Tài liệu Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844” đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017
46
Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen
trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844”
đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát triển con người
From C.Mac and Ph.Angghen’s thought of human philosophy in
“The Economic Philosophic manucripts of 1844”
to the Vietnamese community’s view on human development
TS. Vũ Công Thương, Trường Đại học Sài Gòn
Vu Cong Thuong, Ph.D., Saigon University
TS. Phan Thị Hồng Duyên, Trường Đại học Hoa Lư – Ninh Bình
Phan Thi Hong Duyen, Ph.D., Hoa Lu University – Ninh Binh Province
Tóm tắt
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 là bản sơ thảo đầu tiên cuốn sách của C.Mác và Ph.Ăngghen “Phê
phán chính trị và khoa kinh tế chính trị”. Nội dung cơ bản trong tác phẩm này chủ yếu C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày những vấn đề về kinh tế, chính trị; tuy nhiên, vấn đề con người đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen đề cập qua đối thoại với các...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 520 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844” đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017
46
Từ tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen
trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - Triết học năm 1844”
đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát triển con người
From C.Mac and Ph.Angghen’s thought of human philosophy in
“The Economic Philosophic manucripts of 1844”
to the Vietnamese community’s view on human development
TS. Vũ Công Thương, Trường Đại học Sài Gòn
Vu Cong Thuong, Ph.D., Saigon University
TS. Phan Thị Hồng Duyên, Trường Đại học Hoa Lư – Ninh Bình
Phan Thi Hong Duyen, Ph.D., Hoa Lu University – Ninh Binh Province
Tóm tắt
Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844 là bản sơ thảo đầu tiên cuốn sách của C.Mác và Ph.Ăngghen “Phê
phán chính trị và khoa kinh tế chính trị”. Nội dung cơ bản trong tác phẩm này chủ yếu C.Mác và
Ph.Ăngghen trình bày những vấn đề về kinh tế, chính trị; tuy nhiên, vấn đề con người đã được C.Mác và
Ph.Ăngghen đề cập qua đối thoại với các học giả đương thời và qua phê phán Phoiơbắc và Hêghen. Bài
viết này trình bày một số vấn đề về tư tưởng triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác
phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, qua đó liên hệ với việc phát triển bền vững con người ở
Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: nguồn gốc con người, bản chất con người, tha hóa lao động, giải phóng con người, phát triển
con người.
Abstract
The philosophic economic manuscripts of 1844 was C.Mac and Ph.Angghen’s first draft of the book
"Political Criticism and Political Economy". The basic content of this work is their interpretation of
economic and political issues. However, the human problems have been solved by C.Mac and
Ph.Angghen in dialogue with contemporary scholars and through critique of Phoiobac và Heghen. This
article presents some issues of human philosophical thought of C.Mac and Ph.Angghen in “The
philosophic economic manuscripts of 1844” in relation with the human sustainable development in
Vietnam today.
Keywords: human origin, human nature, labor alienation, liberating people, human development.
1. Mở đầu
Bản thảo Kinh tế - triết học năm 1844
là tác phẩm nhằm phê phán lý luận đương
thời về kinh tế, chính trị, pháp quyền và
một phần phê phán quan niệm của
Phoiơbắc và Hêghen. Ở đây C.Mác và
Ph.Ăngghen không có ý định bàn về chủ đề
con người. Tuy nhiên, những tư tưởng về
VŨ CÔNG THƯƠNG – PHAN THỊ HỒNG DUYÊN
47
con người trong tác phẩm này nảy sinh qua
đối thoại với các học giả đương thời và qua
phê phán Phoiơbắc và Hêghen lại rất
phong phú. Nghiên cứu tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen về con người trong
tác phẩm này, cần quan tâm tư tưởng về
con người như: nguồn gốc và bản chất con
người; sự tha hóa lao động và về giải
phóng con người
2. Nội dung
2.1. Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen
về con người trong tác phẩm “Bản thảo
kinh tế - triết học năm 1844”
Thứ nhất, về nguồn gốc và bản chất
con người.
