Tài liệu Triết lý nhân sinh trong lễ hội Sen Đôn-Ta của người Khmer Nam Bộ: AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
30
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG LỄ HỘI SEN ĐÔN-TA CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
Võ Văn Thắng1, Đinh Văn To2
1Trường Đại học An Giang
2Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông tỉnh An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 14/05/2019
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
05/07/2019
Ngày chấp nhận đăng:
08/2019
Title:
Human philosophy in the Sen
Dolta festival of the Southern
Khmer people
Keywords:
Festival, Sen Dolta, filial
piety, Khmer
Từ khóa:
Lễ hội, Sen Đôn-ta, hiếu đạo,
Khmer
ABSTRACT
Studying about the Sen Dolta festival of the Khmer people with four main
rites at the temple and at each Khmer family which are the rice ball rite
(Banh canh banh), the ancestor worshiping rite (Banh Sen Dolta), the
festival (Banh phchum banh) and the ancestor farewell rite (Banh chuônh
Dolta), the author points out that the outstanding philosophical values of the
Khmers in this festi...
11 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 512 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết lý nhân sinh trong lễ hội Sen Đôn-Ta của người Khmer Nam Bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
30
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG LỄ HỘI SEN ĐÔN-TA CỦA NGƯỜI KHMER NAM BỘ
Võ Văn Thắng1, Đinh Văn To2
1Trường Đại học An Giang
2Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông tỉnh An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 14/05/2019
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
05/07/2019
Ngày chấp nhận đăng:
08/2019
Title:
Human philosophy in the Sen
Dolta festival of the Southern
Khmer people
Keywords:
Festival, Sen Dolta, filial
piety, Khmer
Từ khóa:
Lễ hội, Sen Đôn-ta, hiếu đạo,
Khmer
ABSTRACT
Studying about the Sen Dolta festival of the Khmer people with four main
rites at the temple and at each Khmer family which are the rice ball rite
(Banh canh banh), the ancestor worshiping rite (Banh Sen Dolta), the
festival (Banh phchum banh) and the ancestor farewell rite (Banh chuônh
Dolta), the author points out that the outstanding philosophical values of the
Khmers in this festival are the spirit of filial piety toward ancestors,
grandparents, and parents. Accordingly, the author finds it essential to
preserve and promote these values in order to diversify the spiritual and
cultural life of Khmer compatriots and to make more prosperous and
healthier not only at the present but also in the future.
TÓM TẮT
Trên cơ sở tìm hiểu nội dung lễ hội Sen Đôn-ta của người Khmer Nam bộ với
bốn nghi lễ chính tại Chùa và tại gia đình mỗi người dân tộc Khmer: lễ đặt
cơm vắt (Banh canh banh), lễ cúng ông bà (Banh Sen Đôn-ta), lễ hội (Banh
phchum banh) và lễ tiễn ông bà (Banh chuônh Đôn-ta), tác giả bài viết chỉ ra
những giá trị triết lý nhân sinh nổi bật của người Khmer trong lễ này, đó là:
tinh thần hiếu đạo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, qua đó tác giả cho rằng, cần
phải bảo tồn và phát huy những giá trị này nhằm làm cho đời sống văn hóa
tinh thần của đồng bào Khmer ngày càng phong phú và lành mạnh hơn ở
hiện tại và tương lai.
1. MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng, người Khmer Nam bộ đã mang
đến cho vùng đất này một nền văn hóa mang bản
sắc độc đáo với các đặc điểm tôn giáo và dân tộc
hòa quyện vào nhau. Bản sắc ấy thể hiện qua các
lễ hội, phong tục tập quán, đạo đức, lối sống, nghệ
thuật kiến trúc của những ngôi chùa Khmer cổ
kính. Đặc biệt nhất trong nét văn hoá của người
Khmer là các lễ hội mang tính truyền thống và
đặc trưng như lễ Chol Chnam Thmay, Lễ Nhập
hạ, Sen Đôn-ta, Okombok,... Mỗi lễ hội mang ý
nghĩa khác nhau trên cơ sở tiếp thu giáo lý của
Phật giáo. Trong đó, lễ hội Sen Đôn-ta là lễ lớn
nhất trong các lễ hội truyền thống của cộng đồng
Khmer, nó góp phần hình thành nhân cách của
người Khmer qua nhiều thế hệ, tiêu biểu nhất là
lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên, gắn con người
với gia đình và nguồn cội, thể hiện nét đẹp văn
hóa, đời sống tinh thần, tín ngưỡng của đồng bào
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
31
dân tộc Khmer Nam bộ - nét đẹp toát lên từ chữ
“Hiếu”.
2. KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI SEN ĐÔN-TA
CỦA NGƯỜI KHMER
Nếu như trong đời sống tâm linh của người Kinh
theo đạo Phật có lễ Vu Lan diễn ra vào rằm tháng
7 âm lịch (AL) hàng năm, được xem là mùa báo
hiếu, thể hiện nét đẹp về lòng tri ân, hiếu thảo của
con cái với đấng sinh thành thì trong đời sống tâm
linh của người Khmer có lễ hội Sen Đôn-ta là lễ
cúng ông bà, tổ tiên mang nét đẹp đậm đà bản sắc
văn hóa truyền thống, diễn ra trong ba ngày, từ 29
tháng 8 đến ngày mùng 01 tháng 9 AL. Theo
phong tục của đồng bào Khmer Nam bộ, hằng
năm, cứ vào ngày 29 tháng 8 đến ngày mùng 01
tháng 9 AL, đồng bào Khmer lại nô nức tổ chức lễ
Sen Đôn-ta (người Khmer thường gọi là Pchum
Ben) hay gọi là lễ cúng ông bà nhằm tưởng nhớ
đến công ơn và cầu phước cho linh hồn của các
bậc sinh thành, những người trong thân tộc quá cố
và tri ân tổ tiên đã khai phá đất đai, phù hộ cho
phum, sóc được bình an, thịnh vượng. Về nguồn
gốc của lễ Sen Đôn-ta, có hai truyền thuyết được
đề cập từ lâu đời.
Truyền thuyết thứ nhất cho rằng, phần đông người
Khmer ở Nam bộ thường sinh sống bằng nghề
nông, trồng lúa nước. Vào vụ trồng lúa bắt đầu từ
tháng 4 và đến đầu tháng 8 AL là thời gian nhổ
mạ, cấy lúa. Đây cũng là thời điểm vào mùa mưa,
nước lũ dâng lên. Khi đã cấy lúa xong, đồng bào
Khmer thường chống xuồng, chèo ghe đi thăm hỏi
ông bà, cha mẹ già yếu, có khi đi vài ngày mới
tới. Vì vậy, họ luôn chuẩn bị cẩn thận lương thực,
thực phẩm mang theo dùng và phần quà bánh biếu
cho ông bà, cha mẹ đều được chuẩn bị rất cẩn
thận. Khi đến nơi ở của ông bà, cha mẹ, có người
vui mừng sum họp, người lại đau buồn chia ly bởi
một trong những người thân của họ đã mất vì tuổi
già sức yếu hay bệnh tật, nhưng phận làm con ở
xa, đường xá cách trở, lo bận mưu sinh, không
thường xuyên đến thăm hỏi nên không hay
biết. Dần dần những người cùng đi, họ hẹn hò
gặp nhau ở một chỗ nào đó để làm lễ nhớ ơn hoặc
cùng chia buồn với bạn bè là người tìm không gặp
ông bà, cha mẹ...
Truyền thuyết thứ hai lại cho rằng, lễ Sen Đôn-ta
được bắt nguồn từ sự tích kinh điển của Phật giáo.
