Tài liệu Trưng cầu ý dân – một trong những hình thức quan trọng nhất của dân chủ trực tiếp: TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
77
TRƯNG CẦU Ý DÂN – MỘT TRONG NHỮNG HÌNH THỨC
QUAN TRỌNG NHẤT CỦA DÂN CHỦ TRỰC TIẾP
Referendum – One of the most important forms of direct democracy
ThS. Trần Hoàng Hạnh
Học viện Cán bộ TP.HCM
Tóm tắt
Hiện nay có nhiều cách để thực thi dân chủ, nhưng tựu trung lại dưới hai hình thức là dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện; trong đó dân chủ trực tiếp ngày càng chứng minh tầm quan trọng và giá trị thực sự
trong việc tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội. Một trong những cách
phổ biến đang là xu thế mới và được lựa chọn bởi nhiều quốc gia nhằm thực thi dân chủ trực tiếp là
trưng cầu ý dân. Bài viết này tập trung làm rõ tầm quan trọng của dân chủ trong xã hội qua đó khẳng
định trưng cầu ý dân là một trong những ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 697 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trưng cầu ý dân – một trong những hình thức quan trọng nhất của dân chủ trực tiếp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 64 (4/2019) No. 64 (4/2019)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: https://tapchikhoahoc.sgu.edu.vn
77
TRƯNG CẦU Ý DÂN – MỘT TRONG NHỮNG HÌNH THỨC
QUAN TRỌNG NHẤT CỦA DÂN CHỦ TRỰC TIẾP
Referendum – One of the most important forms of direct democracy
ThS. Trần Hoàng Hạnh
Học viện Cán bộ TP.HCM
Tóm tắt
Hiện nay có nhiều cách để thực thi dân chủ, nhưng tựu trung lại dưới hai hình thức là dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện; trong đó dân chủ trực tiếp ngày càng chứng minh tầm quan trọng và giá trị thực sự
trong việc tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội. Một trong những cách
phổ biến đang là xu thế mới và được lựa chọn bởi nhiều quốc gia nhằm thực thi dân chủ trực tiếp là
trưng cầu ý dân. Bài viết này tập trung làm rõ tầm quan trọng của dân chủ trong xã hội qua đó khẳng
định trưng cầu ý dân là một trong những hình thức tiến bộ, góp phần phát huy dân chủ trực tiếp trong
thực tiễn xã hội.
Từ khóa: dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp, dân tộc, quốc gia, quyền con người, quyền công dân,
trưng cầu ý dân
Abstract
Nowadays, there are many ways to implement democracy, but basically two forms are dominant: direct
democracy and representative democracy. Direct democracy increasingly proves the importance and
real value in enabling people to participate in state and social management. One of the most popular
forms showing a new trends and being chosen by many countries to implement a democratic direct
approach is referendum. This article focuses on clarifying the importance of democracy in society,
thereby confirming the referendum as the most progressive form of direct democracy and contributing
to promoting direct democracy in social practice.
Keywords: representative democracy, direct democracy, ethnicity, nation, human rights, civil rights,
referendum
1. Dân chủ là gì
Dân chủ là đối tượng nghiên cứu, tiếp
cận của rất nhiều ngành khoa học khác
nhau như chính trị học, xã hội học, luật
học, khoa học quản lý, triết học v.v. do vậy
trên thế giới hiện nay có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về dân chủ được bàn đến
thông qua cách tiếp cận, góc độ nhìn nhận
và phân tích. Định nghĩa ban đầu về dân
chủ xuất phát từ thuật ngữ Hy Lạp cổ là
“demokratia” có nghĩa là “quyền lực thuộc
về nhân dân, nhân dân có quyền quyết định
mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống, bản
thân và xã hội” (Nguyễn Minh Tuấn, 2014,
tr.35). Hiện nay dân chủ được hiểu theo
nghĩa chung nhất phổ biến là "chính quyền
Email: hoanghanhtcb@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
78
của nhân dân, đặc biệt là sự thống trị của
số đông" hoặc "một chính phủ trong đó
quyền lực tối cao được trao cho người dân
và thực hiện bởi họ trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua một hệ thống đại diện thường
liên quan đến việc tổ chức định kỳ các cuộc
bầu cử tự do" (Merriam, W.D, 2019).
