Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ đầu thế kỉ XX: Những vấn ề về xuất bản, biên soạn và phân loại

Tài liệu Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ đầu thế kỉ XX: Những vấn ề về xuất bản, biên soạn và phân loại: TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 119 Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ u th Những vấn ề về xuất bản, biên soạn và phân loại Verse-narrative written in Vietnamese romanized script in the South of Vietnam in the early 20 th century: Publishing, editing and classifying ThS. Dương Mỹ Thắm, Trường Đại học Văn Hiến Dương My Tham, M.A., Van Hien University Tóm tắt Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được xuất bản, tái bản với số lượng lớn và bày bán phổ biến khắp các hiệu sách với giá bình dân. Thời đó, truyện thơ Quốc ngữ được người dân Nam Kỳ lục tỉnh yêu chuộng. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử và nhu cầu thưởng thức của người dân thay đổi nên về sau ít ai còn lưu giữ loại truyện thơ này. Vì vậy, việc tìm kiếm tư liệu gặp rất nhiều khó khăn. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi giới thiệu khái quát những vấn đề xuất bản, tình hình tư liệu và trên cơ sở đó phân loại truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ theo cách riên...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 421 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ đầu thế kỉ XX: Những vấn ề về xuất bản, biên soạn và phân loại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 33 (58) - Thaùng 10/2017 119 Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ u th Những vấn ề về xuất bản, biên soạn và phân loại Verse-narrative written in Vietnamese romanized script in the South of Vietnam in the early 20 th century: Publishing, editing and classifying ThS. Dương Mỹ Thắm, Trường Đại học Văn Hiến Dương My Tham, M.A., Van Hien University Tóm tắt Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được xuất bản, tái bản với số lượng lớn và bày bán phổ biến khắp các hiệu sách với giá bình dân. Thời đó, truyện thơ Quốc ngữ được người dân Nam Kỳ lục tỉnh yêu chuộng. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử và nhu cầu thưởng thức của người dân thay đổi nên về sau ít ai còn lưu giữ loại truyện thơ này. Vì vậy, việc tìm kiếm tư liệu gặp rất nhiều khó khăn. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi giới thiệu khái quát những vấn đề xuất bản, tình hình tư liệu và trên cơ sở đó phân loại truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ theo cách riêng. Từ khóa: truyện thơ, Quốc ngữ, Nam Kỳ, phân loại. Abstract In the early decades of the 20th century, verse-narrative written in Vietnamese Romanized script in the south of Vietnam was published and republished massively and sold in most of the bookstores with the reasonable price. Accordingly, the verse-narative was appreciated by readers from the six southern provinces. Because of historical conditions and the change of readers’ taste, however, only few people have stored this type of verse-narative. Therefore, it is challenging to search for its documentation. This paper aims to present the overview of publishing issues and the literary resources, from which verse- narrative written in Vietnamese Romanized script in the south of Vietnam is classified in a different way. Keywords: verse-narrative, Vietnamese Romanized script, Southern Vietnam, classification. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ được viết bằng chữ Quốc ngữ, chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát và xuất bản ở Sài Gòn từ cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Truyện được sáng tác dựa vào truyện dân gian Việt Nam, truyện thơ Nôm, tuồng, tích Trung Quốc, truyền thuyết Phật giáo và sự kiện có thực ở Nam Kỳ. Người viết dùng từ “Nam Kỳ” trong khái niệm truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ là muốn đặt truyện thơ Quốc ngữ vào đúng bối cảnh lịch sử giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Gắn liền với sự ra đời và phát triển truyện thơ Quốc ngữ là hình thức diễn xướng nói thơ. Để hình thức nói thơ ngày càng hấp dẫn người nghe, trong quá trình biên soạn TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI 120 truyện thơ Quốc ngữ, các “tác giả” đã kết hợp hình thức nói thơ với hình thức nghệ thuật tuồng. Sự pha trộn này đã tạo nên một bộ phận mới trong thể loại truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, đó là thơ tuồng. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ bao gồm cả truyện thơ Quốc ngữ và thơ tuồng Quốc ngữ được xuất bản ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Sau khi giới thiệu hình thức xuất bản truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, bài viết s trình bày khái uát tình hình tư liệu, trên cơ sở đó phân loại truyện thơ uốc ngữ Nam Kỳ theo cách riêng. 1. Hình thức xuất bản truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ Vào những năm đầu thế kỷ XX, các nhà in ở Nam Kỳ bắt đầu uan tâm đến việc xuất bản truyện thơ. Đây là loại sách được in bằng chữ quốc ngữ, giá bán từ 0$20 (hai mươi xu) đến 0$60 (sáu mươi xu) một quyển tuỳ theo độ dày, mỏng, trơn hay có hình. Vào thời điểm này, 1 tạ lúa (68 kilos) có giá từ 2$00 (hai đồng) đến hơn 3$00, tùy theo thời điểm được mùa hay mất mùa (1). Như vậy, để mua 1 quyển thơ người ta phải bán từ 6 đến 18 ký lúa. Điều rất thú vị là trong suốt gần 4 thập kỷ giá lúa ngày càng tăng nhưng giá truyện thơ vẫn giữ nguyên sau mỗi lần tái bản. Có những cuốn tái bản hơn 10 lần, kể cả thay đổi nhà xuất bản, chủ bổn, người biên soạn nhưng vẫn giữ nguyên giá ban đầu, như trường hợp thơ Vân Tiên (có hình), tái bản lần thứ 13 nhưng giá vẫn giữ nguyên là 0$60. Đến thập niên 50, mỗi quyển thơ có giá trung bình là 2$00. Thơ thường được in khổ 16cm x 24cm, dày từ 16 đến 30 trang (kể cả bìa). Đặc biệt, nếu có xen k hình v hoặc pha lẫn các hình thức tuồng thì mỗi cuốn có thể dày đến 100 trang. Thơ bán rất chạy, số lượng mỗi lần in có thể từ 1.000 đến 3.000 bản. Nhiều quyển thơ tái bản đến lần thứ 6, thứ 7 như Thoại Khanh Châu Tuấn, Lâm Sanh Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Quan Âm diễn ca, Nàng Út, Con Tấm con Cám, thơ Sáu Nhỏ, Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê; thậm chí có những quyển tái bản lần thứ 12, 13 như thơ Vân Tiên, thơ Sáu Trọng. Hình thức trình bày các quyển thơ cơ bản giống nhau. Trang bìa được in bằng giấy màu loại mỏng, có hình minh họa một cảnh nào đó trong truyện. Góc trên bên phải của trang bìa là giá quyển thơ, góc trên bên trái là số lần tái bản. Nhưng đến thập niên 50, hầu hết trên trang bìa của các quyển thơ không có số lần tái bản, và một số quyển không in giá bán như những quyển thơ đã in đầu thế kỷ XX. Tên thơ thường được in bằng hai loại văn tự, là Hán văn và Quốc ngữ, hoặc chữ Nôm và Quốc ngữ, đôi khi cũng có những trường hợp đặc biệt kết hợp cả ba loại văn tự: Hán, Nôm và quốc ngữ. Ngay dưới tên truyện thơ thường ghi rõ "bổn cũ soạn lại", "bổn cũ diễn chánh", "soạn y bổn Nôm", hay "tân soạn" và tên người soạn, người đứng ra xuất bản. Cuối trang bìa là tên, địa chỉ nhà in và năm xuất bản được ghi bằng hai loại văn tự quốc ngữ và Pháp văn. Bìa sau thường in danh mục các thứ thơ, tiểu thuyết, tuồng, cải lương đã và s xuất bản. Càng về sau, trang bìa càng được thiết kế đơn giản hơn, bỏ bớt chữ Hán, Nôm, tên truyện thơ được thể hiện bằng Quốc ngữ. Truyện thơ uốc ngữ đã được xuất bản ở Nam Kỳ với số lượng khá lớn, song do yếu tố thời gian và những biến cố lịch sử nên chúng còn được lưu giữ không nhiều tại các Thư viện quốc gia Việt Nam, Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh và Thư viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ. Truyện thơ uốc ngữ được các nhà in xuất bản thành các tập sách độc DƯƠNG MỸ THẮM 121 lập. Ngoài ra còn có các tác phẩm được in thành nhiều kỳ trên các báo, tạp chí như: Lục súc tranh công, Nhị thập tứ hiếu trên Gia Định báo. Hiện nay, Thư viện quốc gia Việt Nam đang là nơi lưu giữ truyện thơ quốc ngữ nhiều nhất và chủ yếu dưới hình thức vi phim. Hiện tại, chúng tôi sưu tầm được gần 200 tập thơ. Trong đó, trừ những tập tái bản có cùng tựa đề, tác giả người biên soạn và nhà in, hiện đã thu thập được 156 tác phẩm, như: Bá Ấp Khảo loạn cung, Bá Nha Tử Kỳ, Bạch Viên Tôn Các, Cậu Hai Miêng [Miên], Cha Hồ Chú Nhẫn, Chàng Chuột Lệ Tiên, Chàng Nhái Kiển Tiên thơ, Chàng Nhái (thơ), Chiêu Quân cống Hồ, Đào Trinh Luông Sanh, Đỗ Thập Nương, Đơn Hùng Tín, Dương Ngọc thơ, Hạng Võ biệt Ngu Cơ, Hậu Chàng Nhái, Hậu Con Tấm con Cám, Hậu Hoàng Trừu, Hậu Lang Châu, Hậu Nàng Út, Hậu Phạm Công, Hậu Thạch Sanh, Hậu Vân Tiên, Hoàng Trừu, Lâm Sanh Lâm Thoại, Lâm Sanh Xuân Nương, Lang Châu thơ, Lang Châu toàn truyện, Lục Vân Tiên thơ, Lưu Bình Dương Lễ, Lý Công thơ, Lý Thi Ân Đào Báo Nghĩa, Mục Liên Thanh Đề, Nam Kinh Bắc Kinh, Nàng Chuột trinh tiết, Nàng Út, Ngọc Cam Ngọc Khổ, Nhị thập tứ hiếu, Nữ trung báo oán, Ông phò nhị tẩu, Phạm Công Cúc Hoa, Phan Công thơ, Phàn Lê Huê phá Hồng Thuỷ trận, Phụng Kiều Lý Đáng, Phụng Nghi Đình, Quan Âm diễn ca, Quan Công phục Huê Dung, Sáu Trọng thơ, Sử