Tài liệu Từ các biến thể phiên - Chuyển tên riêng nước ngoài tới một giải pháp thống nhất trong tiếng Việt - Dương Xuân Quang: 63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
1. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, trên
các phương tiện thông tin đại chúng nước ta liên
tục xuất hiện các tên riêng nước ngoài, từ tên các
chính khách, tên các siêu sao cho tới tên các ngọn
núi, con sông, thành phố, khu vực,.... Với nhu cầu
được tiếp cận với nguồn tri thức phong phú và
dồi dào của một nền học vấn tiên tiến và hiện đại,
không ngừng toàn cầu hóa, người Việt đã có nhiều
cách để chuyển hóa những tri thức của nhân loại
tới gần hơn với Việt Nam, trong đó có việc “bản
địa hóa” các tên riêng nước ngoài trong các văn
bản tiếng Việt (phiên âm và chuyển tự).
DƯƠNG XUÂN QUANG*
*Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn - ĐHQG Hà Nội, ✉ dxquang1111@gmail.com
Ngày nhận bài: 05/7/2017; ngày hoàn thiện: 17/8/2017; ngày duyệt đăng: 15/11/2017
TỪ CÁC BIẾN THỂ PHIÊN - CHUYỂN
TÊN RIÊNG NƯỚC NGOÀI TỚI MỘT GIẢI PHÁP
THỐNG NHẤT TRONG TIẾNG VIỆT
Đến những năm 1990, trên thế giới có ...
8 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Từ các biến thể phiên - Chuyển tên riêng nước ngoài tới một giải pháp thống nhất trong tiếng Việt - Dương Xuân Quang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
1. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, trên
các phương tiện thông tin đại chúng nước ta liên
tục xuất hiện các tên riêng nước ngoài, từ tên các
chính khách, tên các siêu sao cho tới tên các ngọn
núi, con sông, thành phố, khu vực,.... Với nhu cầu
được tiếp cận với nguồn tri thức phong phú và
dồi dào của một nền học vấn tiên tiến và hiện đại,
không ngừng toàn cầu hóa, người Việt đã có nhiều
cách để chuyển hóa những tri thức của nhân loại
tới gần hơn với Việt Nam, trong đó có việc “bản
địa hóa” các tên riêng nước ngoài trong các văn
bản tiếng Việt (phiên âm và chuyển tự).
DƯƠNG XUÂN QUANG*
*Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn - ĐHQG Hà Nội, ✉ dxquang1111@gmail.com
Ngày nhận bài: 05/7/2017; ngày hoàn thiện: 17/8/2017; ngày duyệt đăng: 15/11/2017
TỪ CÁC BIẾN THỂ PHIÊN - CHUYỂN
TÊN RIÊNG NƯỚC NGOÀI TỚI MỘT GIẢI PHÁP
THỐNG NHẤT TRONG TIẾNG VIỆT
Đến những năm 1990, trên thế giới có gần
5.000 ngôn ngữ, trong đó có khoảng 1/10 ngôn
ngữ có chữ viết (Nguyễn Văn Khang, 2007). Song
không có một ngôn ngữ nào ngay từ đầu đã có đủ
vốn từ ngữ mà đều cần phải “vay mượn” một số từ
ngữ mới từ tiếng nước ngoài. Hình thức phổ biến
của việc nhập từ ngữ mới là phiên âm, nghĩa là ghi
đúng hoặc gần đúng âm của từ nước ngoài bằng
các âm, vần của bản ngữ. Ngoài ra còn có cách
chuyển tự từ tiếng nước ngoài sang bản ngữ nếu hệ
kí tự không giống nhau hoặc giữ nguyên dạng hình
thức văn tự của yếu tố nước ngoài. Vì vậy, những
biện pháp giúp từ ngữ của một ngôn ngữ gia nhập
hệ thống của một ngôn ngữ khác được gọi chung
là phiên – chuyển tiếng nước ngoài.
TÓM TẮT
Việt Nam đang mở cửa, giao lưu và hội nhập quốc tế. Hàng ngày, hàng giờ trên các phương tiện
thông tin đại chúng đều không ngừng xuất hiện các tên riêng nước ngoài, từ tên các chính khách,
tên các siêu sao cho tới tên các ngọn núi, con sông, thành phố, khu vực,. Song một thực tế đang
tồn tại là trong tiếng Việt không có cách phiên – chuyển thống nhất đối với cùng một tên riêng
trong các văn bản. Căn cứ từ hiện trạng phiên – chuyển tên riêng nước ngoài trong tiếng Việt
với những hình thức khác nhau, chúng tôi tập trung phân tích những mặt mạnh và yếu của từng
phương thức phiên – chuyển, từ đó đưa ra một mô hình phiên – chuyển khả dụng.
