Tài liệu Truyền thông về chính sách văn hóa cho công chúng dân tộc thiểu số tại Lâm Đồng: Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173
169
TRUYỀN THÔNG VỀ CHÍNH SÁCH VĂN HÓA
CHO CÔNG CHÚNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI LÂM ĐỒNG
Lê Phong Lê
1*, Vi Thị Phương2
1Trường Đại học Đà Lạt,
2Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong nghiên cứu truyền thông hiện nay, truyền thông chính sách văn hóa luôn được đặt lên hàng
đầu. Bài viết này đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thực trạng truyền thông chính sách văn hóa qua các
chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số tại Lâm Đồng về nội dung, hình
thức và các yếu tố khác. Từ đó có những đánh giá, so sánh để đưa ra một số giải pháp, khuyến
nghị ban đầu nhằm nâng cao chất lượng truyền thông dành cho công chúng dân tộc thiểu số tại địa
phương trong tương lai.
Keywords: Truyền thông chính sách, văn hóa, công chúng, dân tộc thiểu số, Lâm Đồng
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Là một quốc gia đa dân tộc, việc thông tin và
truyền thông cho đối tượng công...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 377 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Truyền thông về chính sách văn hóa cho công chúng dân tộc thiểu số tại Lâm Đồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173
169
TRUYỀN THÔNG VỀ CHÍNH SÁCH VĂN HÓA
CHO CÔNG CHÚNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI LÂM ĐỒNG
Lê Phong Lê
1*, Vi Thị Phương2
1Trường Đại học Đà Lạt,
2Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong nghiên cứu truyền thông hiện nay, truyền thông chính sách văn hóa luôn được đặt lên hàng
đầu. Bài viết này đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thực trạng truyền thông chính sách văn hóa qua các
chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số tại Lâm Đồng về nội dung, hình
thức và các yếu tố khác. Từ đó có những đánh giá, so sánh để đưa ra một số giải pháp, khuyến
nghị ban đầu nhằm nâng cao chất lượng truyền thông dành cho công chúng dân tộc thiểu số tại địa
phương trong tương lai.
Keywords: Truyền thông chính sách, văn hóa, công chúng, dân tộc thiểu số, Lâm Đồng
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Là một quốc gia đa dân tộc, việc thông tin và
truyền thông cho đối tượng công chúng dân
tộc thiểu số (DTTS) luôn được Đảng và Nhà
nước ta chú trọng trong nhiều năm qua. Lâm
Đồng là một tỉnh nằm trong khu vực Tây
Nguyên, đời sống đồng bào DTTS nơi đây
còn nhiều khó khăn. Việc tiếp cận với các
phương triện truyền thông đại chúng như mua
báo giấy, truy cập Internet còn hạn chế - chủ
yếu nghe đài, loa phát thanh và xem truyền
hình. Đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thực trạng
truyền thông chính sách văn hóa qua các
chương trình PTTH bằng tiếng DTTS tại Lâm
Đồng; khảo sát nhu cầu thông tin của công
chúng DTTS tại Lâm Đồng hiện nay là việc
làm cấp thiết, nhằm đưa ra một số giải pháp,
khuyến nghị ban đầu để nâng cao hiệu quả
truyền thông.
NỘI DUNG
Văn hóa và truyền thông chính sách về văn hóa
Văn hóa là một lĩnh vực liên quan đến mọi
mặt của đời sống xã hội, con người. Đến nay,
có hơn 500 định nghĩa khác nhau về văn hóa,
điều này cho thấy văn hóa là một phạm trù
rộng lớn, trừu tượng và không dễ nắm bắt.
Tuy nhiên, mỗi trường phái nghiên cứu, mỗi
nhà nghiên cứu đều có quan điểm khác nhau.
