Tài liệu Trồng trọt ở vùng người dao nước ta hiện nay những biến đổi và vấn đề đặt ra - Lý Hành Sơn: Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
113Ngày nhận bài: 22/7/2018; Ngày phản biện: 10/8/2018; Ngày duyệt đăng: 20/8/2018(1) Viện Dân tộc học; e-mail: hmongdao@yahoo.com.vn
(2) Viện Dân tộc học; e-mail: jirachi.lee.2712@gmail.com
TRỒNG TRỌT Ở VÙNG NGƯỜI DAO NƯỚC TA HIỆN NAY
NHỮNG BIẾN ĐỔI VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Lý Hành Sơn(1)
Lý Cẩm Tú(2)
Từ những tư liệu điền dã kết hợp tổng quan tài liệu, nội dung bài viết khái quát một số biến đổi liên quan tới tập quán trồng trọt của người Dao ở nước ta hiện nay, qua đó cho thấy những vấn
đề đặt ra cần quan tâm thực hiện. Dưới tác động của cơ chế thị trường, đặc biệt là sự đổi mới thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, hoạt động trồng trọt thời gian qua tại các địa phương
người Dao đã có sự biến đổi nhanh chóng. Đời sống của đồng bào được cải thiện, diện tích ruộng bậc
thang ngày càng mở rộng, cơ cấu cây trồng được đa dạng hóa, an ninh lương thực ổn định, tập quán
bảo vệ rừng được phát huy,... Song, bên...
6 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 404 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trồng trọt ở vùng người dao nước ta hiện nay những biến đổi và vấn đề đặt ra - Lý Hành Sơn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
113Ngày nhận bài: 22/7/2018; Ngày phản biện: 10/8/2018; Ngày duyệt đăng: 20/8/2018(1) Viện Dân tộc học; e-mail: hmongdao@yahoo.com.vn
(2) Viện Dân tộc học; e-mail: jirachi.lee.2712@gmail.com
TRỒNG TRỌT Ở VÙNG NGƯỜI DAO NƯỚC TA HIỆN NAY
NHỮNG BIẾN ĐỔI VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Lý Hành Sơn(1)
Lý Cẩm Tú(2)
Từ những tư liệu điền dã kết hợp tổng quan tài liệu, nội dung bài viết khái quát một số biến đổi liên quan tới tập quán trồng trọt của người Dao ở nước ta hiện nay, qua đó cho thấy những vấn
đề đặt ra cần quan tâm thực hiện. Dưới tác động của cơ chế thị trường, đặc biệt là sự đổi mới thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, hoạt động trồng trọt thời gian qua tại các địa phương
người Dao đã có sự biến đổi nhanh chóng. Đời sống của đồng bào được cải thiện, diện tích ruộng bậc
thang ngày càng mở rộng, cơ cấu cây trồng được đa dạng hóa, an ninh lương thực ổn định, tập quán
bảo vệ rừng được phát huy,... Song, bên cạnh đó là những thách thức về việc nâng cao thu nhập, phát
huy các giống cây trồng truyền thống, canh tác bền vững,... rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, các
doanh nghiệp đóng trên địa bàn, các cơ sở đào tạo và các cơ quan chức năng.
Từ khóa: Trồng trọt; Biến đổi; Người Dao; Trồng trọt ở vùng người Dao; Vấn đề đặt ra; Sinh kế
bền vững.
Mở đầu
Qua số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, dân tộc Dao ở nước ta có 751.067 người,
phân bố cư trú ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc
và trung du Bắc Bộ (636.523 người), Tây Nguyên
(35.176 người) và một số tỉnh miền đông Nam Bộ
(8.796 người). Trong đó, họ tập trung khá đông ở
các tỉnh: Hà Giang (109.708 người), Tuyên Quang
(90.618 người), Lào Cai (88.379 người), Yên Bái
(83.888 người), Quảng Ninh (59.156 người), Bắc
Kạn (51.801 người),...
Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước, nhất là thời gian gần đây,
đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa của người Dao ở
nước ta đã không ngừng nâng cao và biến đổi theo
xu hướng hội nhập dần với các dân tộc trong vùng.
Hiện nay tuy có nhiều công trình nghiên cứu và
bài viết về người Dao ở Việt Nam, song vẫn thiếu
những nghiên cứu chuyên sâu về biến đổi trong các
lĩnh vực sinh kế, thiết chế xã hội, hoạt động văn
hóa,... của đồng bào Dao.
Từ nguồn tư liệu điền dã kết hợp tổng quan một
số tài liệu đã công bố, chúng tôi tập trung đề cập tới
sự biến đổi về trồng trọt, bao gồm: Phát triển cây
lương thực và thực phẩm, phát triển các loại cây lâu
năm của người Dao.