Trong tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã trình bày quan điểm về con người hiện
thực là một sinh vật có tính loài, là thực thể
tự nhiên có tính chất người, tức là có hai
mặt: Tự nhiên và xã hội. Mặt tự nhiên là
thể xác, là cơ thể sinh vật của con người và
mối liên hệ hữu cơ của nó với giới tự nhiên
ở bên ngoài cơ thể ấy. Còn mặt xã hội
chính là hoạt động lao động, mối liên hệ
giữa con người với nhau, là tất cả những gì
hình thành trên cơ sở hoạt động và liên hệ
ấy như nhà nước, khoa học, nghệ thuật, tôn
giáo.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá cao
cách tiếp cận giá trị về con người ở
Phoiơbắc, và thừa nhận nguyên tắc “con
người là một bộ phận của giới tự nhiên”1,
song vì cách tiếp cận đó chỉ đề cập đến con
người nói chung, con người như kết quả
của tiến hóa tự nhiên, nên theo C.Mác và
Ph.Ăngghen nó cần được phân tích sâu sắc
hơn, cần đặt trong hoạt động, mà trước hết
là hoạt động thực tiễn, vật chất. Cần nhấn
mạnh rằng con người không chỉ là thực thể
tự nhiên, mà còn là “thực thể tộc loại đối
với mình2, “một sinh vật có tính loài”3.
Tiếp thu quan điểm đề cao yếu tố tự
nhiên trong sự tồn tại của con người của
Phoiơbắc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát
triển hoàn chỉnh khái niệm con người theo
quan điểm của mình. Các ông viết: “Nhưng
con người không chỉ là thực thể tự nhiên,
nó là thực thể tự nhiên có tính chất người,
nghĩa là thực thể tồn tại cho bản thân mình
và do đó là thực thể loài”4. Bởi lẽ, khác với
các thực thể tự nhiên khác chỉ tồn tại một
cách tự nó, con người một sinh vật có ý
thức, tồn tại có mục đích - “tồn tại cho bản
thân mình”, bằng cách lấy giới tự nhiên
bên ngoài làm “đối tượng” của mình - cải
biến giới tự nhiên. “Chính trong việc cải
biến thế giới vật thể, con người lần đầu tiên
thực sự khẳng định mình là một sinh vật có
tính loài”5.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con
người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh
vật với mặt xã hội. Con người có những
hoạt động thực tiễn như lao động, chính trị
- xã hội, thực nghiệm khoa học... Những
hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động
giúp con người dần dần trút bỏ đời sống
thuần túy của một động vật để tiến tới đời
sống văn minh của xã hội cho nên đây là
hoạt động bản chất của con người.
Các ông đã chỉ rõ rằng, “Có thể phân
biệt con người với súc vật, bằng ý thức,
bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì
cũng được. Bản thân con người bắt đầu
bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do
tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình,
như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra
chính đời sống vật chất của mình”6. Trong
quá trình đó, con người làm ra lịch sử - xã
hội của chính mình.
Như vậy, theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
“Bản chất con người của tự nhiên chỉ tồn
TỪ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN TRONG TÁC PHẨM
48
tại đối với con người xã hội; vì chỉ có trong
xã hội, tự nhiên đối với con người mới là
một cái khâu liên hệ con người với con
người, mới là tồn tại của con người đối với
người khác và đối với người đó, mới là
nhân tố sinh hoạt của hiện thực con người;
chỉ có trong xã hội, tự nhiên mới biểu hiện
ra là cơ sở của sự tồn tại có tính chất người
của bản thân con người. Chỉ có trong xã
hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là
tồn tại có tính chất người của con người
đối với con người và tự nhiên mới trở
thành con người đối với con người. Như
vậy, xã hội là sự thống nhất bản chất đã
hoàn thành của con người với tự nhiên, sự
phục sinh chân chính của tự nhiên, chủ
nghĩa tự nhiên đã được thực hiện của con
người và chủ nghĩa nhân đạo đã được thực
hiện của tự nhiên”7. Đồng thời, các ông còn
khẳng định: “Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội”8.
Thứ hai, về sự tha hóa lao động.
Trong tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã tập trung làm rõ nội dung và thực chất
của các phạm trù “sự tha hóa của lao
động”, “lao động bị tha hóa”, “sở hữu tư
nhân” và mối quan hệ của chúng trên cơ sở
lấy sự kiện kinh tế làm điểm xuất phát.