Công, Tam Nương thơ, Tam Tạng thỉnh kinh đông độ, Tề Thiên Đại Thánh loạn thiên đình, Thạch Sanh Lý Thông, Thằng Lảnh bán heo, Thơ đi Tây, Thơ mài gươm dạy vợ, Thơ Mụ Đội, Thơ phật tổ ra đời, Thơ Sáu Nhỏ, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tiên Bửu thơ tuồng, Tiết Cương khởi nghĩa, Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê, Tiết Giao đoạt ngọc, Tống Tử Vưu (thơ), Tống Tử Vưu truyện, Trần Đại lang, Trần Minh khố chuối, Trần Sanh Ngọc Anh, Triệu Tử Long Đương Dương Trường Bản, Trò Đông thơ, Trụ Vương mê Đắc Kỷ, Trương Ngộ thơ, Tứ đại kỳ thơ, Văn Doan diễn ca, Văn Doan thơ, Vân Tiên cờ bạc, Võ Tòng sát tẩu, Xử án Quách Hoè Ngoài ra cũng có nhiều bản khác trùng tên với các tác phẩm kể trên nhưng khác tác giả và nhà in. Tất nhiên, số tác phẩm đã tìm được chưa phản ánh đầy đủ tình hình xuất bản truyện thơ uốc ngữ lúc bấy giờ, nhưng về cơ bản đã ít nhiều bao quát gần hết số tác phẩm mà các nhà in cũng như độc giả khi ấy quan tâm. Chỉ còn một số ít truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ đã được giới thiệu trên các trang bìa sau của các truyện thơ, trên báo mà hiện nay chúng tôi chưa tìm được, ví như Thơ Năm Tỵ, Thơ Bảy Tài, Hạnh Nguyên cống Hồ, Thơ giết chó khuyên chồng, Bùi Kiệm kiện Phú Loan, Đơn Nguyệt Nga kêu oan cho Bùi Kiệm 2. Truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ nhìn từ phương thức biên soạn Qua khảo sát thông tin trên trang bìa của các tập truyện thơ, chúng tôi thấy hầu hết các tác phẩm đều được miêu tả phẩm cách của nó như: "Bổn cũ soạn lại", "bổn cũ diễn chánh", "soạn y bổn Nôm", "soạn theo bổn Nôm", "thơ mới", "thơ hậu" Căn cứ vào nghĩa của các cụm từ và phương thức biên soạn tác phẩm, chúng tôi tạm phân loại truyện thơ Quốc ngữ thành 4 nhóm: Phiên âm từ truyện Nôm (Soạn y bổn Nôm), bổn cũ soạn lại (dọn lại, sửa lại), viết tiếp (thơ hậu), sáng tác (thơ mới). Theo chúng tôi, cách phân loại theo nhận thức của người xưa về bản chất tác phẩm cần được tham chiếu với nguồn văn liệu của chúng để có một cái nhìn r hơn TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI 122 về truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Ưu điểm của cách phân loại theo phương thức biên soạn, miêu tả bản chất tác phẩm của người xưa là tính lịch sử của nó, cho ph p sử dụng lại các từ, ngữ mà các tác giả người biên tập truyện thơ uốc ngữ đã dùng. Cách phân loại này s làm nổi bật công việc và ý thức của những người đặt thơ, biên soạn, xuất bản thơ thời bấy giờ. 2.1. Phiên âm từ truyện Nôm (Soạn y bổn Nôm) Qua khảo sát văn bản, cho thấy "soạn y bổn Nôm" có nghĩa là tác phẩm này được soạn lại từ truyện thơ Nôm và người soạn tuyệt đối trung thành với bản Nôm. Nói cách khác, họ chỉ làm công việc của người phiên âm Nôm ra quốc ngữ. Người làm công việc này đầu tiên là Trương Vĩnh Ký. Ông đã phiên âm, chú giải những truyện thơ Nôm ra uốc ngữ như : Kim Vân Kiều truyện (1875), Lục súc tranh công (1887), Phan Trần (1889)(2). Tiếp theo Trương Vĩnh Ký là Trương Minh Ký: ông cũng đã phiên âm các truyện thơ Nôm ra quốc ngữ và đăng trên Gia Định báo, như : Lục súc tranh công (đăng từ số 2, ngày 13/1/1891), Nhị thập tứ hiếu (đăng từ số 49, ngày 8/12/1896). Truyện thơ uốc ngữ Lục Vân Tiên xuất bản bằng uốc ngữ là một ví dụ điển hình cho loại “soạn y bổn Nôm”. Chúng tôi sưu tầm được 7 tác phẩm Lục Vân Tiên, trong đó có 3 tác phẩm là "bổn cũ soạn lại có hát nam hát khách", 1 tác phẩm là "bổn cũ diễn chánh" và 3 tác phẩm còn lại là "soạn y bổn cũ", "soạn y bổn Nôm" hoặc "bổn cũ soạn lại". Trong số này, chúng tôi quan tâm nhóm 3 tác phẩm "soạn y bổn Nôm". Tác phẩm đầu tiên là truyện thơ quốc ngữ Lục Vân Tiên do nhà in Phạm Văn Thình tái bản lần thứ 13 vào năm 1942. Trên trang bìa chính của tác phẩm này có ghi rõ tác giả là cụ Đồ Chiểu. Ngoài ra họ còn sử dụng cụm từ "soạn y bổn Nôm" đặt ngay dưới tên tác phẩm. Các thông tin trên cho chúng ta thấy được tác phẩm này có nguồn gốc từ bản Nôm của Nguyễn Đình Chiểu và trong quá trình biên soạn ra tác phẩm này người soạn đã tuyệt đối trung thành với bản Nôm. So sánh với Truyện Lục Vân Tiên do các nhà nghiên cứu như: Ca Văn Thỉnh và Nguyễn Quang Tuân phiên âm thì bản “soạn y bổn Nôm” có nội dung hoàn toàn trùng khớp. Vậy chúng tôi có thể khẳng định “soạn y bổn Nôm” là phiên âm tác phẩm từ chữ Nôm ra quốc ngữ. Hai tập Lục Vân Tiên còn lại được nhà in Bảo Tồn in lần thứ nhất, năm 1928 do Phạm Văn Thơm chịu trách nhiệm xuất bản; và tác phẩm được nhà in Xưa Nay in lần thứ 3, năm 1929 do Phạm Văn Thình chịu trách nhiệm xuất bản. Trên trang bìa của cả 2 tác phẩm này