Từ khóa: chuẩn hóa, chuyển tự, phiên âm, phiên chuyển, tên riêng nước ngoài
64 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Chính sách ngôn ngữ của nhà nước ta là nhất
quán, luôn coi trọng việc xây dựng và phát triển
tiếng Việt. Tuy nhiên, dường như chính sách ngôn
ngữ mới dừng lại ở việc quản lý vĩ mô mà chưa có
sự quan tâm thích đáng tới từng vấn đề vi mô cơ
sở. Việc phiên – chuyển tên riêng nước ngoài là
một ví dụ. Mặc dù đã có một số văn bản quy định
như:“Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật
ngữ tiếng Việt” của Bộ Giáo dục – Đào tạo (05-
3-1984), “Quy định tạm thời về viết hoa tên riêng
trong sách giáo khoa” của Bộ Giáo dục – Đào
tạo (03-3-2003),... nhưng thực trạng cách phiên –
chuyển tên riêng nước ngoài ở nước ta bấy lâu nay
vẫn chưa thống nhất. Mỗi tờ báo, mỗi cuốn sách,
mỗi đơn vị... đều có những cách phiên – chuyển
của riêng mình.
2. THỰC TRẠNG VIỆC PHIÊN – CHUYỂN
TÊN RIÊNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Năm 2000, Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên
soạn Từ điển bách khoa thư Việt Nam đã đưa ra
“Quy định chính tả tiếng Việt và phiên – chuyển
tiếng nước ngoài”, song quy định này chưa thực
sự đi vào thực tiễn đời sống. Nó mới chỉ là một
khuyến nghị chung chứ chưa phải là một văn bản
pháp quy chính thức mang tính bắt buộc. Vì vậy
vẫn chưa thể giải quyết được những tranh cãi dai
dẳng trong học giới về vấn đề phiên – chuyển tên
nước ngoài sang tiếng Việt. Cùng một tên người,
cùng một địa danh nhưng có nhiều cách phiên –
chuyển khác nhau sang tiếng Việt. Điều này, nếu
tinh ý, chúng ta có thể thấy ngay trên các tờ báo
phát hành hàng ngày, rất gần gũi với cuộc sống.
Ví dụ, chỉ riêng tên thủ đô của nước Nga (tên
gốc nguyên ngữ là Москва) có thể được phiên –
chuyển thành nhiều dạng thức như Moskva (theo
phương thức chuyển tự từ hệ chữ Kirin sang hệ chữ
Latin), Moscow (theo từ mượn gốc Anh), Moscou
(theo từ mượn gốc Pháp), Mạc Tư Khoa (theo âm
Hán Việt), Matxcơva, Mát–xcơ–va.... Mỗi tờ báo,
mỗi tạp chí, mỗi cuốn sách có cách phiên – chuyển
khác nhau, thậm chí trong cùng một tuyển tập, mỗi
tác giả lại có cách phiên – chuyển riêng của mình.
Việc phiên – chuyển tên riêng nước ngoài trong
các văn bản tiếng Việt đang tồn tại một sự thiếu
đồng bộ, không thống nhất.
Xét về hình thức, trong các văn bản tiếng Việt
có thể thấy được ba xu hướng phiên – chuyển tên
riêng tiếng nước ngoài sang tiếng Việt:
(1) Viết theo nguyên ngữ hoặc chuyển sang
hệ chữ Latin. Nếu nguyên ngữ không dùng bảng
chữ cái Latin (chữ Ả rập hoặc chữ Kirin) thì dùng
phương pháp chuyển tự để chuyển sang hệ chữ
Latin.
Các báo Công an nhân dân, An ninh thế giới,
An ninh Thủ đô, Lao Động, Đại đoàn kết, Tiền
Phong, Thanh niên, Thời báo kinh tế Sài gòn, các
tạp chí khoa học,... chủ yếu dùng hình thức này.
Ví dụ: Indonesia, Singapore, Iraq, Tehran, Venise,
Massachusetts, Albert Einstein, Fidel Castro, Bill
Clinton....
(2) Phiên âm theo âm và vần của tiếng Việt,
dựa vào cách đọc tên riêng ấy của nguyên ngữ. Ở
dạng phiên – chuyển này có hai hình thức được
tiếng Việt sử dụng.
Một là viết liền các âm tiết. Các tài liệu của
Thông tấn xã Việt Nam, báo Hoa học trò phiên âm
theo âm, vần tiếng Việt và viết liền các âm tiết.
Ví dụ: Inđônêxia, Palextin, Irắc, Bátđa, Casơmia,
Xinhgapo, Oasinhtơn, Sêchxpia, Giôn Kenơđi,....
Hai là viết rời các âm tiết và có dấu gạch nối
giữa các âm tiết. Báo Nhân dân và báo Hà Nội mới
chủ yêu phiên âm theo cách này. Ví dụ: I-rắc, Ác-
hen-ti-na, Pa-lét-tin, Ma-sa-chu-sét, Xư-tốc-hôm,
Giê-ru-xa-lem, Cô-i-dư-mi, Giôn Ken-nơ-đi...