Khác với Hêghen và Phoiơbắc, ngay
từ đầu C.Mác và Ph.Ăngghen đã lý giải sự
tha hóa của con người từ chính đời sống xã
hội của con người, từ điều kiện sống và các
quan hệ xã hội của họ, từ hoạt động thể
hiện sức mạnh bản chất của con người đó
là lao động. Các ông cho rằng, tha hóa
trước hết là một dạng quan hệ xã hội, là
hình thức giao tiếp xã hội của con người,
mà trong đó những điều kiện sống và lao
động của họ, kết quả hoạt động của họ thể
hiện ra như là một lực lượng xa lạ và thù
địch, là kết quả trực tiếp của chế độ sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự tha hóa trong
lĩnh vực kinh tế, theo C.Mác và Ph.Ăngghen
là cơ sở của những hình thức tha hóa khác
trong lĩnh vực vật chất và cuối cùng cả
trong lĩnh vực tinh thần của các quan hệ xã
hội của con người.
Tập trung lý giải sự tha hóa của lao
động với tư cách là một tất yếu lịch sử -
sự tự tha hóa của lao động, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng: sự tồn tại và phát
triển của “lao động bị tha hóa” gắn liền
với chế độ tư hữu. Nếu như các đại biểu
của triết học cổ điển Đức đã coi sự xuất
hiện của chế độ tư hữu là do bản tính tham
lam, ích kỷ của con người, thì C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng chế độ tư hữu đó
được sinh ra do “lao động bị tha hóa” và
khi “lao động bị tha hóa” xuất hiện, đã
làm nảy sinh sự tha hóa của lao động và
dẫn đến “con người bị tha hóa”, “đời sống
bị tha hóa”. Sự tha hóa này theo C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đạt tới đỉnh điểm trong
chủ nghĩa tư bản và được thể hiện ra bằng
việc sức lao động bị biến thành hàng hóa,
cũng như ở quá trình hoạt động sản xuất,
ở sản phẩm của lao động và hậu quả tất
yếu của nó là “sự tha hóa của con người
với con người”.
Khắc phục sự tha hóa này, C.Mác và
Ph.Ăngghen khẳng định chính là sự xóa bỏ
chế độ tư hữu và việc giải phóng người
công nhân khỏi “lao động bị tha hóa” dưới
chủ nghĩa tư bản cũng chính là khắc phục
lao động bị tha hóa nói chung, là sự giải
phóng con người. Lý giải cụ thể hiện thực
lịch sử này, C.Mác và Ph.Ăngghen cho
rằng, hoạt động của con người và sự tự
khẳng định của nó với tư cách một sinh vật
có tính loài có ý thức biểu hiện ra trước hết
là ở thực tiễn sáng tạo ra thế giới vật thể, ở
VŨ CÔNG THƯƠNG – PHAN THỊ HỒNG DUYÊN
49
nền sản xuất xã hội. Các ông viết “Việc tạo
một cách thực tiễn ra thế giới vật thể, việc
cải tạo giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng
định của con người với tư cách là sinh vật
có tính loài có ý thức, nghĩa là một sinh vật
đối xử với loài như với bản chất của chính
mình, hoặc đối xử với bản thân mình như
với một sinh vật có tính loài”9.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, trong
xã hội tư bản việc người công nhân sản
xuất ra sản phẩm là việc vật thể hóa bản
thân họ, còn việc mất sản phẩm đã sản xuất
ra do sự thống trị của chế độ tư hữu là sự
tha hóa của lao động, bởi vì vật phẩm đối
diện với người công nhân như một thực thể
xa lạ, như một lực lượng không phụ thuộc
vào người sản xuất. Sản phẩm lao động
không thuộc về người sản xuất đã sản xuất
ra chúng, mà thuộc về người sở hữu tư bản.
“Việc chiếm hữu vật phẩm biểu hiện ra là
một sự tha hóa đến mức người công nhân
sản xuất ra càng nhiều vật phẩm thì anh ta
càng có thể chiếm hữu càng ít vật phẩm và
anh ta bị sản phẩm của anh ta, tức tư bản
thống trị càng mạnh”10. Sức mạnh của tư
bản ngày càng tăng thì người công nhân lại
càng trở nên nghèo khổ. “Lao động sản
xuất ra những vật phẩm kỳ diệu cho những
người giàu, nhưng chính nó lại sản xuất ra
sự bần cùng hóa công nhân”11. Chính sự
tha hóa của lao động đã tạo ra sự bất bình
đẳng ngày càng tăng về tài sản và đào sâu
thêm cái vực thẳm giữa lao động và tư bản.