1. Phát triển cây lương thực và thực phẩm
Trồng trọt là thế mạnh của tộc người Dao ở nước
ta; trong đó, nương rẫy là loại hình canh tác lâu đời
nhằm cung cấp lương thực và một phần rau, củ,
quả, kể cả các loại cây bông, chàm để kéo sợi, dệt
vải, làm cao chàm nhuộm,... nhằm tự cấp tự túc cho
gia đình về ăn uống, đồ mặc, đồ đắp. Trước năm
1995 khi chưa thực hiện chính sách giao đất giao
rừng ở nơi vùng sâu vùng xa, do còn rừng nên đồng
bào Dao vẫn làm nương với các công đoạn theo tập
quán, gồm: Chọn đất và khai khẩn mảnh nương mới
cũng như làm đất đối với những đám nương đã qua
canh tác, trồng trỉa, chăm sóc cây trồng, thu hoạch,
bảo quản giống. Thời gian và thời vụ thực hiện mỗi
công đoạn làm nương được dựa vào nông lịch hàng
năm tại địa phương. Đặc biệt, các tri thức gieo trồng
trên nương vẫn chủ yếu theo truyền thống: Xen canh
nhiều loại cây trong mỗi mảnh nương vừa mới khai
khẩn, chẳng hạn trong nương lúa hoặc ngô có trồng
xen thêm các loại dưa, rau cải, rau bao, khoai sọ,
mướp, bí, bầu, vừng, gừng, cà tím, đậu đũa, thậm
chí có cả cây mạch, đu đủ, chuối, thầu dầu tím để
làm thuốc chữa bệnh,...1
Sau khi thực thi chính sách giao đất giao rừng,
tập quán canh tác nương rẫy tuy vẫn duy trì ở các địa
phương người Dao, nhưng đồng bào chủ yếu gieo
trồng ngô, sắn và nhiều cây hoa màu khác như đỗ,
lạc, gừng,... để bán ra thị trường, tức bỏ đi tập quán
gieo lúa nương. Thực tế cho thấy, sau năm 2000 đến
khi có phong trào đi làm ăn xa hoặc ra thành phố
kiếm việc làm tại các công ty liên doanh, người Dao
ở cả hai vùng Tây Bắc và Đông Bắc đều mở rộng
diện tích trồng các giống ngô lai, sắn cao sản. Điền
dã vào cuối năm 2008 tại thôn Khe Búng, xã Quang
Minh (huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái) cho thấy, các
gia đình Dao Quần Trắng ở đây đều dành phần lớn
diện tích đất nương để trồng sắn, rất nhiều nhà trồng
đến 3 ha, trung bình mỗi nhà trồng 1 - 2 ha; khi thu
hoạch, do tư thương đưa xe tải đến tận nơi để thu
mua nên người dân trong thôn tổ chức nhổ sắn theo
tập quán đổi công: Hôm nay cả thôn nhổ cho nhà
1. Lý Hành Sơn, (1995), Nương rẫy truyền thống của người Dao ở Cao Bằng,
Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr.64-73.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
114 Số 23 - Tháng 9 năm 2018
này, ngày mai kéo nhau đến nhổ cho nhà khác,...
Bên cạnh đó, nhiều địa bàn người Dao thuộc hai tỉnh
Cao Bằng, Bắc Kạn còn trồng cây dong riềng và tình
trạng này còn thấy rõ khi nghiên cứu về người Dao
ở xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình2. Nguyên
nhân chuyển đổi sang giống cây trồng mới là do đất
nương đã bạc màu, không còn nhiều rừng để khai
phá thêm nương mới, đặc biệt là chính sách giao đất
giao rừng của Nhà nước đã được thực hiện. Trong
khi, các giống ngô lai, sắn cao sản, cây dong riềng,...
không chỉ dễ trồng, nhanh được thu hoạch và cho
năng suất cao mà còn dễ bán ra thị trường và bán
được hết sau khi thu hoạch.
Đặc biệt là gần đây, người dân đã giảm nhanh
diện tích nương du canh, rồi giữ ổn định, thậm chí
gia tăng diện tích nương cố định bằng cách khai
khẩn tối đa các loại nương ở ven sông suối, đất bằng
ở chân núi hoặc quanh khu cư trú3. Nương cố định
không chỉ canh tác được lâu dài mà còn có thể trồng
luân canh, xen canh, gối vụ nhiều loại cây trồng
nhờ cải tạo đất bằng cách cày bừa và bón phân, gieo
trồng giống mới ngắn ngày, dùng thuốc trừ sâu,...
Đây là sự biến đổi theo xu hướng tổng diện tích đất
nương tuy không tăng nhưng vẫn ổn định cho việc
gieo trồng, tăng vụ cho các loại cây lương thực và
thực phẩm, kể cả những cây có giá trị hàng hóa.
Trong khi, các mảnh nương du canh đã bạc màu
được dùng để phát triển những loại cây lâu năm như
gỗ, quế, cây ăn quả hoặc khoanh nuôi rừng hoặc
trồng rừng.
Một trong những đổi mới mang tính đột phá là
phong trào khai khẩn ruộng bậc thang để canh tác
lúa nước diễn ra rộng khắp các địa phương người
Dao. Làm ruộng bậc thang là tập quán hàng trăm
năm ở người Dao, nhưng từ khi có phong trào “hạ
sơn” sống định cư, nhất là gần đây đồng bào mới có
điều kiện khai phá hết từng tấc đất nơi có thể làm
ruộng, do không còn rừng để phát triển loại nương
du canh. Chẳng hạn tỉnh Hà Giang, sau năm 1960,
đặc biệt là từ khi hợp tác xã giải thể, việc khai khẩn
ruộng đã trở thành phong trào đối với các hộ người
Dao tại các thôn bản. Cụ thể là ở huyện Hoàng Su
Phì, ruộng bậc thang hấp dẫn khách du lịch tới tham
quan chủ yếu ở trong 6 xã là Bản Luốc, Sán Sả Hồ,
Bản Phùng, Hồ Thầu, Nậm Ty, Thông Nguyên thì
người Dao ở đây có đóng góp tại Bản Luốc, Hồ
Thầu, Thông Nguyên. Theo tập quán, đồng bào tận
dụng những nơi đất nương đã bạc màu, địa hình
khá bằng phẳng hoặc dốc thoai thoải nhưng có nước
tưới, bất kể nước mó hay nước khe, suối,... để khai
khẩn thành các mảnh ruộng bậc thang4. Tuy chỉ có
dao, cuốc, xà beng, cày bừa tự chế,... nhưng qua
2. Trần Văn Hà, (Chủ biên, 2007), Phát triển nông thôn miền núi và dân tộc
trong thời kỳ kinh tế chuyển đổi, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.78-79.