(3) Ngoài hai hình thức trên, tiếng Việt còn
sử dụng một hình thức khác nữa như một truyền
thống và quen thuộc từ lâu đời. Đó là hình thức
dùng âm Hán Việt để Việt hóa các tên riêng của
Trung Quốc hoặc các tên riêng của phương Tây đã
được tiếng Hán phiên – chuyển. Hiện tượng này đã
diễn ra trong suốt mấy trăm năm qua, ước khoảng
từ thế kỷ XVI, khi phương Đông bắt đầu có những
65KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
giao lưu mạnh mẽ đầu tiên với phương Tây. Các
tên riêng ấy như Lư Thoa (Rousseau), Liệt Ninh
(Lenin), Nã Phá Luân (Napoleon), Pháp (Pháp
Lan Tây – France), Đức (Đức Ý Chí – Deutsche),
Anh (Anh Cát Lan – England), thành Nhã Điển
(thành Athen), Nữu Ước (New York), Bắc Kinh,
Chu Ân Lai,....
Quả thực, các biến thể phiên – chuyển tên riêng
nước ngoài trong tiếng Việt là một hiện tượng phức
tạp, vì bản chất cùng nhằm một mục đích nhưng
lại có quá nhiều biểu hiện hình thức khác nhau. Sự
khác biệt này tạo nên một thực trạng không thống
nhất như hiện nay trong tiếng Việt. Tuy nhiên, do
chưa có một phương án quản trị ngôn ngữ chính
thức nào của nhà nước nên hiện tượng không
thống nhất này vẫn tiếp tục diễn ra phụ thuộc quan
điểm của từng cá nhân.
3. PHÂN TÍCH CÁC HÌNH THỨC PHIÊN
– CHUYỂN ĐANG ĐƯỢC SỬ DỤNG
Trước khi trình bày một cách phiên – chuyển
mà cá nhân người viết cho rằng khả dĩ sử dụng,
chúng tôi muốn chỉ ra những hạn chế của các hình
thức phiên – chuyển mà tiếng Việt đang sử dụng.
Thứ nhất, nhằm chỉ rõ những hình thức ấy là chưa
thỏa đáng và vì vậy cần xây dựng một hình thức
phiên – chuyển mới, phù hợp với nhu cầu của thực
tế và cũng không quá phi khoa học (tại sao lại là
“không quá”, vì việc phiên – chuyển phải hướng
tới quảng đại quần chúng, mà đôi khi quần chúng
chỉ cần “gần đúng” và dễ hiểu, dễ thuộc chứ không
cần chính xác và chi tiết như các nhà khoa học
trong các lĩnh vực chuyên sâu). Thứ hai, từ cơ sở
những hạn chế được chỉ ra rõ ràng, chúng ta sẽ có
cơ sở để xây dựng một cách phiên – chuyển tên
riêng nước ngoài sang tiếng Việt phù hợp, loại bỏ
được những nhược điểm của các hình thức đang
được sử dụng.
Về hình thức viết theo nguyên ngữ hoặc
chuyển tự sang hệ chữ Latin với các ngôn ngữ
không cùng hệ chữ, tưởng chừng khoa học và hiện
đại nhưng hình thức này bộc lộ một hạn chế rất
lớn trong quá trình thâm nhập đời sống. Cần phải
nhất quán rằng việc phiên – chuyển tên riêng nước
ngoài sang tiếng Việt không phải chỉ nhằm phục
vụ một lượng nhỏ những cá nhân biết ngoại ngữ.
Bởi rõ ràng, họ là những người biết ngoại ngữ,
họ thừa khả năng để hiểu những tên riêng đó mà
chẳng cần phải phiên – chuyển gì cả. Mục đích
phiên – chuyển hướng tới phải là quảng đại quần
chúng. Đối tượng này là những người không biết
ngoại ngữ và vì không biết nên mới cần phải được
phiên – chuyển. Vì vậy, nếu để nguyên ngữ cũng
chẳng khác nào không phiên – chuyển gì cả.