Edward Burnett Tylor – nhà dân tộc học,
*
Tel: 0392 970732; Email: Lephongle212@gmail.com
nhân chủng học người Anh là người đầu tiên
nêu định nghĩa thuộc loại này. Năm 1871,
trong tác phẩm Primitive Culture (Văn hóa
nguyên thủy), ông đã đưa ra định nghĩa: “Văn
hóa là phức thể bao gồm tri thức, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán,
cùng mọi khả năng và thói quen khác mà con
người như một thành viên của xã hội đạt
được”. [4, tr. 13]. Định nghĩa của nhà nhân
học văn hóa người Anh này là định nghĩa
khoa học về văn hóa ra đời sớm nhất ở Châu
Âu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định văn
hóa là một mặt căn bản của xã hội. Người chỉ
rõ, công cuộc kiến thiết nhà nước có bốn vấn
đề phải chú ý đến và phải coi trọng ngang
nhau: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Văn
hóa là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ
xây dựng con người mới, xã hội mới. Điểm
khác là ở đây, Hồ Chí Minh nói rõ hơn mục
đích của sáng tạo văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về ăn, mặc và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa.” [6, tr. 431].
Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa
Việt Nam thì cho rằng “Văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173
170
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội” [8, tr. 10]. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần
Ngọc Thêm nêu hai giá trị của văn hóa vật thể
và phi vật thể được hình thành và phát triển
thông qua mối quan hệ nhân sinh quan, thế
giới quan của con người trong quá trình phát
triển nhân loại.
Xác định đúng đắn vai trò quan trọng của văn
hóa, từ khi ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền văn
hóa, hướng văn hóa phục vụ một cách có hiệu
quả vào sự nghiệp cách mạng. Đường lối văn
hóa của Đảng ta bao gồm toàn bộ những quan
điểm có tính chiến lược để chỉ đạo lĩnh vực
văn hóa, hoạt động văn hóa. “Dù chưa trực
tiếp đề cập quan điểm của Đảng đối với lĩnh
vực văn hóa, nhưng ngay từ những văn kiện
đầu tiên này, để phục vụ cho nhiệm vụ tuyên
truyền đường lối, vận động quần chúng nhân
dân tham gia cuộc cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Đảng ta đã rất chú trọng tới
vai trò của văn hóa, trước hết là vai trò của
bộ phận báo chí và tuyên truyền.” [4, tr. 10].
Nhìn chung, các định nghĩa đều thống nhất
văn hóa có các đặc điểm sau: Thứ nhất, văn
hóa là sáng tạo của con người, thuộc về con
người, những gì không do con người làm nên
không thuộc về khái niệm văn hóa. Văn hóa
xuất hiện do sự thích nghi một cách chủ động
và có ý thức của con người với tự nhiên, nên
văn hóa cũng là kết quả của sự thích nghi ấy.
Thứ hai, sự thích nghi của con người với tự
nhiên là sự thích nghi có ý thức và chủ động,
có sáng tạo, phù hợp với giá trị Chân - Thiện -
Mỹ, không phải là sự thích nghi máy móc.
Thứ ba, văn hóa bao gồm cả những sản phẩm
vật chất và tinh thần.
Là một quốc gia đa dân tộc, việc thông tin và
truyền thông cho đối tượng công chúng dân
tộc thiểu số (DTTS) luôn được Đảng và Nhà
nước ta chú trọng trong nhiều năm qua. Chỉ
thị số 39 của Thủ tướng chính phủ về việc
Đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin ở
miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số. Trong đó Bộ Thông tin và Truyền thông
cần: "Tăng cường đầu tư, nâng cao hiệu quả
công tác tuyên truyền bằng các phương thức
phù hợp với từng vùng, từng dân tộc và bằng
tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam”. [10]
Nghị quyết số 22/NQ-TW của Bộ Chính trị về
Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển
kinh tế - xã hội miền núi trong đó có lĩnh vực
truyền thông đại chúng nêu rõ: "Tăng cường
các phương tiện thông tin đại chúng, kể cả
các phương tiện hiện đại như máy thu thanh,
máy thu hình, băng ghi hình để cải tiến và
nâng cao các chương trình phát thanh, truyền
hình ở địa phương, phổ biến các văn hóa
phẩm và tài liệu có nội dung thiết thực phù
hợp với yêu cầu và truyền thống của đồng
bào các dân tộc..". [9] Theo đó, ngoài các
hình thức truyền thông trực tiếp thì báo chí,
đặc biệt là PT-TH tiếng DTTS là hai kênh
truyền đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
việc đưa thông tin đến với công chúng DTTS.