đều dùng cụm từ "bổn cũ soạn lại" nhưng ở trang bìa phụ lại dùng cụm từ "soạn y bổn cũ". Ngoài những khó khăn vì không xác định được văn bản nguồn mà 2 tác phẩm này sử dụng và không tiếp cận được văn bản Nôm, chúng tôi còn gặp vấn đề khác. Đó là việc dùng các cụm từ "bổn cũ soạn lại", "soạn y bổn cũ" không thống nhất trong cùng một tác phẩm. Trong trường hợp này, “bổn cũ soạn lại” có thể có nghĩa là phiên ra uốc ngữ một tác phẩm vốn viết bằng chữ Nôm, việc “soạn lại” này chỉ là chuyển đổi hệ thống văn tự ghi ch p tác phẩm. Xét về mặt nội dung lẫn hình thức, 2 tác phẩm này giống hoàn toàn với tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đã được hiệu đính và in trong Từ điển truyện Lục Vân Tiên(3) hoặc Nguyễn Đình Chiểu toàn tập(4). Vậy chúng ta có thể tạm kết luận mức độ trung DƯƠNG MỸ THẮM 123 thành của 2 tác phẩm này với bổn Nôm của Nguyễn Đình Chiểu gần như tuyệt đối. Vì vậy, chúng tôi tạm xếp 2 tác phẩm này vào loại "soạn y bổn Nôm". Năm 1928, Nhà in Xưa nay xuất bản truyện thơ uốc ngữ Lâm Sanh Xuân Nương. Trên trang bìa chính có ghi r đây là bản in lần thứ nhất, giá 30 xu, người xuất bản là Lê Văn Tịnh. Ở bìa phụ Lê Văn Tịnh có dùng cụm từ "soạn y bổn cũ" và ông nhắc lại một lần nữa bằng cụm từ "soạn y bổn Nôm" trước khi bắt đầu câu thơ đầu tiên. Cụm từ "soạn y bổn cũ" hay "soạn y bổn Nôm" đều khẳng định đây là truyện thơ được soạn lại từ truyện thơ Nôm và người soạn tuyệt đối trung thành với bản gốc và chỉ phiên âm Nôm ra quốc ngữ. Tuy nhiên, chúng tôi không thấy thông tin nào về người phiên âm hay biên soạn tác phẩm này. Đối với loại truyện thơ "soạn y bổn Nôm", trên trang bìa của các tác phẩm thường không thể hiện thông tin về tác giả mà chỉ có người đứng ra chịu trách nhiệm xuất bản, trừ trường hợp duy nhất là tác phẩm Lục Vân Tiên (1942) có ghi rõ tên tác giả (cụ Đồ Chiểu). Dựa vào trường hợp này, chúng ta có thể thấy những người xuất bản cho rằng tác giả của truyện thơ loại này là tác giả của văn bản Nôm. Như vậy, việc các tác phẩm khác không ghi rõ tên tác giả có l vì chúng được phiên âm từ những truyện thơ Nôm khuyết danh. Vậy người phiên âm Nôm ra quốc ngữ là ai, phải chăng chính là người xuất bản? Xét về bản chất, loại truyện thơ này là những truyện được phiên âm Nôm ra quốc ngữ, mức độ trung thành với bản gốc là tuyệt đối nên chắc chắn người chịu trách nhiệm xuất bản không thể chỉ nghe hoặc đọc ở đâu đó, ghi lại, rồi đứng ra xuất bản. Họ phải là người trực tiếp phiên âm hoặc ít ra là người cuối cùng hoàn chỉnh văn bản. Vì những l trên, chúng tôi tạm thời xem người xuất bản truyện thơ "soạn y bổn Nôm" là ngư ph n t ph . Bên cạnh đó, còn có một số truyện thơ Quốc ngữ được soạn lại từ truyện thơ Nôm nhưng “tác giả” không được gọi là người soạn hay người chép ra quốc ngữ như thường lệ mà được gọi là "dịch giả". Theo chúng tôi, nhiều khả năng chữ "dịch" ở đây có nghĩa là chuyển tác phẩm từ loại văn tự này sang văn tự khác, và công việc chính của các "dịch giả" là phiên âm Nôm ra quốc ngữ. Các "dịch giả" Nguyễn Đức Lương, Lê Duy Thiện và Nguyễn Kim Đính thực chất là người phiên âm truyện thơ Nôm sang quốc ngữ. 2.2. Bổn cũ soạn lại Trong Từ điển từ ngữ Nam Bộ của Huỳnh Công Tín, cụm từ "bổn cũ soạn lại" có nghĩa là “giữ nguyên cái đã có, thực hiện theo cái cũ”(5). Với nghĩa này thì cụm từ "bổn cũ soạn lại" rất gần nghĩa với cụm từ "soạn y bổn Nôm". Theo chúng tôi “bổn cũ soạn lại” không chỉ là thực hiện theo cái cũ mà là tác phẩm được soạn lại từ truyện thơ Nôm, người biên soạn “tác giả” có thể dựa vào cốt truyện có sẵn để thêm bớt, thay đổi một vài tình tiết, nhân vật hoặc thay đổi câu chữ thậm chí có thể thêm vào các hình thức tuồng để sáng tạo ra một tác phẩm mới. Khảo sát trên các trang bìa của truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, cụm từ "bổn cũ soạn lại" là được dùng nhiều nhất, bên cạnh đó chúng tôi tìm thấy những cụm từ khác có nghĩa rất gần như "bổn cũ dọn lại", "bổn cũ sửa lại", "bổn cũ diễn chánh", "soạn theo bổn Nôm". Xét về nghĩa, theo Đại Nam quốc âm tự vị, từ dọn có nghĩa "là sắp đặt, bài trí"(6); sửa có nghĩa là "lặp lại, làm lại, sắp đặt làm cho chính đính, tề chỉnh"(7). Như vậy, các truyện thơ uốc TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI 124 ngữ dùng cụm từ "bổn cũ dọn lại", "bổn cũ sửa lại" đều thuộc loại truyện thơ "bổn cũ soạn lại". Đối với các truyện thơ sử dụng cụm từ "soạn theo bổn Nôm", vừa nghe ua người đọc có thể nghĩ đây là loại truyện thơ "soạn y bổn Nôm", nhưng khi phân tích nghĩa của từng từ thì rõ ràng từ "y" và từ "theo" có nghĩa khác nhau. Một đằng là