh Thúc Kháng đã thể hiện tư duy biện chứng xác định các phương pháp quan trọng là: giáo dục phải có phương pháp hệ thống từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp; cần gắn liền giữa lý thuyết với thực hành, chú trọng phương pháp thực nghiệm với người học; và xác định tầm quan trọng quả phương pháp tự học, tự nghiên cứu đối với người học trong quá trình giáo dục nâng cao. 3. Kết luận Dù chưa xây dựng một cách đầy đủ và hoàn thiện thành một hệ thống các vấn đề của giáo dục Việt Nam hiện đại đầu thế kỷ XX trước sự lụi tàn của nền giáo dục Nho giáo phong kiến nhưng Huỳnh Thúc Kháng xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương dân, từ sự nhạy cảm với chính trị và thời cuộc, ảnh hưởng bởi những tư tưởng Canh tân của các bậc tiền nhân và nội dung của các tân thư được truyền bá vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cùng với những giá trị tiến bộ của văn hóa, văn minh phương Tây, trở thành người tuyên truyền, phổ biến quan điểm về một nền giáo dục mới cho quần chúng nhân dân. Đó là một cuộc cách mạng trong quá trình chuyển biến nhận thức của ông từ một nền giáo dục phong kiến sang một nền giáo dục mới trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng mới mang khuynh hướng dân chủ tư sản. Quan điểm của Huỳnh Thúc Kháng về đổi mới giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XX khác hoàn toàn với giáo dục phong kiến Nho giáo truyền thống và mang một ý nghĩa sâu sắc đối với sự phát triển mới có tính bước ngoặc của dân tộc đó là: Thứ nhất, xác định mục đích giáo dục gắn với nhu cầu thực tiễn phát triển nghề nghiệp, việc làm của con người trong xã hội; Thứ hai, nội dung giáo dục tập trung vào việc đổi mới tư duy tiếp cận với thành tựu văn minh, tri thức khoa học, kỹ thuật trên cơ sở nền tảng về ngôn ngữ dân tộc là Quốc ngữ và hội nhập với thế giới bằng Pháp ngữ; Thứ ba, xóa bỏ phương pháp giáo dục mang tính truyền thụ “một chiều”, đề cao tính phản biện “đa chiều” của tư duy và gắn liền với hiện thực xã hội, gắn lý thuyết với thực hành, thực nghiệm mang tính ứng dụng nghề nghiệp. Tư tưởng đổi mới giáo dục của Huỳnh Thúc Kháng thực sự mang tính thời đại cho đến tận ngày nay, chỉ cần nhìn vào nền giáo dục thì có thể nhận diện được một dân tộc, một quốc gia bởi vì: “giáo dục là người thợ để vẽ ra bức tranh văn minh. Ảnh hưởng ra bề ngoài, cuộc trị an ở bề trong, nhiều hay ít, thịnh hay suy, nguyên nhân chính ở giáo dục.” [Chương Thâu – Phạm Ngô Minh, 2010: 269]. Do đó, trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết chuyên đề về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, 98 hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI và tư tưởng chỉ đạo Đại hội XII của Đảng về “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học” với trọng tâm xác định là phải đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục theo hướng tinh giảm, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề là hết sức cần thiết, cấp bách. Những vấn đề đổi mới giáo dục được Huỳnh Thúc Kháng đề ra từ đầu thế kỷ XX vẫn còn nguyên giá trị, ý nghĩa rất cần được tiếp thu và kết hợp thực hiện trong quá trình đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013, Hà Nội. 2. Chương Thâu - Phạm Ngô Minh (2010), Huỳnh Thúc Kháng Tuyển tập, Nxb Đà Nẵng. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 4. Huỳnh Thúc Kháng (2000), Huỳnh Thúc Kháng tự truyện và thư gửi Kỳ ngoại hầu Cường Để, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 5. UBND Tỉnh Quảng Nam (2012), Thân thế và sự nghiệp cụ Huỳnh Thúc Kháng (1876 – 1947), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. UBTWMTTQVN-Hội KHLS Việt Nam (1997), Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, Hà Nội. Ngày nhận bài: 10/10/2016 Biên tập xong: 15/11/2016 Duyệt đăng: 20/11/2016

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf167_8323_2215218.pdf
Tài liệu liên quan