Là một tỉnh nằm trong khu vực Tây Nguyên
có nhiều đồng bào DTTS cư trú, Lâm Đồng
quan tâm đến vấn đề thông tin cho công
chúng DTTS địa phương. Cụ thể, Đài PTTH
Lâm Đồng đã có chương trình tiếng Chu Ru
và Cơ Ho dành riêng cho lớp công chúng
chuyên biệt này. Công chúng DTTS của Đài
PT-TH Lâm Đồng là lớp công chúng còn
nhiều hạn chế về trình độ, ngôn ngữ, còn tồn
tại nhiều vấn đề như hủ tục, phá rừng, buôn
bán người, vi phạm pháp luật do thiếu hiểu
biết nên dễ bị các thành phần chống phá chọn
làm đối tượng dụ dỗ, mua chuộc, kích động.
Vì thế, cần được cung cấp thông tin, phổ biến
các chính sách kịp thời.
Thực trạng truyền thông về chính sách văn
hóa cho DTTS tại Lâm Đồng
Về nội dung:
Thứ nhất, chương trình tự sản xuất. So với
các địa phương khác - chủ yếu khai thác tin,
bài tiếng phổ thông có sẵn từ các nguồn khác
để dịch sang tiếng DTTS thì đài PT-TH Lâm
Đồng là một trong số ít Đài tự sản xuất
chương trình tiếng DTTS. Đài PT-TH Lâm
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173
171
Đồng đã thành lập riêng Phòng Biên tập
Tiếng DTTS trong hơn 15 năm qua và tự
hoàn thành trọn gói các sản phẩm báo chí của
mình. Nhờ tự sản xuất chương trình mà nội
dung gắn bó, gần gũi với bà con DTTS. Tổ
trưởng tổ phóng viên và tổ trưởng tổ phát
thanh viên của phòng có nhiệm vụ đôn đốc,
trao đổi chuyên môn và báo cáo cho lãnh đạo
phòng các hoạt động hàng tháng. 8 phóng
viên sản xuất và luân phiên làm đạo diễn
chương trình. 6 phát thanh viên có nhiệm vụ
dịch, đọc, hiện hình và kiểm thính.
Thứ hai, đội ngũ phóng viên, biên tập viên là
người DTTS. Hiện nay, nhân sự của phòng
gồm 18 người, trong đó dân tộc Kinh là 6
người, còn lại là 12 người dân tộc Cơ Ho, Mạ,
Chu Ru. Phóng viên là người DTTS khiến rào
cản ngôn ngữ không còn là trở ngại, việc đi
sâu sát vào đời sống của bà con cũng thuận
lợi hơn. Đội ngũ làm chương trình tiếng Chu
Ru, Cơ Ho đa phần đã công tác lâu năm, có
kinh nghiệm trong khâu dịch, đọc, hiểu rõ nét
văn hóa truyền thống, phong tục tập quán của
dân tộc mình. Đội ngũ phóng viên đã được
đào tạo chuyên ngành báo chí hoặc đã được
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí ngắn
hạn, do đó cũng đã nắm được phương thức
sản xuất tác phẩm phát thanh - truyền hình
dành cho đồng bào DTTS.