giữ nguyên vẹn, trung thành tuyệt đối với văn bản Nôm, một đằng là kế thừa văn bản Nôm và không nhất thiết phải giữ nguyên văn bản gốc, tức có thể bổ sung, sửa chữa theo ý muốn chủ quan của người soạn. Vậy loại truyện thơ có sử dụng cụm từ "soạn theo bổn Nôm" cũng được xếp vào loại truyện thơ "bổn cũ soạn lại". Về nghĩa của cụm từ "bổn cũ diễn chánh", theo Đại Nam quốc âm tự vị từ diễn có nghĩa là "rộng"(8); chánh có nghĩa là "việc chánh, ngay thật, chắc chắn"(9). Thực tế, các truyện thơ có sử dụng cụm từ "bổn cũ diễn chánh" như : Đào Trinh Luông Sanh, Lục Vân Tiên, Nam Kinh Bắc Kinh, Thạch Sanh Lý Thông là những truyện được soạn lại từ truyện thơ Nôm, người soạn giữ lại cốt truyện thêm bớt, thay đổi tình tiết, câu chữ để tạo nên các tác phẩm mới. Vậy, các truyện thơ này cũng được xếp cùng nhóm với loại truyện thơ "bổn cũ soạn lại". Trên trang bìa tác phẩm Tống Tử Vưu do nhà in Đông Pháp xuất bản lần thứ nhất năm 1929 và tác phẩm Trần Đại Lang cũng do nhà in Đông Pháp xuất bản lần thứ nhất năm 1929, hoặc tác phẩm cùng tên Trần Đại Lang do nhà in Phạm Văn Cường xuất bản năm 1928 đều ghi "Dịch truyện Tàu" ngay dưới tên tác phẩm. Cuối mỗi trang bìa đều ghi thêm "Nguyễn Kim Đính dịch và xuất bản". Vậy cụm từ "Dịch truyện Tàu" ở đây có nghĩa là gì? Có phải là Nguyễn Kim Đính đã dùng khả năng ngôn ngữ của mình để thuật lại bằng tiếng Việt thông ua hệ văn tự uốc ngữ nội dung "truyện Tàu" (truyện Trung Quốc) vốn được viết bằng Hán văn. Hay nói cách khác liệu có phải Nguyễn Kim Đính đã chuyển thể các truyện Trung Quốc có tên là Tống Tử Vưu, Trần Đại Lang dưới dạng nguyên tác chữ Hán sang truyện thơ uốc ngữ? Trong trường hợp này, theo chúng tôi Nguyễn Kim Đính chỉ là người phiên âm truyện thơ Nôm ra uốc ngữ, chứ không hề làm công việc của người dịch. Vì tác phẩm Tống Tử Vưu của Nguyễn Kim Đính giống hoàn toàn với Tống Tử Vưu truyện của Huỳnh Tịnh Của. Điều này có nghĩa nó cũng được xếp vào loại "Bổn cũ soạn lại" và việc tác giả dùng cụm từ "Dịch truyện Tàu" chỉ thể hiện tác phẩm này có nguồn gốc từ truyện Trung Quốc. Trong số các truyện thơ uốc ngữ mà chúng tôi sưu tầm được có một số truyện thơ không sử dụng các cụm từ "bổn cũ soạn lại", "bổn cũ dọn lại", "bổn cũ sửa lại". Tuy nhiên, dựa vào bản chất của loại truyện thơ "bổn cũ soạn lại", chúng tôi đưa ra hai yếu tố chính để làm cơ sở phân loại. Thứ nhất truyện phải được soạn lại từ truyện thơ Nôm; thứ hai, trên trang bìa thể hiện rõ truyện đã được diễn ra quốc ngữ, chép ra quốc ngữ, soạn lại và thêm thắt bởi những “tác giả” cụ thể. 2.3. Sáng tác (Thơ mới) Theo Đại Nam quốc âm tự vị, Thơ có nghĩa “là sách, chuyện” (Thư 書), hay “chữ nghĩa hoặc lời nói đặt ra có câu có vần theo điệu văn chương” (Thi 詩)(10). Đối với truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, người ta dùng chữ Thơ (書)có nghĩa là chuyện để đặt tên cho tác phẩm. "Thơ mới" là truyện thơ được sáng tác mới hoàn toàn bằng chữ DƯƠNG MỸ THẮM 125 quốc ngữ, tức nội dung cốt truyện không dựa vào truyện thơ Nôm. Trong trường hợp này, truyện thơ Quốc ngữ được trực tiếp biên soạn theo truyện cổ tích, tuồng, tích, tiểu thuyết Trung Quốc hay các sự kiện lịch sử - xã hội Việt Nam mà không qua truyện thơ Nôm. Cách đơn giản nhất để nhận biết "Thơ mới" là dựa vào các chữ dùng trên trang bìa của mỗi cuốn thơ, như : "thơ mới", "tân soạn". Đối với các truyện thơ không sử dụng những từ, ngữ quen thuộc trên thì chúng ta cần phải dựa vào cốt truyện để phân loại chúng. Những truyện thơ uốc ngữ được soạn trực tiếp từ truyện cổ tích, tiểu thuyết Trung Quốc hoặc được sáng tác dựa vào các sự kiện lịch sử của Việt Nam không thông qua truyện thơ Nôm đều là "thơ mới". Trên trang bìa của những truyện này thường thể hiện rõ tên tác giả tức "người đặt thơ". 2.4. Viết tiếp (Thơ hậu) "Thơ hậu" là truyện thơ uốc ngữ được sáng tác mới hoàn toàn. Tác giả "Thơ hậu" lấy kết thúc truyện của "bổn cũ soạn lại" làm mở đầu cho câu chuyện tiếp theo, đặc biệt cốt truyện được họ sáng tạo dựa vào sự tưởng tượng của bản thân tạo nên một tác phẩm hoàn toàn mới từ nội dung đến hình thức. Qua tên gọi của tác phẩm, chúng ta rất dễ nhận biết các truyện thơ quốc ngữ thuộc nhóm "Thơ hậu", vì tác giả thường lấy chữ "hậu" kết hợp với tên "bổn cũ soạn lại" của nó, như Hậu chàng Nhái, Hậu Lang Châu, Hậu Nàng Út, Hậu Phạm Công, Hậu Thạch Sanh, Hậu Vân Tiên, Hậu con Tấm con Cám, Hậu Hoàng Trừu, Hậu Vân Tiên Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ khác như tác phẩm Cha Hồ chú Nhẫn. Đây là truyện thơ quốc ngữ thuộc nhóm "Thơ hậu", nội dung được kể tiếp theo truyện Chàng Lía. Đối với trường hợp này, chúng ta phải dựa vào nội dung tác phẩm mới có thể nhận biết chúng thuộc nhóm "Thơ hậu". 