Hình thức thứ hai, phiên âm theo âm và vần
của tiếng Việt, dựa vào cách đọc tên riêng ấy của
nguyên ngữ nhằm hạn chế những nhược điểm của
hình thức thứ nhất nhưng cũng bộc lộ một vài
điểm cần bàn. Thứ nhất, hình thức phiên âm tạo
nên một tên riêng phi chuẩn. Người đọc đôi khi
sẽ không hiểu nhân vật đó là ai, địa danh đó ở đâu
dù thực tế họ rất quen thuộc. Nguyên do bởi vì,
người Việt Nam (hay bất kỳ người nước nào) khó
lòng đọc chuẩn được tất cả các ngôn ngữ trên thế
giới. Và dù cố gắng phiên âm đến đâu, chúng ta
cũng không dễ gì phiên âm chuẩn xác được do số
lượng chữ cái tiếng Việt không đủ để phiên âm
tên riêng của nhiều nước trên thế giới. Bảng chữ
cái tiếng Việt có 29 kí tự trong khi bảng phiên âm
quốc tế IPA có tới 118 kí tự, một sự chênh lệch
đáng chú ý. Bên cạnh đó, ngôn ngữ của nhiều nước
là tổng hợp, hòa kết, thậm chí là chắp dính, một
chữ của họ gồm nhiều âm tiết viết liền. Trong khi
đó, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn lập, một chữ
là một âm tiết. Do đó, khi phiên âm các từ đa tiết
của các ngôn ngữ khác sang tiếng Việt sẽ có hiện
tượng một chữ vốn là một khối viết liền được viết
thành các âm tiết tách dời nhau. Điều này, khiến
cho ngay cả người bản ngữ cũng gặp khó khăn
khi nhận dạng, thậm chí đôi khi còn không dám
chắc chắn, đây có phải là tên riêng của nước mình
không. Hạn chế của cách phiên âm thô sơ này
chính là việc không thể hội nhập với quốc tế trong
giao lưu và hợp tác. Đồng thời, với cách phiên âm
có phần “tùy hứng” này rất nhiều trường hợp làm
66 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
biến dạng tên riêng bởi người Việt mô phỏng cách
đọc nguyên ngữ nhưng người bản ngữ không đọc
thế. Một loạt tên riêng của các ngôn ngữ Âu châu
có âm lướt như Toulouse, Venezia, Gorki nhưng
sang tiếng Việt được phiên bỏ hết các âm lướt ấy
(đọc thành Tu–lu, Vơ–ni, Goóc–ki).
Hình thức thứ ba, hình thức Việt hóa tên riêng
nước ngoài, chủ yếu thông qua từ Hán Việt, tuy
ngày nay được chấp nhận do một số địa danh như
Pháp, Đức, Tây Ban Nha,.... được sử dụng lâu
dài nên đã nhập vào vốn từ tiếng Việt nhưng thực
tế cho thấy đây là một phương pháp tùy tiện và
không hề dựa trên cơ sở khoa học ngôn ngữ để
phiên âm. Ngoại trừ những tên riêng có nguồn gốc
Hán tự, việc Việt hóa tên các nhân vật nổi tiếng
trên thế giới (không phải người Trung Quốc) hoàn
toàn không thành công, bởi cách Việt hóa thông
qua từ Hán Việt đã làm biến dạng tên tuổi các
nhân vật ấy cả về cách viết và cách đọc. Tên tuổi
mỗi con người gắn bó chặt chẽ với dòng họ, quê
hương, đất nước, có ý nghĩa thiêng liêng với dân
tộc mà họ đã làm rạng danh, do đó sự khác biệt
này gây ra một trạng thái tâm lý không được thoải
mái với người tiếp xúc. Hơn nữa, người tiếp nhận
nếu không am hiểu Hán Việt sâu sắc thì cũng sẽ rất
khó để hiểu được các danh nhân ấy là ai. Ví dụ: Ba
Nhĩ Trát Khắc (Balzac), Mã Khắc Tư (Marx), Cam
Địa (Gandhi),.... Do hạn chế này mà dần dần hình
thức này đang được thay thế, thậm chí một lượng
lớn các từ phiên âm theo hình thức này vốn phổ
biến trong khoảng nửa đầu thế kỷ XX trở về trước,
hiện nay đã biến mất khỏi kho từ vựng tiếng Việt.
4. XÁC ĐỊNH MỘT CÁCH PHIÊN –
CHUYỂN TÊN RIÊNG NƯỚC NGOÀI SANG
TIẾNG VIỆT PHÙ HỢP
Trên cơ sở phân tích những hạn chế của các
hình thức phiên – chuyển tên riêng nước ngoài
đang tồn tại trong tiếng Việt, bài viết xác lập một
cách phiên – chuyển tổng hợp, hài hòa và phù hợp
với yêu cầu khách quan của thực tế sử dụng. Trước
khi có một văn bản pháp quy chính thức của Nhà
nước về cách phiên – chuyển tên riêng nước ngoài
trong các văn bản tiếng Việt, chúng ta cần hoàn
chỉnh một cách phiên – chuyển hợp lý.
Như cách định danh “phiên – chuyển” vẫn
được công nhận rộng rãi từ rất lâu nay, chúng tôi
xây dựng quy tắc phiên – chuyển của mình trên
tinh thần ưu tiên việc giữ nguyên ngữ, phần quan
trọng nhất của một tên riêng nước ngoài. Giáo sư
Cao Xuân Hạo đã giải thích về sự hữu dụng của
việc viết nguyên dạng tên riêng nước ngoài: “chủ
trương phiên âm đưa đến một kết quả đáng buồn
là người đọc sách báo bị bắt buộc phải vừa viết
sai lại vừa đọc sai; chứ nếu viết nguyên dạng, ít
ra ta cũng còn có được một mặt chắc chắn đúng:
mặt chính tả, là mặt quan trọng nhất” (Cao Xuân
Hạo, 2003, tr.119).