3. Lý Hành Sơn, (1995), Nương rãy truyền thống của người Dao ở Cao Bằng,
Tlđd, tr.69.
4. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý, (Chủ biên, 1999), Văn hóa truyền
thống người Dao ở Hà Giang, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, tr.53-55.
nhiều năm người Dao đã tự khai khẩn những khu
ruộng với diện tích hàng nghìn mét vuông5. Trong
khi, họ vẫn chú ý bảo vệ môi trường, nhất là các
khu rừng đầu nguồn cung cấp nước cho các khe,
suối để dẫn vào ruộng qua hệ thống phai, mương,
máng,... bởi đây là giải pháp phát triển ruộng bậc
thang và đảm bảo đủ nước cho canh tác hàng năm6.
Nhờ phong trào khai khẩn, canh tác ruộng bậc thang
kết hợp làm loại nương cố định, rất nhiều khu đất
trước đây là nương du canh bỏ hóa thì nay đã được
người Dao phát triển thành vườn rừng, trồng những
cây có giá trị hàng hóa, góp phần làm gia tăng diện
tích khoanh nuôi rừng nhằm cung cấp nước để làm
ruộng, bảo vệ môi trường.
Rõ ràng là gần đây, việc khai khẩn ruộng bậc
thang và làm hai vụ lúa/năm đã trở thành phong trào
tại các địa bàn có người Dao sinh sống, bất kể ở
đai sinh thái vùng thấp hay vùng cao. Chỉ một vài
nơi như người Dao Đỏ, xã Thái Học, huyện Nguyên
Bình (tỉnh Cao Bằng), do là vùng núi đá, thiếu nước
nên khó mở rộng diện tích ruộng bậc thang, nhưng
nay người dân đã phát triển các cây trồng khác để
bán, làm cho đời sống ngày càng nâng cao. Thực tế
đã khẳng định rằng, cho đến năm 1995: “Ở nhiều
vùng người Dao việc trồng lúa nước có năng xuất
cao mỗi năm hai vụ lúa đã thành nề nếp. Tuy không
phá rừng làm rẫy nhưng họ đã đủ ăn và dư thừa
lương thực làm cơ sở cho việc phát triển ngành
nghề khác”7. Do chủ yếu làm ruộng nên đồng bào
Dao có điều kiện tiếp cận các tiến bộ kỹ thuật thông
qua sách báo, truyền thông, các buổi tập huấn tại
địa phương,... tạo ra nhu cầu sử dụng các công cụ
bằng máy, phân hoá học, thuốc trừ sâu. Qua tư liệu
điền dã gần đây, hầu hết các gia đình người Dao
có điều kiện đều vỡ đất làm ruộng bằng máy, dùng
máy bơm kết hợp khi tưới tiêu, thu hoạch bằng máy
tuốt lúa, vận chuyển sản phẩm bằng xe máy hoặc xe
công nông,...
Ngoài làm ruộng cấy lúa, trồng ngô và sắn
cùng các loại hoa màu trên nương, người Dao ở
một số nơi còn phát triển những cây có giá trị hàng
hóa, tạo ra bước chuyển đổi lớn trong cơ cấu cây
trồng. Chẳng hạn như người Dao ở xã Bản Phiệt
và một vài nơi thuộc huyện Bảo Thắng (tỉnh Lào
Cai) do có quan hệ với bên Trung Quốc nên đã
mở rộng diện tích trồng chuối, dứa,... để bán, tạo
ra thu nhập cao. Theo ước tính: Một ha dứa thu
khoảng 48 tấn quả, giá bình quân 5.000 đồng/kg
vào năm 2010, sau khi trừ các khoản chi phí, người
5. Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn, (2001), Các dân tộc ở Bắc Kạn,
NXB. Thế giới và Tạp chí Dân tộc & Thời đại, Hà Nội, tr.226.
6. Trần Hữu Sơn, Bàn Khánh Thanh, (2011), Văn hóa ứng xử của người Dao
Đỏ với môi trường tự nhiên qua khai khẩn ruộng bậc thang ở Sa Pa, Tạp chí
Dân tộc học, số 4, tr.3-12.
7. Trịnh Bá Bảo, (1998), Kinh tế, xã hội người Dao Việt Nam thời kỳ 1970 -
1995, Trong: Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, (1998), Sự
phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Kỷ yếu Hội
thảo, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia xuất bản, Hà Nội,
1998, tr.206.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
115Số 23 - Tháng 9 năm 2018
trồng thu một nửa, tức khoảng 110 triệu đồng/ha;
riêng cây chuối, mỗi ha cho khoảng 2.500 buồng,
mỗi buồng ước khoảng 20kg, giá thành bình quân
5.000 đồng/kg trong năm 2010, tức được 250 triệu
đồng, nếu trừ chi phí thì mỗi ha người trồng thu
khoảng 140 triệu đồng. Vì thế, rất nhiều hộ người
Dao ở nơi đây có nguồn thu lớn từ việc trồng chuối
và dứa để bán sang Trung Quốc8.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, sự đổi mới trong
trồng trọt nông nghiệp của đồng bào Dao ở nước ta
do tác động tích cực từ các chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách định canh định
cư, chính sách ưu tiên giáo dục cho con em dân tộc
thiểu số và gần đây là các chương trình 135, 134,...
cùng các chính sách xóa đói giảm nghèo khác.