3. Phân loại truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ theo nguồn gốc thể tài Hiện nay, chúng tôi có gần 200 truyện thơ uốc ngữ Nam Kỳ, phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Để thuận lợi cho việc nghiên cứu, trước hết người viết phải phân loại chúng theo từng nhóm. Các nhà nghiên cứu về truyện thơ Nôm đã có rất nhiều ý kiến khác nhau trong việc phân loại truyện thơ Nôm. Họ dựa vào các tiêu chí khác nhau để chia truyện thơ Nôm thành các loại sau: “Truyện Nôm bình dân”, truyện Nôm bác học” (phong cách sáng tác), “truyện Nôm khuyết danh”, “truyện Nôm hữu danh” (tác giả)... Đối với truyện thơ Quốc ngữ, chúng tôi xét thấy s không thể phân chia theo tiêu chí phong cách sáng tác, vì tất cả những tác phẩm mà chúng tôi đang có đều là những truyện có nội dung mang đậm tính chất uần chúng và nghệ thuật hết sức mộc mạc, giản dị. Nếu căn cứ vào mối quan hệ với tác giả để phân loại truyện thơ Quốc ngữ, chúng tôi e rằng s không hợp lý vì ngoài truyện thơ Lục Vân Tiên, số tác phẩm còn lại mà chúng tôi đang có đều là những truyện thơ khuyết danh. Vì vậy, chúng tôi chọn cách phân loại theo nguồn gốc thể tài để phân loại truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Cách phân loại này giúp chúng ta thấy được thi pháp, phong cách của từng thể tài. Theo đó, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ có mấy loại sau: Truyện thơ ổ tích, truyện thơ truyền thuyết Phật giáo, truyện thơ tuồng tích Trung Quốc, truyện thơ th i sự. 3.1. Truyện thơ cổ tích Chúng tôi dùng khái niệm truyện thơ cổ tích là để chỉ các loại truyện được kể bằng văn vần có nội dung cốt truyện từ chuyện xưa, tích cũ được lưu truyền trong TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI 126 dân gian Việt Nam. Truyện thơ cổ tích có nội dung khá rộng, gồm nhiều loại đề tài với nhiều kiểu nhân vật khác nhau, như: truyện các nhân vật dũng sĩ, các nhân vật tài giỏi, thông minh, truyện về các nhân vật ngốc nghếch, các nhân vật bất hạnh, như: người mồ côi, người em út, người con riêng, người nghèo khổ, người quái dị hình dạng, truyện về các con vật nói năng và hành động như con người, truyền thuyết về các anh hùng thảo dã... Chủ đề quen thuộc của truyện thơ cổ tích là chính nghĩa thắng gian tà, thiện thắng ác. Các vấn đề này được các tác giả dân gian thể hiện một cách độc đáo, sống động trên cơ sở kế thừa nội dung và hình thức nghệ thuật của truyện cổ tích. Truyện thơ cổ tích chiếm số lượng lớn trong danh mục tác phẩm truyện thơ Quốc ngữ xuất bản ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, như: Cha Hồ Chú Nhẫn, Chàng Chuột Lệ Tiên, Chàng Nhái Kiển Tiên thơ, Chàng Nhái, Đào Trinh Luông Sanh, Dương Ngọc thơ, Hậu Chàng Nhái, Hậu Con Tấm con Cám, Hậu Hoàng Trừu, Hậu Lang Châu, Hậu Nàng Út, Hậu Phạm Công, Hậu Thạch Sanh, Hậu Vân Tiên, Hoàng Trừu, Lâm Sanh Lâm Thoại, Lâm Sanh Xuân Nương, Lang Châu thơ, Lang Châu toàn truyện, Lục súc tranh công, Lục Vân Tiên thơ, Lưu Bình Dương Lễ, Lý Công thơ, Lý Thi Ân Đào Báo Nghĩa, Nam Kinh Bắc Kinh, Nàng Chuột trinh tiết, Nàng Út, Ngọc Cam Ngọc Khổ, Nữ trung báo oán, Phạm Công Cúc Hoa, Phan Công thơ, Sử Công, Tam Nương thơ, Thạch Sanh LýN Thông, Thằng Lảnh bán heo, Thơ mài gươm dạy vợ, Thơ Mụ Đội, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tiên Bửu thơ tuồng, Trần Minh khố chuối, Trần Sanh Ngọc Anh, Trò Đông thơ, Trương Ngộ thơ, Văn Doan diễn ca, Văn Doan thơ Vì vậy, để thuận lợi cho việc nghiên cứu, chúng tôi tiếp tục phân loại truyện thơ cổ tích thành nhiều nhóm nhỏ, như: truyện thơ cổ tích thần kỳ, truyện thơ cổ tích thế sự, truyện thơ cổ tích loài vật. 3.1.1. Truyện thơ cổ tích thần kỳ Truyện thơ cổ tích thần kỳ kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội con người; mà ở đó những xung đột, mâu thuẫn trong gia đình, như: xung đột giữa anh chị em (Chàng Nhái Kiển Tiên, Chàng Chuột Lệ Tiên, Nàng Út...), xung đột giữa dì ghẻ con chồng, giữa chị em cùng cha khác mẹ (Con Tấm con Cám), xung đột có tính bi kịch về hôn nhân, gia đình (Thoại Khanh Châu Tuấn, Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương...) được giải quyết nhờ vào lực lượng siêu nhiên. Những ông Tiên, ông Bụt... luôn đứng về phía thiện, trợ giúp cho nhân vật đau khổ, đang gặp bế tắc để đưa họ tới hạnh phúc. Đây là nhóm tác phẩm chiếm số lượng lớn nhất trong danh mục truyện thơ cổ tích. 3.1.2. Truyện thơ cổ tích thế sự Truyện thơ cổ tích thế sự khác loại truyện thơ cổ tích thần kỳ ở chỗ, truyện kể