Tuy nhiên, do đối tượng sử dụng tiếng Việt
không thuần nhất mà phong phú dựa theo trình
độ dân trí của cộng đồng. Vì lý do này mà người
viết muốn phân định hai bậc của mô hình phiên –
chuyển tên riêng tiếng nước ngoài trong các văn
bản tiếng Việt dựa theo đối tượng.
Bậc 1: Đối tượng chuyên sâu
Tên theo nguyên ngữ hay tên được
chuyển sang hệ chữ Latin
Ở bậc 1 này, việc sử dụng tên nguyên ngữ hay
tên được chuyển sang hệ chữ Latin (đối với những
tên riêng không cùng hệ chữ) là điều hiển nhiên
cần triệt để áp dụng đối với môi trường học thuật
của những đối tượng có chuyên môn sâu. Song bên
cạnh đó là đối tượng quảng đại quần chúng có trình
độ phổ thông, cùng với tên nguyên ngữ, chúng ta
nên mở ngoặc để chú phiên âm, giúp người đọc
hiểu và phát âm được các tên riêng đó. Những
trường hợp, trong tiếng Việt chấp nhận cách Việt
hóa bằng âm Hán Việt, chúng ta sẽ để từ Việt hóa
ấy trong ngoặc như một phần chú về cách đọc.
67KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
Bậc 2: Đối tượng phổ thông
Tên theo nguyên ngữ hay tên được chuyển
sang hệ chữ Latin
(Tên phiên âm hoặc tên Việt hóa)
Ví dụ: Leningrad (Lê-nin-gơ-rát)
Washington (Oa-sinh-tơn)
Wu Yi (Ngô Nghi)....
(1) Thành phần dùng nguyên ngữ là thành
phần quan trọng vì mang tính thống nhất cao và
cũng là xu hướng của nhu cầu hội nhập trong
tương lai. Thành phần này không chỉ đơn thuần là
việc mang nguyên tên riêng trong ngôn ngữ ấy lắp
vào tiếng Việt mà còn cả hình thức chuyển tự từ
các hệ chữ khác sang hệ chữ Latin. Cần hiểu rằng,
mỗi nhân vật, mỗi địa danh đã vượt tầm quốc gia
để vươn ra thế giới đều không tầm thường. Những
tên riêng ấy, đôi khi là cả một niềm tự hào của
những đất nước, những dân tộc đã sản sinh ra. Khi
phiên – chuyển sang tiếng Việt, chúng ta đặc biệt
cần tôn trọng. Đó không chỉ là sự tôn trọng bản
sắc cá nhân, dân tộc đơn thuần mà còn mang ý
nghĩa nhất định trong giao lưu quốc tế. Chúng ta
không thể phiên – chuyển theo lối làm “biến dạng”
đến mức độ mà chính người bản ngữ cũng không
nhận ra nổi đó là tên riêng của ngôn ngữ mình.
Nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt coi trọng
cách viết tên riêng, bởi trong ngôn ngữ của họ có
quá nhiều phương ngữ, vì vậy, cách phiên âm là
khác nhau ứng với sự ảnh hưởng phương ngữ của
từng vùng. Vì thế, chúng ta cần phải viết nguyên
dạng các tên riêng nước ngoài. Bên cạnh đó, đây
cũng là một cách để quốc tế hóa, đưa tiếng Việt lại
gần với những chuẩn mực ngôn ngữ thế giới. Thế
giới đang liên kết, Việt Nam đang hội nhập, chúng
ta không thể đem cách đọc của người Việt, cách
phiên âm của tiếng Việt ra trường quốc tế, chúng
ta cần một mẫu chung chuẩn mực mang tính quốc
tế. Trên thế giới, xu hướng để nguyên dạng tên
riêng là phổ biến. Ở các xuất bản phẩm bằng tiếng
Anh hay tiếng Pháp, tên riêng như Việt Nam, Hồ
Chí Minh hay Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp
đều được để nguyên dạng và nếu có thay đổi chỉ là
bỏ dấu thanh điệu (cho thuận tiện với những ngôn
ngữ không có thanh điệu) mà thôi. Một khía cạnh
khác, khi nhìn vào ứng dụng thực tiễn, chúng ta
viết nguyên dạng các tên riêng nước ngoài, người
Việt dần sẽ quen và khi đi ra nước ngoài, thấy
những tên tuổi ấy, hẳn nhiên sẽ không còn cảm
giác ngỡ ngàng, xa lạ. Chúng ta sẽ bớt hoảng hốt
nhiều nếu được làm quen với Goethe (Gớt), Mo-
zart (Mô-da),.... chứ không phải chỉ những phiên
âm thuần túy Gớt, Mô-da,....