Truyền thuyết kể rằng, trong thời Đức Phật còn tại
thế, vào một đêm khuya, trong hoàng cung,
vua Bimbisara nghe tiếng gào thét, khóc lóc vì đói
khát. Nhà vua sợ hãi và truyền lệnh cho cận thần
mời các nhà bói toán xem nguyên do. Những nhà
bói toán thưa rằng: “Đây là các ma quỷ chết oan,
chết ức, không cha mẹ, không nhà cửa, anh em,
nay họ đến xin ăn uống. Nếu Hoàng Thượng
không lo cúng tế, e sợ có chuyện bắt 100 người
nam, 100 người nữ và 100 con vật để làm lễ cúng
tế”. Nghe tin đó, hoàng hậu can gián: “Nếu Hoàng
Thượng làm như vậy, 200 người này bị chết oan
ức, những người thân của họ càng phẫn uất, vậy
nó sẽ càng có hại cho mình và vương quốc”. Nhà
vua tìm đến chùa thỉnh ý Phật Thích ca và được
Ngài bảo rằng: Đây là ma quỷ thuộc dòng tộc,
thuộc những người liên hệ đến nhà vua khi còn ở
dương gian nhiều đời, nhiều kiếp trước, nay ở
dưới âm phủ cực khổ thiếu ăn, thiếu mặc, đến cầu
khẩn xin ăn uống nơi nhà vua. Nhưng ma quỷ
chúng ta không thể cho vật thực, đồ ăn trực tiếp
được, mà phải dâng cúng vật thực đồ ăn đến các
vị có giới đức rồi nhờ các vị có giới đức ấy tụng
kinh hồi hướng thì các ma quỷ thuộc ân nhân đã
quá cố mới thọ hưởng được do phép hồi hướng
đó. Ma quỷ được hưởng đầy đủ vật thực nên đêm
thứ nhất không nghe tiếng rên khóc. Qua đêm thứ
hai, nhà vua lại nghe tiếng rên khóc tiếp tục. Sáng
sớm hôm sau, nhà vua đến chùa bạch với Đức
Phật. Đức Phật dạy tiếp rằng: “Đêm trước, ma quỷ
được ăn no đầy đủ nên không rên la. Đêm sau,
chúng lại rên la tiếp là vì chỉ ăn uống đầy đủ mà
chưa có đồ mặc nên bị rét lạnh”. Nhà vua nghe
xong, về hoàng cung cho người chuẩn bị y áo
cùng vật thực làm lễ dâng cúng đến chư tăng và
nhờ chư tăng hồi hướng tiếp. Nhà vua không còn
nghe tiếng rên than của ma quỷ nữa. Từ đó về sau,
mỗi năm, cứ đến mùa là nhà vua lại cho thỉnh mời
chư tăng đến để làm lễ hồi hướng cho ma quỷ và
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
32
những người đã quá cố (Sơn Phước Hoan & Sơn
Ngọc Sang, 1999).
Từ sự tích trong kinh điển Phật giáo nói trên,
người Khmer Nam bộ tổ chức Lễ Sen Đôn-ta
hằng năm, nó trở thành phong tục, gắn với nghi
thức tôn giáo; họ nhờ sư sãi tụng kinh cầu phước
cho ông bà, cha mẹ, họ tộc quá cố được mau
chóng đầu thai kiếp khác sung sướng hơn. Sau
này, khi có sự xuất hiện của các ngôi chùa Phật
giáo, bà con người Khmer tụ hội về chùa để làm
lễ cúng ông bà và quy định với nhau rằng, làm lễ
Sen Đôn-ta trong 15 ngày, bắt đầu từ ngày 16 đến
cuối tháng 8 AL hàng năm, với bốn nghi lễ chính
tại chùa và tại mỗi nhà người dân Khmer, gồm: lễ
đặt cơm vắt (Banh canh banh), lễ cúng ông bà
(Banh Sen Đôn-ta), lễ hội (Banh phchum banh) và
lễ tiễn ông bà (Banh chuônh Đôn-ta).
Một là, nghi thức Lễ đặt cơm vắt (Banh canh
banh)
Lễ đặt cơm vắt được tổ chức tại chùa. Các vị sư
sãi, à cha phân công cho từng nhà, từng tổ (gọi
là Vênh) thay phiên nhau đem gạo nếp, thực
phẩm, nhang đèn, tiền bạc về chùa để tổ chức
nấu nướng và cúng liên tục trong thời gian 15
ngày. Mỗi ngày nấu nhiều mâm cơm, đặc biệt
có một mâm cơm được vắt thành từng viên tròn
bằng trái cam – người Khmer gọi là Bai banh
(cơm vắt). Theo các vị chức sắc ở phum, sóc thì
từ Bai banh bắt nguồn từ phạm ngữ Banh-đa, có
nghĩa là phần cơm dâng cúng cho người đã chết.
Cơm vắt (Bai banh) được đặt trong mâm cùng
với bánh trái, thức ăn, thức uống đem lên nhà
hội (Sala) cúng Tam Bảo, có sự chứng kiến,
tụng kinh của sư sãi nhằm cầu phước cho linh
hồn những người trong họ tộc đã quá cố. Sau
đó, người ta đem cơm vắt ra ngoài cúng cho ma
quỷ. Lễ đặt cơm vắt được cúng liên tục tại chùa
trong 15 ngày như thế.