2. Phát triển rừng và cây trồng lâu năm
Người Dao có tập quán bảo vệ rừng từ lâu đời,
nên đã hình thành các quy ước bất thành văn trong
mỗi cộng đồng, liên quan tới khai thác sử dụng và
bảo vệ rừng, bảo vệ các nguồn tài nguyên tại nơi cư
trú, đặc biệt là các cây thuốc Nam và những sản vật
quý hiếm trong rừng: “Các làng người Dao đã sử
dụng hương ước, đặt ra các quy định cấm khai thác,
phá rừng đầu nguồn; sử dụng tín ngưỡng và luật tục
nhằm,... bảo về các khu rừng chung của cộng đồng”9.
Điền dã vào năm 2001 tại xã Tả Phìn, huyện Sa Pa
(tỉnh Lào Cai) cho thấy, đến nay người Dao Đỏ nơi
đây vẫn rất chú trọng bảo vệ môi trường rừng, bởi
hầu hết các khu vực xung quanh những ngôi nhà ở
và trong phạm vi thôn Tả Chải đều tồn tại các loại
cây rừng lâu năm, trong khi các khu rừng ấy có rất
nhiều cây thuốc quý như dứa dại lá tím, riềng, trinh
nữ, lạc tiên, cây mua, xa nhân, quế chi, mã đề, củ
mài, bách bộ, dương xỉ,... Một thực tế khá phù hợp
với tâm lý một số cộng đồng người Dao đã được tác
giả Diệp Đình Hoa phát hiện khi nghiên cứu về tập
quán bảo vệ và chăm sóc rừng của người Dao Tiền
ở huyện Đà Bắc (tỉnh Hòa Bình): “Người Dao ở
Đà Bắc có một đặc điểm chung là rất chú trọng đến
công việc chăm nom, săn sóc vườn nhà, vườn rừng.
Những khu rừng được giao khoanh nuôi hay bảo vệ
đều được giữ gìn cẩn thận, nhất là khu rừng quanh
bản. Ngược lại, họ cũng rất tích cực đi đốt nương ở
những nơi khác, hoặc đi lấy gỗ ở những khu rừng
còn chưa được bảo vệ cẩn thận...”10. Nhận định này
của tác giả là khá chính xác đối với không ít cộng
đồng người Dao ở nhiều địa phương, bởi từ lâu đời
đồng bào rất quan tâm bảo vệ rừng cùng các nguồn
lợi tự nhiên ở quanh nhà và trong phạm vi ranh giới
địa vực thôn bản để điều hòa nguồn nước cho sinh
hoạt và sản xuất. Song, họ cũng tranh thủ đi phát
8. Bùi Xuân Đính, (2011), Suy nghĩ về sự ổn định của biên giới từ thực tế phát
triển kinh tế ở hai vùng biên giới Việt - Trung (Bài tham luận tại Hội nghị
Thông báo Dân tộc học năm 2011), Hà Nội, tr.2-3.
9. Trần Hữu Sơn, Bàn Khánh Thanh, (2011), Văn hóa ứng xử của người Dao Đỏ
với môi trường tự nhiên qua khai khẩn ruộng bậc thang ở Sa Pa, Tlđd, tr.11.
10. Diệp Đình Hoa, (1998), Người Dao ở xóm Yên (xóm Suối Yên), Trong:
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (1998), Sự phát triển văn
hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Sđd, tr.216.
nương và khai thác lâm thổ sản tại những khu rừng
còn thiếu sự quản lý chặt chẽ không ngoài mục đích
hạn chế khai thác quá mức các khu rừng quanh nhà
và trong thôn bản mình.
Từ việc phát huy tập quán bảo vệ rừng, phong
trào phát triển rừng ở vùng người Dao sinh sống
ngày càng tăng từ những năm cuối thế kỷ XX, do
đồng bào tuy sống ở gần rừng nhưng đã chủ yếu
canh tác ở ruộng bậc thang, chuyển dần diện tích đất
nương du canh sang trồng rừng, khoanh nuôi và bảo
vệ các khu rừng tái sinh kết hợp trồng những cây
lâu năm có giá trị hàng hóa. Vì vậy: “Nếu như trước
đây người Dao phá rừng thì nay đã có 30% số lao
động đi bảo vệ, kinh doanh rừng, lấy nghề rừng làm
phương thức sản xuất chính để ổn định cuộc sống”11.
Chẳng hạn như tỉnh Bắc Giang, từ những năm 90 thế
kỷ XX người Dao ở nhiều thôn bản thuộc các huyện
Lục Ngạn, Lục Nam, Sơn Động,... đã nhận đất để
trồng cây gây rừng, bảo vệ rừng tái sinh, làm cho
hàng ngàn ha rừng được chăm sóc, trồng mới. Cụ thể
là nhiều hộ người Dao tại các xã Trường Sơn, Lục
Sơn, Bình Sơn của huyện Lục Nam đã nhận chăm
sóc nhiều ha rừng dẻ trám và rừng tái sinh; trong khi
đó mỗi hộ gia đình người Dao ở các thôn Đồng Sim,
Nghẽo,... thuộc xã Tuấn Đạo huyện Sơn Động đều
nhận chăm sóc khoảng 1 - 5 ha rừng, riêng gia đình
ông Lý Văn Tư nhận tới 3 ha rừng lim nguyên sinh,
cho thu nhập trung bình mỗi hộ khoảng 2 - 3 triệu
đồng/năm vào năm 199412.