Thứ ba, thông tin gương điển hình trong đời
sống văn hóa chiếm ưu thế. Trong tháng
01/2018, Đài đã sản xuất được 5 chương trình
truyền hình Chu Ru, 8 chương trình truyền
hình Cơ Ho, 13 chương trình phát thanh Cơ
Ho, 4 chương trình phát thanh Chu Ru. Nội
dung tập trung giới thiệu những gương điển
hình trong lối sống văn hóa. Việc thông tin
đến công chúng DTTS những tấm gương điển
hình trong đời sống văn hóa là rất cần thiết.
Bên cạnh đó những nội dung về xây dựng
Đảng, Đoàn khối cơ sở, hoạt động của Cựu
chiến binh, hội Phụ nữ cũng được đề cập. Các
vấn đề an sinh xã hội, cải thiện đời sống, xóa
đói giảm nghèo vùng DTTS được thông tin
kịp thời đến công chúng. Các hoạt động văn
hóa, nghề truyền thống cũng được đề cập
nhưng chiếm tỉ lệ thấp.
Về hình thức:
Thứ nhất, thể loại truyền thông chưa đa dạng,
chưa hấp dẫn. Mỗi chương trình thường có
cấu trúc 3 phần gồm Lời dạy của Bác Hồ, 3
tin và 3 phóng sự. Điều này thể hiện thế mạnh
của Đài nhưng cũng chính là một hạn chế khi
các thể loại và chủ đề thể hiện chưa phong
phú. Mô hình lặp lại tương tự nhau mỗi tuần
rất dễ gây nhàm chán cho người xem.
Bảng 1. Cấu trúc chương trình TH – PT tiếng Cơ Ho và Chu Ru
Yếu tố Chương
trình TH
Chương trình PT
Cơ Ho Chu Ru Cơ Ho Chu Ru
Số lượng 01/tuần 01/tuần 03/tuần 01/tuần
Thời lượng 25 phút 25 phút 30 phút 30 phút
Nội dung Lời Bác Hồ dạy
Tin tổng hợp (3)
Phóng sự (4)
Lời Bác Hồ dạy
Tin tổng hợp (3)
Phóng sự (3) - Bài hát
Truyện cổ tích thiếu nhi - Bài hát thiếu nhi (Cuối tuần)
Tự sản xuất 100 % 70%
Nguồn: Kịch bản chương trình Phòng Biên tập Tiếng DTTS, Đài PT-TH Lâm Đồng (2017, 2018)
Kết quả khảo sát 100 công chúng DTTS trong đó 50 Cơ Ho, 50 người Chu Ru ở các khu vực chia
theo 2 vùng kinh tế – xã hội khác nhau: Vùng sâu, vùng xa có là xã Tu Tra - huyện Đơn Dương,
xã Phi Tô, xã Đạ Đờn – huyện Lâm Hà, xã Đà Loan – huyện Đức Trọng. Vùng cận thị có xã Đạ
Ròn – huyện Đơn Dương cho thấy: 57% công chúng DTTS cho rằng nội dung chưa hấp dẫn,
không có chuyên mục yêu thích. 75,8% công chúng nói rằng khung giờ phát sóng vào thời điểm
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173
172
đang đi làm nên không theo dõi thường xuyên
được. 42,4 % cho rằng phát thanh viên lên
hình trang phục không thay đổi thường
xuyên, giọng đọc chưa gây sự chú ý.
Thứ hai, thiếu tính tương tác. Công chúng là
đối tượng tiếp nhận thông tin nhưng vẫn còn
thụ động. Do hạn chế về thể loại nên chương
trình chưa có các chuyên mục để người dân
có thể phản hồi hay trao đổi, đóng góp ý kiến,
trò chuyện, chia sẻ trên sóng phát thanh và
truyền hình. Nội dung thông tin tuyên truyền
còn “nặng” tính một chiều.
