Trồng sắn và sinh kế bền vững của các hộ sản xuất nhỏ ở tỉnh Sơn La: Sơ bộ kết quả khảo sát hộ gia đình

Tài liệu Trồng sắn và sinh kế bền vững của các hộ sản xuất nhỏ ở tỉnh Sơn La: Sơ bộ kết quả khảo sát hộ gia đình: N Ú I C Ơ H Ộ I C H O P H ÁT T RI ỂN 33 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững Trồng sắn và sinh kế bền vững của các hộ sản xuất nhỏ ở tỉnh Sơn La: Sơ bộ kết quả khảo sát hộ gia đình Dominic Smith1, Jonathan Newby2, Cù Thị Lệ Thủy3 và Lava Yadav1 Cơ quan 1Trường Nông nghiệp và khoa học thực phẩm, Đại học Queensland, Brisbane, Qld 4072, Australia 2Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), Văn phòng Vientianee, CHDCND Lào 3Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), Văn phòng Hà nội, Việt Nam Tác giả đại diện d.smith1@uq.edu.au Từ khóa Trồng sắn quy mô nông hộ nhỏ, sinh kế bền vững, khảo sát hộ gia đình Giới thiệu Tại Đông Nam Á, cây sắn (Manihot esculenta Crantz) là loại cây trồng ngày càng quan trọng đối với cả sinh kế nông thôn và phát triển kinh tế vùng. Sơn La là một trong những tỉnh trồng sắn chính ở Việt Nam, với sản lượng tăng hơn hai lần từ năm 2001 đến năm 2011. Mức sản lượngkhá ổn định từ 2011 tới 2016 vớ...

pdf4 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 243 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trồng sắn và sinh kế bền vững của các hộ sản xuất nhỏ ở tỉnh Sơn La: Sơ bộ kết quả khảo sát hộ gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N Ú I C Ơ H Ộ I C H O P H ÁT T RI ỂN 33 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững Trồng sắn và sinh kế bền vững của các hộ sản xuất nhỏ ở tỉnh Sơn La: Sơ bộ kết quả khảo sát hộ gia đình Dominic Smith1, Jonathan Newby2, Cù Thị Lệ Thủy3 và Lava Yadav1 Cơ quan 1Trường Nông nghiệp và khoa học thực phẩm, Đại học Queensland, Brisbane, Qld 4072, Australia 2Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), Văn phòng Vientianee, CHDCND Lào 3Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT), Văn phòng Hà nội, Việt Nam Tác giả đại diện d.smith1@uq.edu.au Từ khóa Trồng sắn quy mô nông hộ nhỏ, sinh kế bền vững, khảo sát hộ gia đình Giới thiệu Tại Đông Nam Á, cây sắn (Manihot esculenta Crantz) là loại cây trồng ngày càng quan trọng đối với cả sinh kế nông thôn và phát triển kinh tế vùng. Sơn La là một trong những tỉnh trồng sắn chính ở Việt Nam, với sản lượng tăng hơn hai lần từ năm 2001 đến năm 2011. Mức sản lượngkhá ổn định từ 2011 tới 2016 với năng suất giảm từ 12.3 xuống còn 11,7 tấn/ha trong khi diện tích trồng sắn tăng tới 32.840 ha vào năm 2016. Chính sách của nhà nước về phát triển trồng sắn trong những năm tới tại tỉnh Sơn La hướng tới tăng năng suất qua cải thiện biện pháp canh tác và áp dụng công nghệ sau thu hoạch. Để hiểu về sinh kế và thực tiễn trồng sắn của các nông hộ, một khảo sát hộ gia đình đã được thực hiện tại huyện Mai Sơn và Thuận Châu của tỉnh Sơn La. Khảo sát bao gồm 8 thôn ở vùng cao khó tiếp cận với trung tâm xã và các thôn trung du gần đường giao thông. Kết quả được sử dụng để cung cấp thông tin đầu vào cho các hoạt động hỗ trợ của ACIAR trong thời gian tới bao gồm việc áp dụng giống và các biện pháp canh tác cải tiến. Phương pháp nghiên cứu Khảo sát hộ gia đình bao gồm các khía cạnh khác nhau của các hoạt động sản xuất sắn, hoạt động sau thu hoạch và thị trường. Bên cạnh thông tin về thực tiễn nông học, các dữ liệu về chi phí, sử dụng lao động và thu nhập cũng được thu thập. Dữ liệu phân tách theo giới và dân tộc được H Ộ I T H Ả O V Ề PH ÁT T RI ỂN T ÂY B Ắ C 34 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững thu thập khi phù hợp. Khảo sát cũng bao gồm các câu hỏi về sinh kế nông hộ, bao gồm các cây trồng lưu niên tại vùng cao và