lại những sự kiện khác thường ly kỳ nhưng những sự kiện này được rút ra từ thế giới trần tục của con người, không có hoặc rất ít yếu tố thần kỳ. Trong truyện thơ cổ tích thế sự yếu tố thần kỳ không có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của câu chuyện. Nhân vật trung tâm thường chủ động và tích cực hơn so với nhân vật trung tâm trong truyện thơ cổ tích thần kỳ. Những mâu thuẫn, xung đột trong truyện thơ cổ tích thế sự được giải quyết theo logic của hiện thực và thỉnh thoảng nhân vật trung tâm không nhận được “cái kết có hậu”. Các tác phẩm như: Cha Hồ chú Nhẫn, Hoàng Trừu, Lưu Bình Dương Lễ, Mài gươm dạy vợ, Nữ trung báo oán, Thằng Lảnh bán DƯƠNG MỸ THẮM 127 heo, Thơ Chàng Lía, Trương Ngộ, Thơ Văn Doan, Văn Doan diễn ca... đều thuộc nhóm truyện cổ tích thế sự. 3.1.3. Truyện thơ cổ tích loài vật Truyện thơ cổ tích loài vật là loại truyện kể bằng văn vần có tính chất thế sự, mượn chuyện về loài vật để nói bóng gió, kín đáo chuyện đời, chuyện người, nhằm nêu lên bài học luân lí. Truyện thơ cổ tích loài vật có số lượng hạn chế nhất trong danh mục truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, như: Nàng Chuột trinh tiết, Lục súc tranh công. Truyện thơ cổ tích là kết quả sáng tạo của các tác giả dân gian. Họ đã sáng tạo bằng cách chỉnh lý, lắp ghép các tình tiết, các môtip có sẵn trong kho tàng truyện cổ dân gian để tạo thành một câu chuyện hoàn toàn mới. Trong quá trình biên soạn truyện thơ cổ tích, tác giả dân gian đã “sửa đổi lại mới” rất nhiều nội dung. Nội dung câu chuyện trong truyện thơ cổ tích đã được cụ thể hóa, nhân vật dù mang lý tưởng nhưng cũng bắt đầu có tâm lý, tính cách, lời thoại cũng nhiều hơn Tuy nhiên, sự sáng tạo ấy dù nhiều hay ít cũng không thể vượt ra ngoài khuôn khổ của chuyện xưa, tích cũ. 3.2. Truyện thơ truyền thuyết Phật giáo Truyện thơ truyền thuyết Phật giáo là loại truyện dân gian được kể bằng văn vần có các yếu tố kỳ diệu, huyễn tưởng nhưng lại được cảm nhận là xác thực, diễn ra trong thời gian tôn giáo và thuộc nhóm đề tài Phật giáo. Dựa vào danh mục các tác phẩm truyện thơ Quốc ngữ xuất bản ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy có một số tác phẩm là truyện thơ truyền thuyết Phật giáo, như: Mục Liên Thanh Đề, Quan Âm diễn ca, Thơ Phật Tổ ra đời 3.3. Truyện thơ tuồng tích Trung Quốc Truyện thơ tuồng tích Trung Quốc là loại truyện được kể bằng văn vần có cốt truyện bắt nguồn từ những tích truyện cổ Trung Quốc được lưu truyền trong dân gian hoặc những vở tuồng được lấy ra từ tiểu thuyết Trung Quốc. Qua khảo sát trong danh mục truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ, truyện thơ tuồng tích Trung Quốc là nhóm tác phẩm chiếm số lượng lớn thứ 2 sau loại truyện thơ cổ tích, như: Bá Ấp Khảo loạn cung, Bá Nha Tử Kỳ, Bạch Viên Tôn Các, Chiêu Quân cống Hồ, Đỗ Thập Nương, Đơn Hùng Tín, Hạng Võ biệt Ngu Cơ, Nhị thập tứ hiếu, Ông phò nhị tẩu, Phàn Lê Huê phá Hồng Thuỷ trận, Phụng Kiều Lý Đáng, Phụng Nghi Đình, Quan Công phục Huê Dung, Tam Tạng thỉnh kinh đông độ, Tề Thiên Đại Thánh loạn thiên đình, Tiết Cương khởi nghĩa, Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê, Tiết Giao đoạt ngọc, Tống Tử Vưu, Tống Tử Vưu truyện, Trần Đại Lang, Triệu Tử Long - Đương Dương Trường Bản, Trụ Vương mê Đắc Kỷ, Tứ đại kỳ thơ, Võ Tòng sát tẩu, Xử án Quách Hoè Trên trang bìa của các quyển thơ Đương Dương Trường Bản, Triệu Tử Long đoạt ấu chúa, Quan Công phục Huê Dung, Quan Công phò nhị tẩu... đều ghi “đặt theo tích truyện Tam quốc” và đặt tên trùng khít với các vở tuồng Đương Dương Trường Bản, Quan Công phục Huê Dung trong quyển Tuồng Tam Quốc (1930), chủ bút Đặng Lễ Nghi, chủ bổn Phạm Văn Thình, nhà in Xưa Nay, in lần thứ tư, 42 trang. Khi đặt thơ, tác giả không đơn thuần lấy trọn vẹn một chương, một hồi trong tiểu thuyết Tam Quốc để sáng tạo nên tác phẩm mà là dựa theo tích truyện được nhiều người biết đến, giống với cách mở đầu và kết thúc của các vở tuồng. Tất cả những điều này gợi cho chúng tôi, phải chăng các tác giả truyện thơ đã sáng tạo trên nội dung của những vở tuồng nhiều hơn là từ những trang viết của tiểu thuyết? TRUY N THƠ QUỐC NGỮ NAM KỲ U TH NHỮNG VẤN Ề VỀ XUẤT BẢN, BIÊN SOẠN VÀ PHÂN LOẠI 128 Trong danh mục truyện thơ tuồng, tích Trung Quốc có một số tác phẩm nếu chỉ dựa vào nội dung thì không thể xác định được nguồn gốc vì nội dung cốt truyện của chúng rất giống với loại truyện thơ cổ tích. Trường hợp Trần Đại Lang, hiện tại chúng tôi có 6 bản trong đó có 2 bản do Nguyễn Kim Đính dịch có ghi rõ trên trang bìa “dịch truyện Tàu”. Tống Tử Vưu cũng là một trường hợp