Tại tỉnh Quảng Ninh, việc khoanh nuôi, bảo
vệ rừng ở các thôn bản người Dao được phát triển
nhanh chóng tại một số huyện như Quảng Hà, Ba
Chẽ, Bình Liêu, Tiên Yên,... Trong đó, điển hình
là xã Tân Dân huyện Hoành Bồ, bởi nơi đây người
Dao sống tập trung đông đúc. Tư liệu điền dã đã
chỉ ra rằng, từ năm 1991 chính quyền xã Tân Dân
đã phát động phong trào trồng rừng và bảo vệ rừng.
Nhờ đó, các hộ người Dao trong xã Tân Dân đã
trồng được trên 12.000 cây bạch đàn Úc, trồng
rừng phòng hộ được 26,5 ha; riêng năm 1993, bằng
nguồn vốn định canh định cư của Nhà nước, người
Dao ở các thôn bản của xã này đã trồng được 300 ha
rừng bạch đàn phân tán, tăng 78.000 cây so với số
cây đã trồng vào năm 1991; còn việc khoanh nuôi
chăm sóc bảo vệ rừng, năm 1991 đã phát triển được
600 ha, năm 1992 được 1.700 ha, năm 1993 được
1.080 ha, đưa tổng diện tích rừng được chăm nuôi
bảo vệ của toàn xã lên đến 2.780 ha13.
11. Trịnh Bá Bảo, (1998), Kinh tế, xã hội người Dao Việt Nam thời kỳ 1970 -
1995, Trong: Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (1998), Sự
phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Sđd, tr.205.
12. Lâm Văn Thăng, (1998), Sự phát triển kinh tế - đời sống và một số mô hình
làm ăn giỏi của người Dao ở Hà Bắc hiện nay, Trong: Trung tâm Khoa học
xã hội và Nhân văn Quốc gia (1998), Sự phát triển văn hóa xã hội của người
Dao: Hiện tại và tương lai, Sđd, tr.228-229.
13. Lê Duy Đại, (1998), Phát triển kinh tế và phân hóa giàu nghèo của người
Dao xã Tân Dân, huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh - Thực trạng và những
vấn đề đặt ra, Trong: Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia,
(1998), Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai,
Sđd, tr.274.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
116 Số 23 - Tháng 9 năm 2018
Có điều đáng lưu ý đối với người Dao là, phát
triển và bảo vệ rừng luôn gắn với gieo trồng những
cây có giá trị kinh tế, đặc biệt cây quế đã được biết
đến và phổ biến tại một số vùng. Ví dụ như tỉnh
Yên Bái, đến năm 1994 chỉ riêng huyện Văn Yên
đã có 5.650 ha cây quế, trong khi quế của người
Dao đã là 5.210 ha, tức chiếm 90% diện tích trồng
quế toàn huyện, song dân số người Dao nơi đây chỉ
chiếm 21,1% tổng dân số của huyện14. Qua kết quả
khảo sát vào năm 2008, các hộ gia đình người Dao
Đỏ ở thôn Khe Giang và các thôn khác của xã Đại
Sơn, huyện Văn Yên, đều đua nhau trồng quế. Để
quế phát triển nhanh, hàng năm người ta vẫn trồng
xen ngô và hoa màu khi cây còn nhỏ kết hợp bón
nhiều phân chuồng vừa để hạn chế cây cỏ phát triển
vừa có phân ngấm vào đất nuôi dưỡng cây quế, chỉ
khoảng sau 7 - 10 năm thì cho thu hoạch. Vì vậy,
những hộ có quế đủ tuổi khai thác đều có thu nhập
đáng kể, trung bình mỗi năm khoảng 5 - 10 triệu
đồng, ít nhất là 2 - 4 triệu và nhiều là trên 20 triệu,
thậm chí trên 50 triệu đồng vào thời điểm đó. Đồng
bào không chỉ khai thác cây quế bóc lấy vỏ bán và
đem xuất khẩu, mà còn lấy lá quế về nấu cao bán
với giá khoảng 100 nghìn - 200 nghìn đồng/lít tuỳ
theo biến động giá cả thị trường ở địa phương. Do
vậy, cuộc sống của người Dao ở đây được nâng cao,
họ xây dựng rất nhiều nhà xây kiên cố từ cấp 4 đến
cao tầng; trong thôn có đủ các dịch vụ sửa chữa xe
máy, ăn uống, mua bán tạp hoá; chợ xã cũng đủ các
loại hàng hoá để mua, bán...
Ngoài tỉnh Yên Bái, người Dao ở các tỉnh Lào
Cai, Quảng Ninh,... cũng có phong trào trồng cây
quế. Chẳng hạn như ở xã Phong Hải, huyện Bảo
Thắng (tỉnh Lào Cai), phong trào này đã được phát
triển từ giữa những năm 80 thế kỷ XX, điển hình là
người Dao Tuyển ở thôn Khởi Khe: “Ở Khởi Khe đã
xuất hiện nhiều mô hình hộ gia đình sản xuất giỏi,
tạo một chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh và khoa
học. Tiêu biểu như gia đình ông Bàn Khánh Hưởng
trưởng bản đã trồng 2 vạn cây quế. Trong đó, 5.000
cây cho thu hoạch, mỗi năm từ quế và vườn rừng
của ông được khoảng 40 triệu đồng...” 15. Kết quả
nghiên cứu tại thực địa cũng cho thấy, do cây quế ít
bị sâu bệnh và không quá kén đất nên được người
Dao gieo trồng ở khắp nơi: Trên các sườn núi có
độ dốc từ 250 trở lên, ở chân các quả đồi và dãy núi
thấp có độ dốc dưới 250, thậm chí có hộ gia đình còn
trồng quế ở ven vườn nhà và cả xung quanh nhà.