đất thấp, sản xuất cây trồng và chăn nuôi gia súc, cũng như các hoạt động phi nông nghiệp. Các hoạt động khảo sát được triển khai tại xã Bó Mười và Púng Tra thuộc huyện Thuận Châu và Chiềng Chăn và xã Nà Ớt thuộc huyện Mai Sơn tỉnh Sơn La, mỗi xã có 1 thôn ở vùng cao và 1 thôn ở trung du được khảo sát. Tại mỗi thôn trong 8 thôn này, 32 hộ gia đình trồng sắn được lựa chọn khảo sát ngẫu nhiên từ danh sách hộ gia đình do trưởng thôn cung cấp. Khảo sát được thực hiện trực tiếp với nông hộ ở những nơi có thể. Tổng số 256 hộ gia đình đã được khảo sát bởi nhóm công tác sử dụng ứng dụng Commcare trên máy tính bảng Android. Kết quả Phần lớn nông dân trồng sắn vẫn đang trồng lúa nước hoặc lúa nương làm lương thực chính, ngô là cây hoa màu quan trọng, đặc biệt ở xã Chiềng Chăn và Bó Mười. Hầu hết các hộ gia đình đều chăn nuôi gia súc, với đàn gia súc lớn (trâu, bò hoặc dê) tại một nửa số hộ gia đình. Tại tất cả các xã trừ Nà Ớt, sắn chỉ chiếm một phần tương đối nhỏ trong tổng thu nhập (Hình 1). Hình1: Thu nhập hàng năm theo nguồn (TriệuVND/năm) Lưu ý- bao gồm giá trị sản xuất lúa gạo N Ú I C Ơ H Ộ I C H O P H ÁT T RI ỂN 35 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững Chỉ 1,2% nông dân sử dụng phân bón hữu cơ, trong khi phân bón vô cơ được 74% nông dân sử dụng. Chỉ 26,5% nông dân sử dụng thuốc diệt cỏ, trong khi 99% nông dân làm cỏ bằng tay. Hơn 75% nông dân sử dụng các dụng cụ cầm tay để làm đất, máy kéo chỉ chiếm 2%. Việc làm đất, làm ruộng, làm cỏ và thu hoạch là những hoạt động lao động chủ yếu của cả nam và nữ (xem Hình 2). Hình 2: Ngày công lao động của hộ gia đình theo ha, theo giới Hơn 80% nông dân cho rằng cỏ làm giảm năng suất, 90% nông dân cho rằng xói mòn đất là một vấn đề, và gần 74% nông dân cho rằng năng suất sắn đang bị giảm sút. Gần 25% nông dân không muốn trồng sắn trong tương lai hoặc không chắc chắn về việc họ có trồng sắn hay không. Thảo luận và kết luận Bên cạnh những đặc điểm công nghệ khác nhau cũng như đặc điểm của chuỗi giá trị sắn, các đặc điểm của hộ nông dân và cộng đồng có ảnh hưởng đáng kể tới việc áp dụng và phổ biến những công nghệ cải tiến - bao gồm các giống mới và phương pháp canh tác cải tiến. Hầu như không có nông dân nào biết được họ đang trồng giống sắn gì, nhưng phần lớn có thể chỉ ra rằng họ đang trồng một số giống mới. Việc H Ộ I T H Ả O V Ề PH ÁT T RI ỂN T ÂY B Ắ C 36 Chủ đề 2: Các hệ thống canh tác bền vững giới thiệu các giống mới có năng suất cao hơn có thể cải thiện sinh kế của nông dân cũng như tương đối dễ áp dụng và phổ biến. Độ dốc của những thửa ruộng trồng sắn đồng nghĩa với việc làm ruộng, làm đất, trồng cây và thu hoạch sẽ đòi hỏi nhiều công sức với khả năng cơ giới hóa hạn chế. Chi phí nhân công đáng kể cho việc làm cỏ bằng tay cho thấy việc sử dụng rộng rãi hóa chất diệt cỏ có thể làm giảm chi phí canh tác và cải thiện lợi nhuận trong sản xuất. Chỉ có 11% nông dân nhận thức được ý nghĩa giá trị của phân bón NPK mà họ đang sử dụng, và trong nhiều trường hợp, công thức phân bón sử dụng không phù hợp. Việc áp dụng các công thức phân bón phù hợp hơn, kết hợp với thông tin sử dụng có khả năng tác động tích cực đến năng suất và sinh kế của nông dân. Giới thiệu giống mới có năng suất cao và các công thức phân bón phù hợp hơn cũng như tăng cường áp dụng các phương pháp bảo tồn đất và thuốc diệt cỏ có khả năng cải thiện sinh kế cho nông dân. Tuy nhiên, năng suất và giá sắn suy giảm và thực tế cây sắn chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong sinh kế của nông dân có nghĩa là lợi ích của công nghệ mới phải rất lớn mới khuyến khích được việc áp dụng rộng rãi.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfs4_6931_2207165.pdf
Tài liệu liên quan