Tuy nhiên, khái niệm “dùng nguyên ngữ”
không phải lúc nào cũng được tuân thủ nghiêm
cẩn. Do ảnh hưởng của tiếng Anh, một ngôn ngữ
dùng hệ chữ Latin để ký âm, nên rất nhiều tên
riêng của một số ngôn ngữ cũng dùng hệ chữ Latin
để ký âm bị “quên lãng” trong các văn bản tiếng
Việt. Ví dụ như thủ đô của cộng hòa Czech (Séc)
nên được viết là “Praha” theo chính văn tự của họ,
nhưng nhiều văn bản tiếng Việt lại ưa dùng Prague
do đã khúc xạ qua tiếng Anh.
Ngoài ra, cũng cần có một vài biện giải thêm
về việc chuyển tự sang hệ chữ Latin đối với tên
riêng của các ngôn ngữ mà văn tự sử dụng các hệ
ký tự khác. Vì sao quan điểm của bài viết lại có
phần “ưu ái” với hệ chữ Latin? Lý do đơn giản
nằm ở việc dùng hệ chữ Latin làm trung gian là
một giải pháp tiết kiệm. Với tầm ảnh hưởng về
kinh tế, chính trị và văn hóa của các cường quốc sử
dụng hệ chữ Latin làm văn tự như Anh/Mỹ, Pháp,
Đức, gần như tất cả các tên riêng trên thế giới đều
được chuyển tự tương ứng sang hệ chữ Latin. Hơn
nữa, với việc sử dụng chữ Quốc ngữ, một hình
thức dùng hệ chữ Latin để ghi âm tiếng Việt, văn
bản tiếng Việt có một ưu thế rất lớn.
(2) Thành phần phiên âm cũng được chúng
tôi nhắc tới như một sự bổ sung cách đọc cho
người Việt với tư tưởng lấy người bản ngữ làm
trung tâm. Đây là một giải pháp hướng tới quần
chúng. Ưu điểm nổi bật nhất của hình thức này là
người Việt Nam thuộc mọi trình độ văn hóa, hễ
68 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
biết đánh vần là có thể đọc được. Tuy nhiên cần
chú ý rằng, dấu ngoặc trong mô hình của chúng tôi
là chú thích cách đọc. Việc chú thích cách đọc này
là cần thiết với trình độ dân trí chưa quá cao của
Việt Nam. Với những người không biết ngoại ngữ
sẽ khó đọc nổi các tên riêng dài như kiểu Massa-
chusetts (Ma-sa-chu-sét) hay các tên riêng mà cách
đọc khác xa cách viết như Eisenhower (Ai-xen-
hao).... Thành phần này sẽ có vai trò phổ cập cho
những đối tượng không có ngoại ngữ. Đồng thời
với cách phiên âm tương đối gần với nguyên ngữ
theo quy tắc ngôn ngữ học sẽ phần nào định hướng
cách đọc cho những tên riêng còn tranh cãi. Ví dụ,
cách phiên – chuyển tên vị thủ tướng Anh rất nổi
tiếng Churchill (Sớcsin) sẽ giúp cho những người
vẫn phát âm Sơ-chin, Chu-chin, Chúc-chin... thay
đổi. Mặc dù vậy, quan điểm của bài viết cũng chỉ
xem phiên âm như một giai đoạn quá độ khi một
phần không nhỏ người Việt vẫn chưa được phổ cập
ngoại ngữ. Đến một thời điểm, dân trí Việt Nam đã
lên cao thì những cái ngoặc phiên âm cách đọc này
trở nên rườm rà và vô nghĩa.
Tuy nhiên, cũng cần biện luận thêm về sự lựa
chọn cách phiên âm. Như trên đã đề cập, về phiên
âm, hiện nay Việt Nam ta có hai biến thể: một là
viết liền các âm tiết (Crưm) và hai là viết rời các
âm tiết có gạch nối (ví dụ như Cờ-rưm). Người
viết ủng hộ biến thể thứ hai như một hình thức
phiên âm ổn định hơn. Nguyên do bởi nếu dùng
phiên âm viết liền âm tiết sẽ dẫn tới một sự méo mó
trong tiếng Việt. Ví dụ như thành phố nổi tiếng ở
miền Viễn đông của Nga, Vladivostok được phiên
âm thành Vlađivốtxtốc, nhưng rõ ràng tiếng Việt
đâu có âm đầu “vl” và “xt”, đồng thời cũng thật
xa lạ với “vốt” mặc dù chính tả tiếng Việt không
bắt lỗi cách ghép vần như vậy. Hệ quả là nhiệm
vụ quan yếu hướng tới phổ thông đại chúng của
“dấu ngoặc” phiên âm bị vi phạm nghiêm trọng.