Có thể thấy, trong tác phẩm C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phân tích chỉ rõ chế độ tư
hữu là nguyên nhân làm cho con người bị
tha hóa ở trên hai phương diện, một là, sự
tha hóa của người công nhân trong sản
phẩm lao động của anh ta. Biểu hiện của sự
tha hóa là, “sản phẩm của anh ta không chỉ
có ý nghĩa là lao động của anh ta t rở
thành một vật phẩm, có được sự tồn tại bên
ngoài, mà còn có ý nghĩa lao động của anh
ta tồn tại ở bên ngoài anh ta, không phụ
thuộc vào anh ta, xa lại với anh ta, và lao
động ấy trở thành một lực lượng độc lập
đối lập với anh ta anh ta tạ ra càng nhiều
giá trị thì bản thân anh ta càng bị mất giá
trị, càng bị mất phẩm cách”12; hai là, sự tha
hóa của người công nhân trong bản thân
hành vi sản xuất, trong bản thân hoạt động
sản xuất. Sự tha hóa của công nhân trong
sản phẩm của anh ta không chỉ có ý nghĩa
là lao động của anh ta trở thành một vật
phẩm, có được sự tồn tại bên ngoài, mà còn
có ý nghĩa là lao động của anh ta tồn tại ở
bên ngoài anh ta, không phụ thuộc vào anh
ta, xa lạ với anh ta, và lao động ấy trở
thành một lực lượng độc lập đối lập với
anh ta, có nghĩa là đời sống mà anh ta
truyền cho vật phẩm, chống lại anh ta như
một đời sống đối địch và xa lạ.
Như vậy, tha hóa ra đời từ sự phát
triển của sản xuất dẫn đến sự phân công lao
động, sự chiếm hữu tư nhân tư liệu sản
xuất và sự ra đời của tư bản. C.Mác không
chỉ dùng khái niệm tha hóa để giải thích về
sự đối tượng hóa (sự vật hóa) bản chất con
người, mà còn dùng nó để chỉ rõ các quan
hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như vạch
trần sự bóc lột trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Cho nên sự giải phóng xã hội khỏi
chế độ tư hữu, khỏi sự nô dịch cũng chính
là giải phóng con người khỏi sự tha hóa
của lao động.
Thứ ba, về giải phóng con người.
Trong tác phẩm, C.Mác đã phát hiện ra
tính hai mặt của lao động, của sở hữu tư
nhân và từ đó, khẳng định chính lao động bị
tha hóa là nguồn gốc cơ bản trực tiếp và sở
hữu tư nhân là nguồn gốc đã dẫn đến mọi
nỗi khổ đau của nhân loại, của mỗi con
người và làm cho con người bị tha hóa. Sở
hữu tư nhân, nhất là sở hữu tư nhân tư bản
TỪ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN TRONG TÁC PHẨM
50
chủ nghĩa, với tư cách kết quả của quá trình
lao động bị tha hóa đã trở thành nguyên
nhân chủ yếu gây ra những tai họa khủng
khiếp cho con người, làm tha hóa con
người. Vì vậy, để giải phóng con người,
cần phải xóa bỏ thứ sở hữu tư nhân đó.
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến
bộ của các nhà triết học, xã hội học tiền bối
và đương thời, C.Mác đã khẳng định chủ
nghĩa cộng sản sẽ giải phóng triệt để mọi
lực lượng bản chất của con người; biến mọi
cảm giác, thuộc tính và nhu cầu của con
người thành cảm giác, thuộc tính và nhu
cầu xã hội; giải phóng con người khỏi cả
tôn giáo - một biểu hiện cơ bản của sự tha
hóa con người về ý thức, tinh thần và giải
phóng con người khỏi cả chế độ tư hữu -
nhân tố cơ bản làm con người tha hóa trong
hiện thực.
Nhưng xóa bỏ chế độ tư hữu một cách
tích cực để xây dựng chủ nghĩa cộng sản
và nhằm giải phóng con người là một bài
toán vô cùng nan giải, mà muốn giải nó,
cần phải trải qua một quá trình rất khó
khăn và lâu dài trong hiện thực. Bởi, theo
C.Mác, “muốn xóa bỏ tư tưởng về chế độ
tư hữu, thì tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản
là hoàn toàn đủ rồi. Còn muốn xóa bỏ chế
độ tư hữu trong hiện thực thực tế thì phải
có hành động cộng sản chủ nghĩa hiện
thực”13.