Theo nhà khoa học chính trị Larry
Diamond, biểu hiện của một chế độ dân
chủ phải bao gồm bốn yếu tố chính:
Thứ nhất tồn tại một hệ thống chính trị
cho việc lựa chọn và thay thế các chính
phủ thông qua bầu cử tự do và công bằng.
Thứ hai có sự tham gia tích cực của
công dân trong chính trị và đời sống dân
sự.
Thứ ba có cơ chế bảo vệ quyền con
người của mọi công dân.
Thứ tư có sự tồn tại của pháp quyền,
trong đó tất cả mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, không ai đứng trên luật
pháp (Wikipedia, 2018).
Trong chế độ dân chủ, mỗi người đều
có một lá phiếu và các lá phiếu có giá trị
ngang nhau. Chính vì vậy quyền con người
trong xã hội dân chủ phải được đảm bảo
quy định và thực thi đầy đủ nhất là trong
Hiến pháp và các đạo luật (Voskresenskaia
& Davletshina, 2008, tr.20). Trong Hiến
pháp Mỹ, mười tu chính án đầu tiên đã đặt
ra quy định đảm bảo cho công dân các
quyền như tự do ngôn luận, tự do hội họp,
tự do tín ngưỡng... tạo nền móng cho việc
thực thi lâu dài và đầy đủ quyền con người
tại quốc gia này (Nguyễn Cảnh Bình, 2018,
tr.603).
Nhà nước hay còn gọi là Hội đồng tối
thượng do nhân dân thành lập nên “được
khai sinh, và chủ quyền tối thượng của nhà
nước nằm trong tay nhân dân, những
người lập nên nhà nước này, chứ không
nằm trong tay chính quyền” (Rousseau,
2013, tr.30), giữa Nhà nước và người dân
tồn tại một cam kết thỏa thuận ghi nhận
đầy đủ quyền và nghĩa vụ các bên, có trách
nhiệm tôn trọng và thực hiện đến cùng
nhằm mục đích chung sống hòa bình được
gọi là khế ước xã hội. Nếu Nhà nước
không tuân thủ các điều khoản đã được ghi
nhận trong khế ước xã hội, người dân có
quyền từ bỏ nhà nước đó và thiết lập nhà
nước khác và ngược lại nếu nhân dân
không đảm bảo các nghĩa vụ theo quy định,
Nhà nước có quyền áp dụng sức mạnh
cưỡng chế. Hình thức đảm bảo cho việc
kiểm soát quyền lực cũng như việc tuân thủ
nghiêm túc các nội dung trong khế ước xã
hội của người dân đối với nhà nước đó là
“tập trung hội họp, nêu ý kiến của toàn dân
và phổ thông đầu phiếu” (Rousseau, 2013,
tr.32). Theo Rousseau bất cứ điều luật nào
“dân chúng không trực tiếp phê chuẩn thì
không có hiệu lực, và trên thực tế không
phải là một điều luật...” (Rousseau, 2013,
tr.60).
Biểu hiện của dân chủ trong một xã
hội cụ thể đó phải là chính quyền phải
hướng đến sự đồng thuận chung dựa trên
nguyên tắc đáp ứng quyền lợi của số đông:
trong đó thiểu số phục tùng đa số và ngược
lại đa số phải quan tâm đến nhu cầu thiểu
số. Chính quyền hoạt động trên cơ sở tôn
trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp
pháp của công dân. Ngược lại công dân
trong một xã hội dân chủ không chỉ cố
gắng thỏa mãn các quyền và lợi ích của
mình mà còn chịu trách nhiệm với cuộc
sống của mình và ở một mức độ nào đó
chịu trách nhiệm với đời sống của những
người khác nữa. Dựa vào nhân dân mà cai
trị có nghĩa là công dân của xã hội dân chủ
không chỉ sử dụng các phúc lợi của xã hội
TRẦN HOÀNG HẠNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
79
mà còn chịu trách nhiệm với xã hội mà anh
ta đang sống, nghĩa là công dân phải biết
chia sẻ các khó khăn của xã hội bằng nhiều
hình thức khác nhau, trong một số trường
hợp thông qua ủy quyền cho chủ thể đại
diện thực thi quyền lực trong quản lý xã
hội. Đối với những vấn đề có tính chất
quan trọng của quốc gia, dân tộc người dân
có quyền trực tiếp tham gia vào việc đưa ra
quyết định cuối cùng khi được Nhà nước
hỏi ý kiến.