Riêng tỉnh Quảng Ninh, người Dao tại các huyện
Hoành Bồ, Quảng Hà,... đều phát triển cây quế từ
khá lâu. Cụ thể như hộ gia đình ông Hồng - Phó chủ
tịch xã Tân Dân, huyện Hoành Bồ vào những năm
14. Hoàng Nam, (1998), Nghề trồng quế của người Dao ở Văn Yên (Yên Bái),
Trong: Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, (1998), Sự phát
triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Sđd, tr.208, 213.
15. Vi Văn Đông, (1998), Ứng xử của người Dao Tuyển ở Khởi Khe với môi
trường, Trong: Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, (1998),
Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Sđd,
tr.240, 241.
1993 - 1994 đã có cả một đồi quế với hơn 3 trăm
cây và lúc đó đã có người ở ngoài huyện Hoành Bồ
vào định mua cả đồi với giá tương đương ba cây
rưỡi vàng nhưng ông Hồng chưa muốn bán,...16
Ngoài cây quế, tùy theo điều kiện tự nhiên ở địa
phương, người Dao còn quan tâm trồng các loại cây
ăn quả có giá trị hàng hóa như vải ở huyện Lục
Ngạn (tỉnh Bắc Giang), cam và quýt ở huyện Bạch
Thông (tỉnh Bắc Kạn), dứa và chuối ở huyện Bảo
Thắng (tỉnh Lào Cai),... Ví dụ như việc phát triển
kinh tế vườn với loại cây trồng chủ yếu là vải thiều
đã trở thành phong trào từ những năm 90 thế kỷ XX
của người Dao các xã thuộc hai huyện Lục Nam và
Lục Ngạn, tỉnh Hà Bắc trước đây. Cụ thể gia đình
ông Triệu Sinh Phúc ở bản Na Lang, xã phong Minh
(huyện Lục Ngạn) đã trồng hơn 300 cây vải thiều
và cho thu hoạch vào năm 1994; đồng bào Dao ở
bản Tân Mộc cùng xã Phong Minh có 21 hộ vào
năm 1994 thì mỗi hộ trồng trên 50 cây vải, trong
đó 5 hộ mỗi hộ trồng trên 200 cây vải thiều,...17.
Chưa kể tới người Dao ở một số địa phương như
Ba Vì (Hà Nội), Sa Pa (Lào Cai), Yên Lập (Phú
Thọ), Đồng Hỷ (Thái Nguyên), huyện Hoành Bồ
(Quảng Ninh),... còn phát triển cây thuốc Nam để
bán ra thị trường không chỉ tại địa phương mà đến
tận nhiều tỉnh và thành phố khác. Bởi vì, chữa bệnh
bằng những cây thuốc tìm kiếm trong rừng hoặc
trồng quanh nhà kết hợp buôn bán các cây thuốc
này đã trở thành tập quán của đồng bào Dao. Hiện
nay, dưới tác động của cơ chế thị trường, tập quán
đó càng có điều kiện phát huy, phát triển thành một
trong những nghề khá phổ biến của đồng bào, cho
thu nhập đáng kể, ví dụ như đối với người Dao ở
xã Ba Vì, huyện Ba Vì (Thành phố Hà Nội): “Tổng
thu nhập năm 2012 toàn xã là 13.87.000.000 đồng;
trong đó, thu nhập từ trồng trọt chiếm 57%, từ dịch
vụ thuốc Nam chiếm 25%, từ chăn nuôi chiếm 7%,
các ngành nghề khác chiếm 11%”18.
Rõ ràng, khi kinh tế thị trường phát triển cùng
với tác động có hiệu quả của các chính sách của
Nhà nước, nhất là từ khi thực thi chính sách giao
đất giao rừng, do người Dao chủ yếu canh tác trên
ruộng bậc thang và nương rẫy định canh, nên có
điều kiện phát huy tập quán bảo vệ rừng và gieo
trồng những cây lâu năm có giá trị hàng hóa để tạo
ra thu nhập ngày càng cao so với canh tác nương
rẫy. Vì vậy, theo nghiên cứu của một số tác giả, vào
những năm 90 thế kỷ XX, tỷ lệ thu nhập của người
16. Trần Văn Hà, (1998), Những yếu tố tác động đến sự hiểu biết về tiến bộ kỹ
thuật nông nghiệp của người Dao tại một xã ở miền Bắc Việt Nam, Trong:
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (1998), Sự phát triển văn
hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai, Sđd, tr.263.
17. Lâm Văn Thăng, (1998), Sự phát triển kinh tế - đời sống và một số mô hình
làm ăn giỏi của người Dao ở Hà Bắc hiện nay, Trong: Trung tâm Khoa học xã
hội và Nhân văn Quốc gia (1998), Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao:
Hiện tại và tương lai, Sđd, tr.228-229.
18. Chử Thị Thu Hà, (2015), Văn hóa vật chất của người Dao ở Ba Vì, Hà Nội
trong bối cảnh hiện nay, Luận án tiến sĩ Nhân học, thư viện Quốc gia Hà Nội
và thư viện Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.31.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
117Số 23 - Tháng 9 năm 2018
Dao đã là: (1) Thu nhập từ nông nghiệp là 54,77%;
(2) Thu nhập từ nghề rừng là 36,30%; (3) Ngành
nghề khác có thu nhập khoảng 8,93%19.