Có thể thấy, tư tưởng của C.Mác về sự
xóa bỏ hiện tượng tha hóa không chỉ là sự
phủ định quan hệ kinh tế mang tính chất
đối kháng trong xã hội tư bản chủ nghĩa,
mà còn là lý tưởng cho sự giải phóng mọi
tiềm năng của con người. Mặc dù bản chất
con người được thể hiện thông qua sự tồn
tại của đối tượng khách quan, song sự
chiếm hữu và sở hữu đối tượng của thế giới
tự nhiên ấy chưa thể làm con người trở
thành con người toàn vẹn. Chỉ khi được
giải phóng khỏi những trói buộc do sự
phiến diện của chế độ chiếm hữu và của
chế độ tư hữu, con người mới có thể là con
người chiếm hữu bản chất toàn diện của
mình một cách toàn diện, nghĩa là như một
con người toàn vẹn.
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển con người
Thấm nhuần quan điểm của C.Mác về
con người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định rõ vai trò to lớn của con người
Việt Nam - con người là chủ thể của xã
hội, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, sự
phát triển kinh tế - xã hội không có mục
tiêu nào khác là vì con người, vì sự phát
triển tự do, toàn diện cá nhân con người. Vì
vậy, ngay từ Đại hội lần thứ VI cho đến
nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan
tâm tới việc phát triển kinh tế, ổn định
chính trị, xây dựng môi trường văn hóa xã
hội tốt đẹp cho sự phát triển con người,
Đảng và Nhà nước ta đã đổi mới một cách
sâu sắc quan niệm về chủ nghĩa xã hội, về
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, về
sự phát triển xã hội và về con người.
Đại hội VI của Đảng (12/1986) đã
quyết định thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Đại hội “khẳng định quyết tâm đổi mới
công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần
cách mạng và khoa học”, “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật”. Từ đó, xác định đúng mục tiêu và
nhiệm vụ của cách mạng trong chặng
đường trước mắt, đề ra chủ trương, chính
sách phù hợp để xoay chuyển tình thế, đưa
đất nước vượt qua khó khăn tiến lên phía
trước. Bởi, “Chỉ có đổi mới thì mới thấy
đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân
tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa
VŨ CÔNG THƯƠNG – PHAN THỊ HỒNG DUYÊN
51
chữa, nhằm vận dụng tốt chủ nghĩa Mác -
Lênin vào hoàn cảnh nước ta, phát huy
truyền thống lịch sử và cách mạng của dân
tộc, động viên tính năng động, sáng tạo và
khả năng vô tận của nhân dân lao động làm
chủ tập thể”14.
Đại hội đặc biệt nhấn mạnh vai trò
quan trọng của nhân tố con người, phát huy
nhân tố con người, gắn phát triển kinh tế
với phát triển xã hội, lấy việc phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cao nhất
của mọi hoạt động. Đó là một bước ngoặt
về chất trong việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển con người, bằng cách mở rộng cơ hội
phát triển cho các cá nhân và cộng đồng xã
hội, tạo ra một môi trường thuận lợi nhằm
phát huy tính chủ động, sáng tạo của người
lao động trong các hoạt động kinh tế -
xã hội.
Đại hội VII (năm 1992) của Đảng tiếp
tục phát triển đường lối đổi mới và khẳng
định quan điểm lớn: “quan điểm coi mục
tiêu và động lực chính của sự phát triển là
vì con người, do con người, trước hết là
người lao động. Đó cũng là quan điểm về
sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách
kinh tế và chính sách xã hội - tất cả vì con
người. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ
xã hội “do nhân dân lao động làm chủ”,
“con người được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân”15. Vì vậy, phương hướng lớn
của chính sách xã hội là “Phát huy nhân tố
con người trên cơ sở đảm bảo công bằng,
bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công
dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội, giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng
các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích
lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng
đồng xã hội”16.
Đại hội VIII (1996) đã chủ trương: lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Động viên toàn dân tiết kiệm
xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích
lũy cho đầu tư và phát triển. Tăng trưởng
kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường. Đại hội đã chỉ rõ: “Tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và trong
suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội
phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý
tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết
quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi
người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt
năng lực của mình”17.