Từ góc độ phân tích các yếu tố cấu
thành của dân chủ chúng ta có thể nhận
thấy bản chất thực sự và cốt lõi của dân
chủ là “...công nhận phẩm giá vốn có của
mọi thành viên gia đình nhân loại, công
nhận các quyền bình đẳng và bất khả phân
của họ là cơ sở của tự do, công bằng và
hòa bình trên toàn thế giới...” (Alfredsson,
& Eide, n.d).
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều ghi nhận và triển khai mục
tiêu phát huy dân chủ vào hoạt động quản
lý, một số quốc gia áp dụng hình thức
dân chủ trực tiếp, số khác lại lựa chọn
dân chủ đại diện, đặc biệt hơn có nơi thực
thi mô hình dân chủ bán trực tiếp (hình
thức kết hợp giao thoa của hai loại hình
dân chủ kể trên).
Dân chủ trực tiếp
Hay còn gọi là dân chủ thuần túy là
một hình thức nhà nước dân chủ trong đó
các công dân của một quốc gia trực tiếp bỏ
phiếu thông qua luật pháp của quốc gia đó
thay vì bầu ra các đại diện để chấp thuận
các luật đó. Dân chủ trực tiếp hiện đại đặc
trưng bởi ba trụ cột chính một là quyền đề
xướng luật lệ, hai là trưng cầu ý dân bao
gồm cả trưng cầu ý dân bắt buộc cho phép
nhân dân bỏ phiếu phủ quyết sự ban hành
pháp luật, ba là bãi nhiệm bằng cách gửi
kiến nghị hoặc trưng cầu ý dân cho phép
nhân dân có quyền bãi nhiệm những người
đã được bầu ra
Ở nền dân chủ trực tiếp, các đảng
chính trị không thực sự có hiệu lực, bởi vì
người dân không cần phải tuân thủ các
quan điểm chung. Những người ủng hộ
hình thức dân chủ trực tiếp cho rằng nó có
thể khắc phục được những hạn chế của dân
chủ đại diện hay dân chủ đại nghị: đó là sự
tham nhũng, sự thiếu minh bạch trong
chính trị, sự bảo trợ và gia đình trị.
Dân chủ đại diện
Cũng được gọi là dân chủ gián tiếp,
hay dân chủ đại nghị là một hình thức nhà
nước dân chủ được các "đại diện" của
người dân vận hành trên nguyên tắc thi
hành chủ quyền nhân dân (Popular
sovereignty). "Đại diện" ở đây có thể hiểu
là những đại biểu được bầu lên và đại diện
cho ý chí của một nhóm người nào đó.
Gần như tất cả các nền dân chủ phương
Tây hiện đại là mang hình thức dân chủ
đại diện.
Dân chủ bán trực tiếp
Những nền dân chủ kết hợp những yếu
tố của cả hai hình thức dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp, được gọi là nền dân chủ
hỗn hợp hoặc nền dân chủ bán trực tiếp.
Quốc gia đang áp dụng dân chủ bán trực
tiếp hiện nay bao gồm Thụy Sĩ và một số
tiểu bang của Hoa Kỳ.
Các hình thức dân chủ nêu trên đều có
điểm mạnh cũng như hạn chế nhất định,
không có hình thức nào mang lại hiệu quả
ưu việt vượt trội. Tuy nhiên, đối với những
quốc gia thuần túy lựa chọn hình thức dân
chủ đại diện, người ta nhận thấy mô hình
này đang bộc lộ nhiều nhược điểm, bất lợi
do vậy cần có các quy định cụ thể điều
chỉnh. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước cần ban
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
80
hành kịp thời các chính sách, chế định hoặc
thiết chế hiệu quả để khắc phục và hạn chế
đến mức thấp nhất các hệ quả hoặc sai
phạm có thể xảy ra.
Nhận định về hạn chế lớn nhất của
hình thức dân chủ đại diện, chính trị gia
nổi tiếng Jean Jacques Rousseau đã cho
rằng: “Hệ thống dân chủ đại diện không
thể thực sự có dân chủ lý do là bởi vì nhân
dân chỉ tự do một lần trong vài năm vào
các cuộc bầu cử, khi họ lựa chọn những
người đại diện sẽ cai trị; sau đó họ sẽ trở
lại vị trí phải phục tùng người cai trị
chẳng khác gì các nô lệ” (Nguyễn Cảnh
Bình, 2018, tr. 21).