Thứ ba, trở ngại về ngôn ngữ. Hạn chế lớn
nhất khi làm chương trình phát thanh và
truyền hình bằng ngôn ngữ dân tộc nói chung
và tiếng Chu Ru, Cơ Ho nói riêng luôn gặp
phải, đó là vốn từ vựng không phong phú để
dịch từ tiếng Việt sang tiếng Chu Ru, Cơ Ho
hoàn toàn. Do đó, nhiều từ mới, từ ngữ
chuyên môn, khoa học, chính trị mỗi khi sử
dụng hoặc dịch đọc đều phải vay mượn. Một
số từ mới, từ ngữ tương đương sau khi dịch,
chưa được thống nhất với nhau, mỗi người
dịch theo sự hiểu biết của mình nên chưa
được sử dụng để tạo thành thói quen, thông
dụng đối với khán thính giả như: sổ hộ khẩu,
thẻ bảo hiểm y tế, điện thoại di động, trung
tâm dân số kế hoạch hóa gia đình, quy định,
quyết định của thủ tướng chính phủ
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền
thông về chính sách văn hóa cho DTTS tại
Lâm Đồng
Về phía các cơ quan quản lý cần có sự quan
tâm đầu tư hơn nữa về kỹ thuật, trang thiết bị,
nhân lực để Phòng Biên tập tiếng DTTS có
thể tiếp tục thực hiện sản xuất chương trình
tiếng dân tộc ngày càng được nâng cao hơn.
Do vậy, cần sớm xây dựng, thành lập nhóm
nghiên cứu về ngôn ngữ dành cho tiếng Chu
Ru, Cơ Ho để in ấn, phát hành bộ từ điển Việt
– Chu Ru, Cơ Ho được sử dụng rộng rãi cho
nhiều đối tượng, nhất là lĩnh vực ngành phát
thanh và truyền hình.
Cần tư vấn, hỗ trợ trang thiết bị tác nghiệp
phù hợp, đáp ứng yêu cầu chương trình. Đồng
thời đầu tư kinh phí, chi trả định mức sản
phẩm cao hơn, xứng đáng với công sức của
người lao động. Hiện nay máy tính phục vụ
cho đội ngũ làm việc của phòng vẫn còn rất
thiếu, chưa đáp ứng được quá trình sản xuất
thông tin cho công chúng dân tộc thiểu số.
Nhà quản lý truyền thông phải thấy được
truyền thông là một yếu tố quan trọng để đạt
được mục tiêu trong tổ chức. Cần phải có kỹ
năng truyền thông tốt, nói phải đi đôi với làm.
Hiệu quả truyền thông được nâng cao khi kết
quả phù hợp với mục đích đặt ra, trong mối
tương quan với chi phí, nguồn lực, thời gian
hợp lý, tương tác hai chiều từ cấp trên xuống
và từ cấp dưới lên, từ chính phủ xuống dân và
nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội.
Bên cạnh đó, nhà quản lý truyền thông cần
nhanh nhạy nắm bắt được đặc điểm cốt lõi
của công chúng DTTS trên địa bàn công tác.
Từ đó, đưa ra các chiến lược truyền thông
thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng có tình toán cho phù hợp với đặc điểm
đời sống và nhận thức của đồng bào.
Về phía nhà báo, cần mạnh dạn thay đổi cách
làm. Ngoài chương trình thời sự tổng hợp như
hiện nay, có thể xây dựng thêm kịch bản để
thực hiện các chương trình phỏng vấn, tọa
đàm, dẫn chương trình ngoài hiện trường,
chương trình làm phát thanh trực tiếp để tăng
tính tương tác với công chúng. Thường xuyên
trao đổi cộng tác tin bài với các phòng ban, cơ
quan báo chí cấp trung ương và khu vực. Được
tham dự đầy đủ các buổi hội nghị, hội thảo, lớp
nghiệp vụ chuyên môn cũng như các kỹ năng
mới liên quan đến hoạt động nghề nghiệp.