tương tự, vì vậy, chúng tôi căn cứ vào nguồn văn liệu có trên trang bìa của văn bản. Hiện nay, chúng tôi có 6 bản Tống Tử Vưu, trong đó bản Nguyễn Kim Đính (1929), nhà in Đông Pháp in lần thứ 1, tại Gia Định gồm 16 trang có ghi rõ trên trang bìa cụm từ “Dịch truyện Tàu”. Dù không tìm được nội dung cốt truyện của Trần Đại Lang và Tống Tử Vưu được lấy từ tích truyện nào nhưng cũng đủ để khẳng định hai tác phẩm trên là những truyện thơ Quốc ngữ có nguồn gốc từ tích truyện của Trung Quốc. Ngoài ra, cũng có trường hợp người soạn truyện thơ nêu nguồn gốc của truyện bắt nguồn từ tác phẩm của Trung Quốc, nhưng thực tế kiểm nghiệm lại không đưa ra kết uả tương đồng. Mở đầu truyện thơ Nữ trung báo oán có câu: “Trải xem Kim cổ kỳ quan” khiến người đọc hiểu là tác giả biên soạn truyện này dựa theo Kim cổ ỳ quan nhưng thực tế trong Kim cổ kỳ quan lại không có truyện nào như thế. Trường hợp này, có thể hiểu là người viết chỉ mượn tên tác phẩm Kim cổ kỳ quan cốt để dẫn truyện. Vì vậy, chúng tôi dựa vào nội dung cốt truyện và tạm xếp Nữ trung báo oán vào nhóm truyện thơ cổ tích thế sự, chờ khảo sát thêm. 3.4. Truyện thơ thời sự Bên cạnh truyện thơ cổ tích, truyện thơ truyền thuyết Phật giáo, truyện thơ tuồng tích Trung Quốc, ở Nam Kỳ còn xuất hiện các loại truyện thơ có cốt truyện bắt nguồn từ hiện thực lịch sử- xã hội ở Việt Nam được gọi là truyện thơ thời sự như: Cậu Hai Miêng [Miên], Sáu Trọng thơ, Thầy Thông Chánh, Thơ đi Tây, Thơ Sáu Nhỏ, Vân Tiên cờ bạc Người làm thơ ghi lại những sự kiện xảy ra theo như họ trông thấy hoặc nghe kể. Chuyện xảy ra nghe được thế nào người ta ghi lại thế ấy, chỉ thêm vào đôi chút ý kiến chủ quan hoặc một số chi tiết cho truyện thêm hấp dẫn chứ không hề tự ý dựng lên cốt truyện. Trong danh mục truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ có một trường hợp đặc biệt là thơ Vân Tiên cờ bạc. Đây là tác phẩm nhại truyện thơ Lục Vân Tiên nhằm phê phán tệ nạn cờ bạc trong xã hội lúc bấy giờ một cách hài hước. Vì vậy, chúng tôi xếp Vân Tiên cờ bạc vào nhóm truyện thơ thời sự. Tóm lại, truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ là loại truyện được người dân Nam Kỳ lục tỉnh yêu chuộng vào những thập niên đầu thế kỷ XX. Truyện được xuất bản, tái bản với số lượng lớn và bày bán phổ biến khắp các hiệu sách với giá bình dân. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian và nhu cầu thưởng thức của người dân thay đổi nên về sau ít ai còn lưu giữ loại truyện thơ này. Vì vậy, việc tìm kiếm tư liệu gặp rất nhiều khó khăn. Dựa vào phương thức biên soạn, các thông tin trên trang bìa, người viết chia truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ thành bốn nhóm chính: "Soạn y bổn Nôm", "Bổn cũ soạn lại", "Thơ mới" và "Thơ hậu". Trong đó, nhóm tác phẩm “Soạn y bổn Nôm” về bản chất là phiên âm Nôm ra chữ Quốc ngữ, tác giả người phiên âm không chủ ý thêm bớt, hay chỉnh sửa nội dung tác phẩm. Nhóm thứ 2 “bổn cũ soạn lại” là nhóm chiếm số lượng đa số trong danh mục truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Đây là nhóm tác phẩm được độc giả ưu chuộng DƯƠNG MỸ THẮM 129 nên được tái bản nhiều lần. Chúng tôi đặc biệt quan tâm và hứng thú với nhóm tác phẩm “Thơ mới” và “Thơ hậu”. Hai nhóm tác phẩm này góp phần tạo nên sự phong phú và đa dạng về nội dung, hình thức và phương thức biên soạn truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Bên cạnh đó, người viết còn kết hợp cách phân loại truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ theo nguồn gốc thể tài với cách phân loại theo phương thức biên soạn. Sự kết hợp này giúp người đọc có cái nhìn toàn diện về nguồn gốc truyện thơ Quốc ngữ Nam Kỳ. Chú thích: 1. Nông cổ mín đàm, số 199 năm thứ 4, ngày 13/7/1905. 2. Bằng Giang (1992), Văn học Quốc ngữ ở Nam ỳ 1865 – 1930. Nxb Trẻ, TP.HCM, trang 43. 3. Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Khắc Thuần (2004), Từ điển truyện Lục Vân Tiên, Nxb Thanh Niên, trang 27. 4. Ca Văn Thinh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Thạch Giang (1980), Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, trang 93-176. 5. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, TP.HCM, trang 198. 6. (8), (9) Huình Tịnh Paulus Của (1895), Đại Nam quốc âm tự vị, tập 1, Imp. Rey, Curiol & C ie , Sài Gòn, trang 241, 234, 143. 10. Huình Tịnh Paulus Của (1896), Đại Nam quốc âm tự vị, tập 2, Imp. Rey, Curiol & C ie , Sài Gòn, trang 313, 403. Ngày nhận bài: 07/9/2017 Biên tập xong: 15/10/2017 Duyệt đăng: 20 10 2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf13_0021_2215065.pdf