Một số chính trị gia và luật gia khác đã
nhận định: dân chủ đại diện chỉ phát huy
tác dụng thực sự khi có được ba điều kiện
một là sự đảm bảo cho việc kiểm soát của
công chúng đối với chính quyền; hai là các
cuộc bầu cử được công nhận là tự do và
công bằng; ba là chính phủ công khai và
nghị viện có đủ thẩm quyền để giám sát và
kiểm soát các hành vi của chính phủ.
2. Các hình thức thực thi dân chủ
trực tiếp
Các quốc gia trên thế giới hiện đang áp
dụng 4 cách thức (hay công cụ) dân chủ
trực tiếp, bao gồm: trưng cầu ý dân
(referendums); sáng kiến của công dân
(Citizens’ initiatives); sáng kiến chương
trình nghị sự (Agenda initiatives); và bãi
miễn (Recall) (Idea, 2014, tr.10). Mặc dù
tên gọi và thủ tục thực hiện ít nhiều khác
nhau ở các quốc gia, song có thể khái quát
những dấu hiệu phổ biến của mỗi cách thức
như sau:
Trưng cầu ý dân là việc các cử tri bỏ
phiếu trực tiếp quyết định các vấn đề chính
trị, xã hội, pháp lý quan trọng của đất nước
hay địa phương, hoặc việc xây dựng, thông
qua hiến pháp mới hay hiến pháp sửa đổi.
Các vấn đề được đem ra trưng cầu ý dân có
thể được quy định cụ thể trong hiến pháp,
do cơ quan lập pháp hay một số lượng luật
định thành viên của cơ quan lập pháp hoặc
cử tri yêu cầu. Tùy theo quy định trong
hiến pháp hoặc luật của các quốc gia, kết
quả trưng cầu ý dân có thể có hiệu lực ràng
buộc hoặc chỉ có ý nghĩa tham vấn đối với
cơ quan lập pháp.
Sáng kiến của công dân là việc công
dân đề xuất và bỏ phiếu quyết định về một
vấn đề chung của đất nước hay của cộng
đồng. Điều kiện để thực hiện cuộc bỏ phiếu
là những người đề xuất phải thu thập đủ
một số lượng chữ ký ủng hộ theo luật định.
Các sáng kiến của công dân có thể là
những đề xuất mới hay đề xuất sửa đổi một
văn bản pháp luật hiện hành, hoặc các vấn
đề quan trọng khác được quy định trong
hiến pháp. Tương tự như trưng cầu ý dân,
kết quả của một cuộc bỏ phiếu do sáng
kiến của công dân có thể có hiệu lực ràng
buộc về mặt pháp lý hoặc chỉ có tính chất
tham vấn đối với cơ quan lập pháp, tùy vào
quy định trong pháp luật của các quốc gia.
Sáng kiến chương trình nghị sự là việc
người dân đề xuất một vấn đề cụ thể vào
chương trình nghị sự của cơ quan lập pháp
(quốc gia hay địa phương). Giống như sáng
kiến của công dân, sáng kiến chương trình
nghị sự cũng cần một lượng tối thiểu chữ
ký ủng hộ theo luật định. Tuy nhiên, sáng
kiến chương trình nghị sự không cần tổ
chức bỏ phiếu phổ thông một khi đã được
đưa vào chương trình nghị sự của cơ quan
lập pháp.
Bãi miễn (đôi khi còn gọi là thu hồi) là
việc cử tri bỏ phiếu quyết định về việc bãi
miễn (chấm dứt vai trò) một đại biểu dân
cử. Giống như hai dạng thức sáng kiến
TRẦN HOÀNG HẠNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
81
công dân và sáng kiến chương trình nghị
sự, để tổ chức bỏ phiếu bãi miễn một đại
biểu dân cử, người đề xuất phải thu thập
đủ số lượng tối thiểu chữ ký ủng hộ theo
luật định. Tuy nhiên, điểm khác ở đây là
kết quả bỏ phiếu bãi miễn luôn luôn có
hiệu lực ràng buộc pháp lý với các chủ thể
liên quan.