Thực tế cho thấy, quyền lợi, lợi ích của
con người là vấn đề thiết yếu nhất và rất
nhạy cảm luôn được Đảng Cộng sản Việt
Nam coi trọng. Văn kiện Đại hội XI của
Đảng đã đề cập đến tất cả các mặt thiết yếu
nhất của con người từ đời sống vật chất
đến đời sống tinh thần; từ vấn đề kinh tế
đến chính trị, xã hội, y tế, giáo dục, đào
tạo; từ trung tâm đến vùng sâu, vùng xa; từ
đồng bào có đạo đến đồng bào không có
đạo... Tất cả các mặt trên đều dựa trên cơ
sở công bằng, bình đẳng và đoàn kết toàn
dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, hướng
tới mục đích: Xây dựng một cộng đồng xã
hội văn minh, trong đó các giai cấp, các
tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về
nghĩa vụ và quyền lợi. “Tạo môi trường và
điều kiện để mọi người lao động có việc
làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền
lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để
phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong
xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình
TỪ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN TRONG TÁC PHẨM
52
trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các
vùng, miền, các tầng lớp dân cư”18. Đồng
thời, để đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi
con người trong xã hội ở phương diện luật
pháp, cần phải quan tâm đến vấn đề phát
triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân bằng
pháp luật xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần mở
rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con
người; coi con người là chủ thể, nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Ngày nay, công nghiệp hóa luôn gắn
liền với hiện đại hóa, với việc ứng dụng
rộng rãi những thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến của thời đại. Khoa học và
công nghệ giữ vai trò quan trọng và trở
thành nền tảng của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Do đó, việc nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của
con người Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Song, để phát huy nguồn lực
trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người
Việt Nam, cần phải coi trọng phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ, phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo. Đặc biệt, Đại hội lần thứ
XII của Đảng đã khẳng định: “Xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện
phải trở thành một mục tiêu của chiến lược
phát triển”19. Con người trở thành nguồn
tài nguyên vô giá, tiềm năng to lớn, vô tận
và là yếu tố chủ yếu quyết định đối với sự
phát triển nhanh và bền vững ở nước ta. Vì
vậy, cần phải “Thực hiện đồng bộ các cơ
chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục,
đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây
dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện
năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối
sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách
nhiệm công dân”20. Bên cạnh đó, Đại hội
đã nhấn mạnh các nhiệm vụ tổng quát về
phát triển kinh tế; tiếp tục hoàn thiện thể
chế, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục, đào tạo; xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc; quản lý tốt sự phát triển
xã hội, thực hiện chính sách lao động, việc
làm, thu nhập; thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ; hoàn thiện, phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa; tiếp tục hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh Điều đó, nhằm thực hiện tốt chiến
lược về con người - coi con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
ở nước ta hiện nay.
3. Kết luận
Tư tưởng về con người của C.Mác
trong “Bản thảo kinh tế- triết học năm
1844” là sự phát triển trên cơ sở kế thừa
những giá trị tích cực và khắc phục những
điểm hạn chế về quan niệm con người
trong lịch sử triết học. Vượt lên trên các
học thuyết đã có trong lịch sử, triết học
Mác đã xuất phát từ việc vạch ra bản chất
con người hiện thực để giải quyết những
vấn đề con người.
Việc tiếp tục khai thác những giá trị
khoa học, tính chất khai sáng và ý nghĩa
cách mạng trong quan niệm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người, làm rõ sự đúng
đắn, tính sáng tạo trong các quan niệm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phát triển
con người, để sử dụng chúng vì mục đích
phát triển con người Việt Nam hiện đại, tạo
ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, đủ
sức tiến hành thành công sự nghiệp đổi
mới là công việc có tầm quan trọng và cấp
bách hiện nay.
VŨ CÔNG THƯƠNG – PHAN THỊ HỒNG DUYÊN
53
Chú thích:
1.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.135.
2.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.166.
3.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.134.
4.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.234.
5.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.137.
6.
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 3. Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2004,
tr.29.
7.
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, tập 42. Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2004,
tr.170.
8.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2004,
tr.11.
9.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.136-137.
10.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.129.
11.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.131.
12.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.130 - 131.
13.
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb
Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 2000,
tr.194.
14.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật,
Hà Nội, 1987, tr.7-8.
15.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.9.
16.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.13.
17.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.113.
18.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.79.
19.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.126.
20.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.295-296.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
7. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, tập
42, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 27/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20/10/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4_3162_2215056.pdf