3. Những vấn đề đặt ra
Dưới tác động của quá trình đổi mới, đặc biệt
là các chính sách dành cho dân tộc của Đảng và
Nhà nước, hoạt động trồng trọt ở vùng người Dao
đã có những biến đổi vượt bậc so với trước đây về
hình thức và quy trình cũng như cách thức canh tác,
cơ cấu cây trồng, sự đa dạng sản phẩm,... Nhờ đó,
các hộ gia đình người Dao ở các địa phương bất kể
vùng thấp hay vùng cao đều có thu nhập ngày càng
cao từ trồng trọt, góp phần ổn định đời sống kinh
tế, từng bước vươn lên hòa nhập về mọi mặt với
các tộc người láng giềng. Song, về lâu dài cũng như
trước mắt vẫn còn không ít vấn đề đặt ra, cần được
các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu để đưa ra
những giải pháp thích hợp, trong đó có một số vấn
đề như sau:
Thứ nhất, vấn đề bấp bênh về thu nhập liên quan
tới phát triển những loại cây có giá trị hàng hóa.
Mỗi khi vài gia đình trong thôn/bản hoặc ở các
thôn/bản láng giềng trồng một loại cây mới đem
bán cho thu nhập đáng kể thì các gia đình khác đua
nhau thành phong trào của toàn thôn/bản, thậm chí
cả vùng dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu, tức giá
cả năm sau thấp hơn năm trước do bị ép giá, mặc
dù giá trị đồng tiền năm sau không bằng năm trước.
Đó là các trường hợp đua nhau phát triển ồ ạt cây
ngô lai và sắn cao sản trong vài năm trước đây, còn
hiện nay là tình hình sản xuất cây dong riềng ở một
số địa phương thuộc các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng.
Để giải quyết vấn đề này, cần có sự quy hoạch của
các cấp các ngành, đặc biệt là đổi mới tư duy quản
lý và phát triển kinh tế của đội ngũ cán bộ thôn/bản,
chính quyền địa phương.
Thứ hai, vấn đề bảo tồn các giống cây trồng
truyền thống có giá trị kinh tế cao nhưng cho năng
suất không cao. Trước đây do chủ yếu canh tác trên
nương rẫy nên người Dao có rất nhiều giống cây
trồng quý hiếm, cho sản phẩm có chất lượng về giá
trị kinh tế, song đều là các giống cây dài ngày và
kén đất, trong khi năng suất thu hoạch thấp, nên đã
bị đào thải dần và nay hầu như không còn duy trì do
chủ yếu canh tác trên ruộng bậc thang và trên nương
định canh với các giống mới. Đó là các giống lúa
nương thơm ngon dẻo gồm lúa tẻ và lúa nếp, ngô
nếp trắng hoặc hoa giống địa phương, các giống
dưa trồng xen với lúa nương, các loại đậu trồng
xen với ngô hoặc gieo trồng riêng, các loại củ,... Rõ
ràng, sự biến đổi trong trồng trọt hiện nay ở vùng
người Dao cần gắn với giải pháp bảo tồn các giống
cây trồng truyền thống có giá trị cao về kinh tế.
19. Nguyễn Khánh Quắc và Từ Quang Hiển, (1998), Tình hình kinh tế, đời
sống của người Dao hiện nay, Trong: Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân
văn Quốc gia, (1998), Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại
và tương lai, Sđd, tr.253.
Thứ ba, vấn đề giá cả nông sản thấp so với thu
nhập từ một số ngành nghề phi nông nghiệp, trong
khi đồng bào cần phải chi tiêu hàng ngày bao gồm
tiền mua sắm, tiền đầu tư sản xuất, tiền xăng xe
đi lại, tiền điện thoại, tiền học cho con cháu, chưa
kể các khoản khác như tiền thăm viếng, hiếu hỷ,...
Vì vậy, trong phần lớn nam nữ thanh niên và trung
niên người Dao ở nhiều địa phương hiện nay đều đi
ra các thành phố tìm kiếm việc làm, ở quê nhà chỉ
những người già vừa trông nom các cháu nhỏ vừa
tiếp tục canh tác ruộng bậc thang và trồng một số
cây hoa màu cho chăn nuôi. Vấn đề này tuy đã được
dự báo từ năm 1995 tại Hội thảo quốc tế lần thứ
VII về người Dao được tổ chức ở thành phố Thái
Nguyên20. Song, đến nay vẫn trong tình trạng ngày
càng nhiều người dân ở vùng người Dao tự phát đi
ra các thành phố tìm kiếm việc làm có thu nhập cao
hơn so với sản xuất nông nghiệp tại quê hương.
Thứ tư, vấn đề thiếu nguồn vốn tài chính, đặc
biệt là thiếu kiến thức khoa học - kỹ thuật, dẫn đến
canh tác không bền vững. Trong khi đó, sản xuất
nông nghiệp ở vùng đồng bào mang tính tự phát
do từng hộ gia đình quyết định thậm chí cạnh tranh
nhau, chưa có sự liên kết giữa các hộ để có người
đứng đầu với trách nhiệm chỉ đạo, lo các khâu đầu
vào và đầu ra,... Vì thế, đối với đồng bào, trồng trọt
hiện nay vẫn trong tình trạng sản lượng thu hoạch
bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, chất lượng
giống, hiệu quả việc phòng trừ sâu bệnh và tình
hình giá cả thị trường, nếu giá cả xuống thấp thì bà
con không kịp ứng phó, ồ ạt chuyển sang trồng cây
khác rồi lại thua lỗ,... Đây cũng là một trong những
nguyên nhân khiến lớp trẻ người Dao gần đây có
nhu cầu đi ra các thành phố tìm kiếm việc làm tại
các công ty liên doanh.