Các hình thức dân chủ trực tiếp nêu
trên mang lại nhiều giá trị tích cực cho các
quốc gia trong quá trình điều hành, quản
lý. Thứ nhất theo các chuyên gia ủng hộ
hình thức dân chủ trực tiếp, trong bối cảnh
ngày càng gia tăng tình trạng thờ ơ và lãnh
đạm, sự suy giảm số lượng cử tri đi bỏ
phiếu, việc áp dụng các cách thức nêu trên
sẽ góp phần động viên, khuyến khích
người dân quan tâm và tham gia nhiều hơn
đến đời sống chính trị, xã hội, tiến trình
thực thi dân chủ của mỗi quốc gia. Thứ hai,
các công cụ này cung cấp cho phần lớn cử
tri một cơ chế thực thi “quyền lực” nhất
định và trực tiếp mà nhờ đó người dân thể
hiện quan điểm, ý chí, nguyện vọng thậm
chí đưa ra quyết định cuối cùng của chính
mình và trong một số trường hợp có thể
thay thế các đại diện do họ bầu ra nếu các
chủ thể này không đạt được kết quả công
việc như mong muốn. Thứ ba dân chủ trực
tiếp tạo “cơ hội” cho người dân tham gia
hoạch định các chủ trương, chính sách của
quốc gia hay của địa phương có liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích của họ.
3. Vai trò của trưng cầu ý dân
Trưng cầu ý dân hay bỏ phiếu toàn
dân là một cuộc bỏ phiếu trực tiếp, trong
đó toàn bộ các cử tri được yêu cầu chấp
nhận hay phủ quyết một đề xuất đặc biệt.
Đó có thể là sự thông qua một Hiến
pháp mới, một sự sửa đổi Hiến pháp, một
bộ luật, một sự bãi miễn một quan chức đã
được bầu hay đơn giản chỉ là thông qua
hay bác bỏ một chính sách riêng của chính
phủ (Nguyễn Đăng Dung, Lã Khánh Tùng
& Vũ Công Giao, 2009, tr. 453).
Hầu hết Luật trưng cầu ý dân của các
quốc gia trên thế giới đều quy định bắt
buộc tổ chức trưng cầu trong trường hợp
sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành Hiến pháp
mới hay phê chuẩn các Bộ luật, đạo luật
dựa trên nội dung các quy định nền tảng từ
Hiến pháp. Bên cạnh đó một số nội dung
quan trọng khác như phê chuẩn hiệp định,
điều ước quốc tế; phê chuẩn tham gia tổ
chức quốc tế có phạm vi khu vực hay toàn
cầu hoặc các vấn đề liên quan đến chủ
quyền, lãnh thổ của quốc gia cũng thuộc
phạm vi tổ chức trưng cầu.
Lý do chủ yếu của việc quy định bắt
buộc Hiến pháp hay các đạo luật quan
trọng phải thông qua thủ tục trưng cầu ý
dân vì Hiến pháp được xem như một bản
khế ước xã hội ghi nhận thỏa thuận giữa
hai chủ thể đặc biệt là Nhà nước và nhân
dân trong việc phân chia và sử dụng quyền
lực trong điều hành, quản lý. Quyền lực
ban đầu thuộc về toàn thể nhân dân của
cộng đồng, bao gồm tất cả các quy định về
các quyền và nghĩa vụ cơ bản, về quốc gia
và các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời
sống và sự phát triển, tồn tại, lợi ích hợp
pháp của người dân, không phải thuộc về
các thành viên quốc hội hay một chính
quyền đương nhiệm, và vì vậy các nội
dung liên quan đến quyền lực đó cần được
sự phê chuẩn trực tiếp bởi toàn dân
(Beetham & Boyle, 2009, tr.83).
Bên cạnh đó, những dự án nhằm sửa
đổi Hiến pháp hoặc các dự luật phải thông
qua một cuộc trưng cầu ý dân, thông
thường đòi hỏi đa số cử tri tham gia phải
đạt đến một tỷ lệ nhất định thì kết quả
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
82
trưng cầu mới được công nhận (thông
thường theo quy định của luật trưng cầu ý
dân của hầu hết các quốc gia phải đạt quá
bán tính trên tổng số cử tri). Người dân khi
tham gia tiến trình bỏ phiếu có thể tự do
lựa chọn và đưa ra quyết định cuối cùng là
phê chuẩn hay phủ quyết các dự luật này.