Giả sử như một đất nước ở Trung Phi được phiên
âm thành Côngô thì người Việt sẽ đọc thành gì Cô-
ngô, Công-ô hay Côn-gô?
(3) Các tên riêng được Việt hóa, chủ yếu có cơ
sở từ cách đọc âm Hán Việt, là một đặc trưng của
tiếng Việt. Dù rằng những tên danh nhân khắp thế
giới (ngoại trừ người Trung Quốc) đã bộc lộ những
hạn chế trong quá trình phiên dịch nhưng không
phải vì vậy mà phủ nhận tất cả những ưu điểm của
phương thức phiên – chuyển này. Chúng ta cũng
phải thừa nhận, các tên nhân vật người Trung Quốc
và một loạt tên địa danh được Việt hóa từ tiếng
Hán thực sự trở nên quen thuộc với tiếng Việt.
Việc dân tộc hóa tên riêng nước ngoài không phải
cá biệt ở Việt Nam. Ở Nhật Bản hay Triều Tiên
cũng có hiện tượng mượn cách phiên âm trong
tiếng Hán để Hán Nhật hóa, Hán Triều hóa các tên
riêng ấy. Ở Ý, các họa sĩ thời Phục hưng đều được
Pháp hóa. Ví dụ, dùng Leonard de Vinci (tiếng
Pháp) thay cho Leonardo da Vinci (tiếng Ý),.... Ở
Anh, một loạt thành phố trên thế giới được Anh
hóa như Naples thay cho Napoli (Ý), Munich thay
cho München (Đức),.... Đó là chưa kể những tên
riêng của Trung Quốc được dịch từ tiếng Hán sang
tiếng Việt thông qua kho từ vựng Hán Việt giúp
cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn những tên riêng ấy,
chứ không chỉ đơn thuần là việc phiên – chuyển cơ
giới “word by word”. Bởi kho từ vựng Hán Việt từ
lâu đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi người Việt. Bằng
cảm thức ngôn ngữ, với những tên riêng được Việt
hóa sẽ gợi thêm những ý nghĩa hàm chứa được ẩn
tàng trong chính Hán văn. Ví dụ như: Bắc Kinh
là kinh đô ở phương Bắc, Xuân Thành là thành
phố của mùa xuân, Trung Quốc là đất nước ở trung
tâm,.... Lưu ý rằng, các tên riêng ấy phải là những
tên riêng có ý nghĩa trong tiếng Hán (tên người
Hán, địa danh Trung Quốc,...) chứ không phải là
những tên riêng được Trung Quốc phiên – chuyển
sang chữ Hán từ những tên riêng ngoại lai theo
hình thức phỏng âm. Như vậy, chẳng khác nào
chúng ta dịch lại lần hai, đã sai chệch lại càng máy
móc hơn. Tuy nhiên, trong xu thế quốc tế, không
thể không nối kết hình thức Việt hóa với hình thức
để nguyên ngữ, vì hai bộ phận sẽ tương hỗ bổ sung
cho nhau. Sẽ rất khó khăn để hiểu và để đọc nếu ta
chỉ chuyển tự Latin một tên riêng của người Trung
Quốc như Ye Jianying hay Wen Jiabao, mà không
Việt hóa thành Diệp Kiếm Anh hay Ôn Gia Bảo.
Nhưng nếu chúng ta chỉ biết dạng Việt hóa thì cũng
69KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v
sẽ khó khăn khi tìm hiểu họ bằng những ngôn ngữ
ngoài tiếng Việt. Bởi vậy, quan điểm nhất quán đối
với trường hợp Việt hóa những tên riêng Hán Việt
là có chọn lọc. Những tên riêng đã được Việt hóa
thông qua cách đọc Hán Việt và tham gia vào kho
từ vựng tiếng Việt (như Đông Nam Á, Tây Ban
Nha, Ba Tư, Vân Nam,.... thậm chí còn được rút
gọn thành Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Ý,...) thì nên được
dùng độc lập như một từ tiếng Việt và thực tế từ
lâu nay người Việt đã xem chúng như những từ
thuần Việt, các nhà từ điển học cũng đã xếp chúng
vào từ điển, bách khoa thư như những mục từ tiếng
Việt. Còn lại những tên riêng khác (tên riêng nước
ngoài được người Trung Quốc phỏng âm), chúng
ta nên lại gần với nguyên gốc của tên riêng ấy chứ
không nhất thiết phải như những thế kỷ trước nhìn
thế giới qua lăng kính của người Trung Quốc mà
sao phỏng – phiên chuyển tới hai lần.
Tóm lại, rất cần một thái độ hài hòa kết hợp
những ưu điểm của các hình thức lại với nhau để
hạn chế nhiều nhất được những nhược điểm. Từ
đó để xây dựng một cách phiên – chuyển tên riêng
nước ngoài phù hợp với đại bộ phận người Việt
nhưng cũng đảm bảo tinh thần văn hóa dân tộc và
thuận lợi trong hội nhập quốc tế.