Một vài nhận xét
Dưới tác động của cơ chế thị trường, nhất là sự
đổi mới thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước, hoạt động trồng trọt trong những năm
qua ở vùng người Dao nước ta đã có sự biến đổi
nhanh chóng. Đó là việc chú trọng canh tác ruộng
bậc thang với các giống lúa mới cho năng suất cao,
tăng dần diện tích nương định canh để trồng các loại
cây lai, nhất là ngô và sắn để bán ra thị trường. Tùy
điều kiện ở địa phương, đồng bào còn phát triển
các cây có giá trị hàng hoá như quế, thuốc Nam,
cây ăn quả,... Đặc biệt, người dân đã chú ý hơn đến
trồng rừng, khoanh nuôi và bảo vệ rừng để từng
bước phát triển nông lâm kết hợp.
Những biến đổi về hình thức và cách thức canh
tác, áp dụng các giống mới nhất là những cây có giá
trị hàng hóa, đồng thời chú trọng phát triển nghề
rừng là hướng đi tích cực, tạo được tính năng động
20. Jacques Lemoine, (1998), Khái quát về di sản văn hoá Dao và hiện đại
hoá ở Việt Nam, Trong: Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia,
(1998), Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện tại và tương lai,
Sđd, tr.391-399.
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
118 Số 23 - Tháng 9 năm 2018
trong hoạt động sinh kế của mỗi hộ gia đình người
Dao. Do vậy, đời sống của đồng bào Dao ở hầu
khắp các địa phương hiện nay đều được nâng cao,
ngày càng xuất hiện nhiều hộ gia đình làm ăn khá
và giỏi, có tỷ trọng thu nhập đáng kể từ việc chuyển
đổi cơ cấu kinh tế.
Tuy nhiên, những biến đổi liên quan đến tập
quán trồng trọt của người Dao vẫn còn không ít vấn
đề đặt ra. Do đó, dân tộc Dao cũng như nhiều dân
tộc láng giềng rất cần sự tiếp tục hỗ trợ từ phía Nhà
nước, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, các cơ
sở đào tạo và các cơ quan chức năng đối với việc
tư vấn kỹ thuật trồng trọt, tiêu thụ sản phẩm, tạo ra
những việc làm mới, đào tạo nhân lực, nhất là đào
tạo những ngành nghề có thể áp dụng và phát triển
tại địa phương.
Tài liệu tham khảo
[1] Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở
Trung ương, (2010), Báo cáo kết quả chính thức
Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, NXB.
Tổng cục Thống kê, Hà Nội;
[2] Bùi Xuân Đính, (2011), Suy nghĩ về sự ổn
định của biên giới từ thực tế phát triển kinh tế ở
hai vùng biên giới Việt - Trung (Bài tham luận tại
Hội nghị Thông báo Dân tộc học năm 2011), Hà
Nội, tr. 2-3;
[3] Chử Thị Thu Hà, (2015), Văn hóa vật chất
của người Dao ở Ba Vì, Hà Nội trong bối cảnh hiện
nay, Luận án tiến sĩ Nhân học, Thư viện Quốc gia Hà
Nội và Thư viện Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội;
[4] Trần Văn Hà, (Chủ biên, 2007), Phát triển
nông thôn miền núi và dân tộc trong thời kỳ kinh tế
chuyển đổi, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội;
[5] Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý, (Chủ
biên, 1999), Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà
Giang, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội;
[6] Lý Hành Sơn, (1995), Nương rẫy truyền
thống của người Dao ở Cao Bằng, Tạp chí Dân tộc
học, số 3, tr.64-73;
[7] Trần Hữu Sơn, Bàn Khánh Thanh, (2011),
Văn hóa ứng xử của người Dao Đỏ với môi trường
tự nhiên qua khai khẩn ruộng bậc thang ở Sa Pa,
Tạp chí Dân tộc học, số 4, tr.3-12;
[8] Tỉnh ủy - Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn,
(2001), Các dân tộc ở Bắc Kạn, NXB. Thế giới và
Tạp chí Dân tộc & Thời đại, Hà Nội;
[9] Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn
Quốc gia, (1998), Sự phát triển văn hoá xã hội
người Dao: Hiện tại và tương lai, Kỷ yếu Hội thảo,
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia
xuất bản, Hà Nội.
CULTIVATING IN THE DAO ETHNIC GROUP AREA IN OUR COUNTRY TODAY,
CHANGES AND ISSUED MATTERS
Ly Hanh Sơn – Ly Cam Tu
Abstract: From the fieldwork materials combined with the document overview, the article content has
generalized some general changes related to the cultivation custom of the Dao ethnic group in our country
today, which shows the issued matters. Under the influence of the market mechanism, especially the
renewal of the Party’s and State’s ethnic policies, cultivation activities in Dao ethnic group localities have
changed dramatically in the past time. The living conditions of the ethnic groups have been improved, the
area of the terraced fields has been expanded, the structure of crops has been diversified, the food security
has been stabilized, the forest protection custom has been promoted However, besides the challenges
of raising incomes, promoting traditional cultivars, sustainable cultivation,... they need support from the
State and enterprises in the locality. training institutions and functional agencies.
Keywords: Cultivation; Changes; Dao ethnic group; Cultivating in Dao ethnic group area; Sustainable
livelihoods.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100_458_1_pb_6253_2151949.pdf