Kết quả trưng cầu khi công bố được xác
nhận là hợp pháp sẽ có giá trị bắt buộc thực
hiện. Từ kết quả này có thể mở rộng cho
phép người dân nêu sáng kiến lập pháp
hoặc tư vấn cho nghị viện nếu đa số lựa
chọn phương án phủ quyết hoặc không
đồng tình với dự luật đang tồn tại. Cũng
cần lưu ý thêm là các sáng kiến như vậy
không được vi phạm các quyền hiến định
hoặc làm tổn hại đến quyền của các nhóm
thiểu số hoặc các nhóm dễ bị tổn thương
khác trong xã hội như phụ nữ, trẻ em,
người cao tuổi, người khuyết tật v.v
Trưng cầu ý dân còn được xem là
phương tiện giúp giảm khoảng cách giữa
cơ quan lập pháp và các cử tri của mình;
các cử tri sẽ đóng vai trò quyết định để đưa
ra phán quyết thông qua hay không thông
qua đối với Hiến pháp hay các đạo luật
quan trọng do cơ quan lập pháp soạn thảo
và ngược lại từ việc bỏ phiếu của cư tri đối
với các sản phẩm do mình tạo ra sẽ giúp cơ
quan lập pháp nắm bắt được người dân có
nhu cầu gì và mong muốn gì để điều chỉnh
nội dung cho phù hợp.
Xuất phát từ nội hàm ý nghĩa và bản
chất của trưng cầu ý dân, các nhà lập pháp
đã tiến hành thể chế hóa, pháp điển hóa
nâng tầm cách thức này trở thành một chế
định pháp luật, với đầy đủ quy định về điều
kiện, quy trình, thời gian, cách thức tiến
hành, phạm vi tiến hành, chủ thể chịu trách
nhiệm, kiểm tra, giám sát, công nhận kết
quả cũng như đưa ra xem xét, xử lý nếu có
vi phạm hoặc mâu thuẫn về kết quả. Thành
công lớn nhất của quá trình này là việc đưa
trưng cầu ý dân trở thành một trong những
quyền cơ bản của quyền con người, nằm
trong nhóm các quyền dân sự - chính trị và
được chính thức công nhận trong Tuyên
ngôn quốc tế về quyền con người và Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966. Các quyền dân sự và chính
trị là những quyền điển hình mà mỗi cá
nhân được thụ hưởng và đòi hỏi nhà nước
kiềm chế khỏi các hành vi hoặc sự can
thiệp đối với các cá nhân và nhóm.
Hội nghị thượng đỉnh thế giới 2005 đã
nêu lên mối quan hệ giữa quyền con người
và dân chủ là “phụ thuộc và củng cố lẫn
nhau”. Việc ghi nhận, đảm bảo thực thi đầy
đủ và nghiêm túc các nội dung cơ bản của
quyền con người và quyền hiến định là
điều kiện cần thiết để mở rộng và phát huy
dân chủ trong đời sống xã hội ổn định và
bền vững. Một quốc gia muốn phát triển
bền vững chỉ có thể đạt được khi người dân
được Nhà nước tạo điều kiện tham gia vào
việc hình thành các chính sách phát triển,
các chương trình phát triển; chính quyền
chịu trách nhiệm giải trình trước người dân
và mọi quyết sách được xây dựng và hình
thành dựa trên khuôn khổ tôn trọng mọi
quyền con người.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị 1966 của Liên Hiệp Quốc cũng
yêu cầu các quốc gia bảo đảm cho mọi
công dân quyền và cơ hội để “tham gia vào
việc thực thi công việc xã hội, trực tiếp
hoặc gián tiếp thông qua các đại diện...
(Ban chỉ đạo nhân quyền của chính phủ,
2011, tr.13). Việc bảo đảm các quyền dân
sự và chính trị cho cá nhân công dân có vai
trò kép trong một nền dân chủ. Thứ nhất
các quyền này là điều kiện thiết yếu để bảo
TRẦN HOÀNG HẠNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
83
đảm hai nguyên tắc cơ bản của dân chủ là
thực thi cơ chế kiểm soát của nhân dân và
bình đẳng về chính trị trong việc đưa ra các
quyết định tập thể. Thứ hai, các quyền đó
có vai trò hạn chế hành động tập thể vào
việc can thiệp vào tự do và lựa chọn của cá
nhân, điều nằm ngoài phạm vi của quyết
định bởi số đông.