THAY LỜI KẾT
Trong hoạt động truyền thông của Việt Nam,
báo chí có vai trò rất quan trọng trong việc
giám sát và phản biện chính sách. Truyền
thông chính sách về văn hóa cho công chúng
DTTS trong thời đại 4.0 cần phát huy vai trò
quan trọng của báo chí nhằm hoàn thiện chính
sách, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội.
Nhìn nhận lại thông điệp truyền thông về
chính sách văn hóa cho đồng bào DTTS tại
Lê Phong Lê và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 191(15): 169 - 173
173
Đài PT - TH Lâm Đồng là việc làm quan
trọng nhằm đưa ra một số giải pháp, khuyến
nghị ban đầu để nâng cao hơn nữa hiệu quả
truyền thông về vấn đề này. Việc cung cấp
thông tin, phổ biến các chính sách văn hóa kịp
thời, đúng "đối tượng" giúp công chúng
DTTS nhận thức được chính sách văn hóa
liên quan trực tiếp đến đời sống của họ. Đồng
thời giúp nhà quản lý truyền thông, các nhà
báo có "cơ hội" cùng đồng bào DTTS nơi đây
tham gia quá trình giám sát, phản biện, tạo
đồng thuận xã hội trong thực thi chính sách./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Dân tộc tỉnh Lâm Đồng (2013).
www.lamdong.gov.vn/viVN/a/bandantoc/Gioithie
u/Pages/Dantocthieuso.aspx
2. Mạc Đường (1983), Vấn đề dân tộc ở Lâm
Đồng, Sở Văn hóa Tỉnh Lâm Đồng.
3. Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Báo Đại
biểu Nhân dân, Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn
Quốc (KOICA), Truyền thông chính sách và năng
lực tiếp nhận của công chúng, Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học Quốc tế, tháng 10 năm 2018
4. Đỗ Đình Hãng (Chủ biên) (2006), Tìm hiểu
đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Đặng Thị Thu Hương (2018), Hình ảnh đồng
bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc trên báo chí
Tạp chí Người làm báo, 413(7), 52-55.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Tập 4 (1945 –
1946), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Trần Hữu Quang (2015), Xã hội học báo chí,
Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM.
8. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 22/NQ-TW về
Một số chủ trương, chính sách lớn phát triển
kinh tế - xã hội miền núi.
10. Stephen H. R. (1992), Ethnic Minority Media:
An International Perspective (Communication and
Human Values), California, USA: SAGE
Publications.
11. Thủ Tướng (1998), Chỉ thị số 39 về Đẩy
mạnh công tác văn hóa - thông tin ở miền núi và
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số (Thủ
Tướng), Việt Nam.
ABSTRACT
PUBLIC POLYCY COMMONUCATION
FOR ETHINIC MINORITY AUDIENCE IN LAMDONG
Le Phong Le
1*
, Vi Thi Phuong
2
1Da Lat of University,
2University of Sciences - TNU
Communicating with ethnic minority audiences in their own language is a particularly important
matter which also brings the State’s attention for years. Lam Dong is a province where many
ethnic minority people live, thus it also has radio, television for these particular audiences. This
article focuses on journalism and the audience in a unified relationship. We will: firstly, research
the current status of radio and television for ethnic minorities in Lam Dong in terms of content,
form and other factors; secondly, survey the demand for information of people from ethnic
minorities in Lam Dong province. With comparison and evaluation from that, initial solutions and
recommendations will be given to improve the quality of specialized journalism for local ethnic
minorities in the future.
Keywords: Public policy communication, Cutural, Audience, Ethinic minority, Journalism, Lam Dong
Ngày nhận bài: 03/12/2018; Ngày hoàn thiện: 26/12/2018; Ngày duyệt đăng: 28/12/2018
*
Tel: 0392 970732; Email: Lephongle212@gmail.com
174
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 82_112_1_pb_4717_2124487.pdf