5. KẾT LUẬN
Tiếng Việt dù phong phú và giàu đẹp tới đâu
cũng rất cần sử dụng những từ có nguồn gốc tiếng
nước ngoài, đặc biệt là tên riêng. Xuất phát từ suy
nghĩ đó, bài viết đưa ra đề xuất về hai mô hình
phiên – chuyển tên riêng nước ngoài sang tiếng
Việt. Mô hình thứ nhất với đối tượng chuyên sâu
cần sớm thống nhất dùng tên riêng theo nguyên
ngữ. Còn mô hình thứ hai hướng tới đối tượng đại
chúng với thành phần tên riêng theo nguyên ngữ,
cùng phụ chú tên riêng đã được phiên âm sang
tiếng Việt hoặc tên riêng đã được Việt hóa theo
âm Hán Việt (nếu có). Theo chúng tôi, cách phiên
– chuyển này có thể ứng dụng rộng rãi trong thực
tiễn. Bởi mô hình không chỉ hạn chế được những
nhược điểm của các hình thức phiên – chuyển hiện
đang tồn tại mà còn phát huy được những ưu điểm
của từng hình thức. Thành phần giữ nguyên ngữ
tên riêng phù hợp với xu thế tôn trọng giá trị văn
hóa dân tộc và từ đó tạo cơ sở vững vàng cho quá
trình hội nhập quốc tế. Thành phần phiên âm sang
tiếng Việt như một thành phần của thời ký quá độ
khi nhiều người Việt chưa rành ngoại ngữ để trợ
giúp cách phát âm các tên riêng gần với cách phát
âm của nguyên ngữ. Thành phần tên riêng được
Việt hóa là một trường hợp riêng có của những
tên riêng gốc Hán rất cần được bảo lưu, bởi chúng
giúp người Việt hiểu sâu sắc hơn tên riêng đó theo
hướng lý giải văn tự gắn với suy tư về văn hóa.
Bằng những kiến giải của mình, bài viết xác
lập một mô hình phiên – chuyển trên riêng nước
ngoài sang tiếng Việt nhằm góp phần hạn chế thực
trạng thiếu thống nhất đang xảy ra khi sử dụng tên
riêng nước ngoài trong tiếng Việt. Thực tế cho thấy,
những quy định chặt chẽ về phương thức phiên –
chuyển tên riêng nước ngoài sang tiếng Việt là một
nhiệm vụ cấp bách, rất cần được quan tâm. Tuy
nhiên, trong khi chờ đợi những văn bản pháp quy
chính thức của Nhà nước, mỗi người Việt cũng nên
hiểu bản chất hiện tượng và nhất quán thực hiện
mỗi khi cầm bút./.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Thị Châu (2007), “Địa danh nước
ngoài trên bản đồ thế giới: Khái niệm, thuật ngữ
và phương thức nhập nội địa danh”, Tạp chí Địa
chính, số 1, Hà Nội.
2. Đinh Văn Đức (2012), Ngôn ngữ học đại
cương – Những vấn đề quan yếu, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
3. Cao Xuân Hạo (2003), Về cách viết và cách
đọc tên riêng nước ngoài trên văn bản tiếng Việt in
trong Tiếng Việt – văn Việt – người Việt, NXB Trẻ,
TP Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn
ngữ học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
70 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 10 - 11/2017
v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
VARIANTS OF TRANSCRIPTION - TRANSLITERATION OF FOREIGN PROPER
NAMES: A UNIFIED SOLUTION OF TRANSLATION IN VIETNAMESE
DUONG XUAN QUANG
Abstract: Vietnam is opening up, exchanging and integrating into the international world. Every
day, on the mass media foreign proper names become more and more common, such as: the
names of politicians, celibrities and the names of mountains, rivers, cities, etc. However, there
is a fact that in Vietnamese language Transcription – Transliteration of foreign proper names is
not persistant. Based on the status of the transcription – transliteration of foreign proper names
in Vietnamese with various forms, this article focuses on analyzing each form of transcription
- transliteration. Then a unified solution of translation of proper names in Vietnamese will be
suggested.
Keywords: standardization, transliteration, transcription, foreign proper name
Received: 05/7/2017; Revised: 17/8/2017; Accepted for publication: 15/11/2017
5. Nguyễn Văn Khang (2003), Kế hoạch hóa
ngôn ngữ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai
trong tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Phạm Quỳnh (2005, tái bản), Thượng Chi
văn tập, NXB Văn học, Hà Nội.
8. Hà Học Trạc (2010), Lịch sử lý luận và thực
tiễn phiên – chuyển các ngôn ngữ trên thế giới,
NXB Tri thức, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 95_264_2137280.pdf