Chủ quyền nhân dân (quyền lực nhân
dân) là bản chất và là đặc trưng của mọi
nhà nước dân chủ, xã hội dân chủ. Tuy
nhiên, để thực hiện nguyên tắc về chủ
quyền nhân dân không hề đơn giản trong
các nhà nước và xã hội. Thực chất, đó là
vấn đề xử lý mối quan hệ giữa nhà nước
với nhân dân trong xã hội được tổ chức
thành nhà nước. Do đó, các hình thức thực
hiện quyền lực cũng như vai trò của từng
hình thức ấy là những vấn đề cơ bản của
mọi nhà nuớc và xã hội. Như đã khái quát
rằng có hai hình thức cơ bản để thực hiện
quyền lực nhân dân là dân chủ đại diện
(representative democracy) và dân chủ trực
tiếp (direct democracy). Việc thực hiện các
hình thức này như thế nào, phạm vi, cách
thức tiến hành của từng hình thức ra sao,
điều đó phụ thưộc vào nhiều yếu tố, trước
hết phụ thuộc vào kiểu nhà nước, vào trình
độ dân trí, trình độ chính trị, pháp lý, vào
truyền thống, đặc điểm dân tộc, vào xu thế
phát triển của thời đại v.v.
Trong Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người của Liên Hiệp Quốc năm 1948
tại khoản 3, Điều 21 có quy định “Ý chí
của nhân dân là cơ sở của quyền lực chính
phủ” (Alfredsson, G., & Eide, A., 2010,
tr.24). Nhân dân lập ra và trao quyền cho
các cơ quan nhà nước thay mặt nhân dân
thực hiện quyền lực để quản lý xã hội; một
mặt, các cơ quan này phải chịu sự giám sát
của nhân dân và mặt khác, chúng chỉ được
thực hiện quyền lực trong giới hạn cho
phép. Trong nhiều trường hợp, nhà nước
không được quyết định (đúng hơn là không
có thẩm quyền quyết định hoặc không cần
thiết phải quyết định) mà để nhân dân trực
tiếp quyết định và một trong các cách thức
thực hiện mục tiêu đó là thông qua trưng
cầu ý dân. Trưng cầu ý dân là một công cụ
quan trọng trong việc thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân, là một biểu hiện trình độ
phát triển cao của nền dân chủ.
Dân chủ càng phát triển càng tạo điều
kiện để mở rộng và phát huy trưng cầu ý
dân. Ngược lại, quốc gia nào, cộng đồng
nào càng quan tâm và chú trọng dân chủ
trực tiếp cụ thể như triển khai thực thi
trưng cầu ý dân, thì nơi đó nền dân chủ đã
phát triển ở trình độ cao và ở đó, bản chất
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
được thể hiện càng đầy đủ. Nói cách khác
dân chủ là tiền đề để thực hiện và mở rộng
trưng cầu ý dân; và ngược lại, trưng cầu ý
dân là công cụ, phương tiện quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của dân chủ vả về
phạm vi và mức độ.
Hiện nay, theo quy chế thực hiện dân
chủ ở cơ sở, người dân có quyền tham gia
đóng góp ý kiến vào các hoạt động của cơ
quan nhà nước, thực hiện quyền kiểm tra,
giám sát đối với lực lượng cán bộ, công
chức, các hoạt động của cơ quan nhà nước
nhưng nhìn chung những yêu cầu, đề xuất
này chỉ được ghi nhận, mang tính chất
tham khảo chứ không có ý nghĩa quyết
định đối với tổ chức và hoạt động của các
cơ quan, đơn vị. Trong khi đó, theo quy
định của Luật trưng cầu ý dân, kết quả
trưng cầu được công bố hợp lệ mang tính
chất bắt buộc, không ai có quyền thay đổi
hay phủ quyết. Do đó khi tham gia bỏ
phiếu trưng cầu, người dân có điều kiện thể
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 64 (4/2019)
84
hiện quyền làm chủ, trực tiếp biểu đạt ý chí
của mình đối với các vấn đề quan trọng của
quốc gia, dân tộc. Trưng cầu ý dân trong
trường hợp này là công cụ giúp người dân
thực hiện quyền làm chủ thực sự trong thực
tiễn xã hội.
Trưng cầu ý dân còn được xem như
cầu nối nhà nước với công dân, giúp nhà
nước thực sự sâu sát với dân, khắc phục
bệnh xa dân, xa rời thực tế, quan liêu, chủ
quan duy ý chí trong quản lý, điều hành.
Trong trưng cầu ý dân, nhà nước đóng vai
trò là chủ thể tổ chức còn người dân là chủ
thể trung tâm thực hiện hoạt động. Thực
hiện trưng cầu ý dân vì vậy làm cho hai
bên trở nên gắn bó hơn, hiểu và thông cảm
nhau hơn, tăng cường hỗ trợ và giúp đỡ lẫn
nhau. Công dân thông qua các hoạt động
này có cơ hội tìm hiểu và tham gia quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước;
nhà nước qua đây cũng nắm bắt được tâm
tư, nguyện vọng, ý chí, mong muốn của
người dân để đưa ra các quyết sách, chủ
trương phù hợp thực tế, điều kiện kinh tế
xã hội, hợp lòng dân. Nhờ đó trưng cầu ý
dân góp phần vào việc nâng cao sự chủ
động, ý thức, trách nhiệm chính trị của
người dân trong việc tham gia vào hoạt
động quản lý nhà nước.
4. Kết luận
Trưng cầu ý dân đã được rất nhiều
quốc gia trên thế giới công nhận, thể chế
hóa trong Hiến pháp và các đạo luật cụ thể
cũng như áp dụng trong thực tiễn quản lý
điều hành đất nước và xã hội. Cách thức
này của dân chủ trực tiếp ngày càng đóng
vai trò quan trọng trong việc thực thi dân
chủ, khuyến khích người dân tham gia vào
hoạt động quản lý nhà nước và ngày càng
nhiều quốc gia áp dụng hình thức này trong
thực tiễn chính trị xã hội. Hầu hết các quốc
gia hiện nay đã lựa chọn trưng cầu ý dân để
người dân có cơ hội tham gia quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, của
dân tộc.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của
năm 2011 đã khẳng định: “Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, gắn quyền con người
với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân” (Phạm
Văn Linh & Nguyễn Tiến Hoàng, 2012,
tr.8). Trên cơ sở định hướng của cương
lĩnh, nhằm tôn trọng và khẳng định quyết
tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc
đảm bảo phát huy dân chủ, thực thi quyền
con người, quyền và nghĩa vụ công dân,
tạo điều kiện cho người dân từng bước
tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
quyết định những vấn đề quan trọng liên
quan đến quốc gia, dân tộc, ngày
25/11/2015 Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII tại kỳ
họp thứ 10 đã thông qua Luật Trưng cầu ý
dân. Đây được xem là một trong những
văn bản pháp lý quan trọng, một dấu mốc,
một bằng chứng khẳng định về việc Chính
phủ và hệ thống cơ quan lập pháp nước ta
đã từng bước ý thức tầm quan trọng của
dân chủ và tôn trọng quyền con người,
quan tâm và phát huy việc xây dựng và
thực thi dân chủ tại Việt Nam.
TRẦN HOÀNG HẠNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Alfredsson, G., & Eide, A. (2010). Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948, Mục tiêu chung
của nhân loại, Viện nghiên cứu Kinh tế xã hội và Môi trường, Hà Nội
Bộ từ điển của Merriam Webster Dictionary. (2019). Springfield, MA: Merriam-Webster.
Truy cập từ website https://www.merriam-webster.com/dictionary/democracy.
Beetham, D., & Boyle, K. (2009), Giới thiệu về dân chủ - 80 câu hỏi & đáp, UNESSCO.
IDEA. (2014). Dân chủ trực tiếp – Sổ tay IDEA Quốc tế, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Rousseau, J.J. (2013). Khế ước xã hội (phiên bản 3), Hà Nội, Nhà xuất bản Thời đại.
Nguyễn Cảnh Bình. (2018). Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào, Nhà xuất bản Thế giới
Nguyễn Đăng Dung, Lã Khánh Tùng & Vũ Công Giao. (2009). Giáo trình Lý luận và
Pháp luật về Quyền con người, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Minh Tuấn. (2014). Các hình thức dân chủ và việc mở rộng dân chủ ở Việt Nam,
Nhà nước Pháp luật, 6(314), 35 – 43
Voskresenskaia, N.M. & Davletshina, N.B. (2008), Chế độ dân chủ Nhà nước và xã hội,
Hà Nội, Nhà xuất bản Tri thức.
Phạm Văn Linh & Nguyễn Tiến Hoàng. (2012). Về những điểm đổi mới của Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
2011), Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. (2018). Dân chủ. Truy cập từ website
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ch%E1%BB%A7.
Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ. (2011). Các công ước
cơ bản về quyền con người, Hà Nội, Nhà xuất bản chính trị - hành chính.
Ngày nhận bài: 25/3/2019 Biên tập xong: 15/4/2019 Duyệt đăng: 20/4/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42_2607_2214947.pdf