Hai là, nghi thức Lễ cúng ông bà (Banh Sen
Đôn-ta)
Lễ cúng ông bà được tổ chức vào ngày cuối của
thời gian Lễ đặt cơm vắt (ngày 30/8 AL) và vào
chiều cùng ngày, sau khi cúng trên chùa. Nghi lễ
này được tổ chức tại mỗi gia đình người dân tộc
Khmer. Trước đó, từng nhà dọn dẹp, trang trí
sạch đẹp. Trong ngày cúng ông bà này, mỗi gia
đình chuẩn bị một mâm cơm thịnh soạn, có hoa
quả, nhang đèn rồi mời họ hàng và gia đình
sum họp đầy đủ cùng nhau cúng vái, mời linh
hồn những người trong họ tộc đã quá cố về ăn
uống. Chủ hộ khấn vái ba lần, mỗi lần rót trà,
rượu và gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén,
tiếp đó là đem ra sân, để cạnh hàng rào nơi sạch
sẽ và đốt nhang mời ma quỷ cùng về ăn. Vì theo
người Khmer, những linh hồn ma quỷ ấy đã dẫn
dắt ông bà của họ về nhà nhưng lại không dám
lên ăn chung mâm nên họ phải mang ra ngoài
cho ăn riêng. Họ khấn vái, mời ông bà, dòng họ
quá cố và ma quỷ ở lại ăn uống, vui chơi trong
ngày lễ.
Ba là, lễ hội Banh Phchum Banh
Theo nghiên cứu của Trần Văn Bổn, trong
quyển sách Một số lễ tục dân gian người Khmer
Đồng bằng sông Cửu Long cho rằng, lễ hội này
có nơi còn gọi Lễ Hội linh. Lễ này được tổ chức
linh đình tại chùa, tất cả các gia đình trong
phum, sóc đều nấu một mâm cơm thật tươm tất
mang đi chùa cúng vào ngày 30 tháng 8 AL.
Người Khmer quan niệm, ngày này là ngày hội
những linh hồn người thân đã quá cố hội tụ về
chùa. Trước khi đem mâm cơm đến chùa, gia
chủ khấn vái bàn thờ tổ tiên trong gia đình. Bên
cạnh đó, người ta cũng có nhiều mâm cơm vắt
(Bai banh) để cúng cho ma quỷ. Sau đó, gia
đình, họ tộc, bạn bè (có nhà mời bạn bè là người
Kinh láng giềng) cùng nhau ăn uống để đón
mừng Lễ. Tại chùa, các gia đình mời các vị sư
tụng kinh cầu siêu và nhận hồng phúc mà chúng
con dâng cúng để sớm được siêu thoát.
Bốn là, lễ tiễn đưa ông bà (Banh chuônh Đôn-
ta)
Lễ tiễn đưa ông bà được tổ chức vào ngày cuối
cùng tại mỗi gia đình. Mỗi gia đình đều làm một
chiếc thuyền bằng bẹ chuối, dài từ 50 đến 70cm,
trang trí cờ phướn màu sắc rực rỡ. Sau khi nấu
mâm cơm thịnh soạn, họ chuẩn bị bốn chén
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
33
cơm, gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén rồi
khấn vái và mang ra đặt trên thuyền, cùng với
lúa, gạo, muối, đậu, bánh trái Chủ gia đình
đem thả trên sông hoặc kênh rạch, mé ruộng gần
nhà, nhằm đưa tiễn ông bà và ma quỷ cùng trở
về âm phủ, sau đó, tập trung về nhà cùng quây
quần ăn uống, vui chơi với gia đình, họ hàng, bè
bạn. Đến đây xem như lễ hội Sen Đôn-ta kết
thúc. Ngày nay, lễ hội Sen Đôn-ta được người
Khmer tổ chức với thời gian ngắn hơn, trong ba
ngày chính:
Ngày thứ nhất (ngày cúng tiếp đón): Mỗi gia đình
đều dọn dẹp nhà cửa khang trang, lau chùi bàn thờ
tổ tiên sạch sẽ ; sau đó, dọn mâm cơm, bánh trái,
rượu trà, mời các thành viên trong gia đình
cùng đốt nhang, đèn, khấn vái mời linh hồn ông
bà và người quá cố về ăn uống cùng con cháu.
Đến chiều, mọi người ăn mặc tươm tất, tiếp tục
dọn mâm cơm mới cúng ông bà rồi mời linh hồn
ông bà cùng đến chùa nghe sư sãi tụng kinh cầu
siêu và thuyết pháp cho đến tối. Ngoài ra, các vị à
cha lấy những nắm cơm vắt đựng trên mâm cúng
Tam Bảo, mời sư sãi tụng kinh cầu siêu cho linh
hồn những người quá cố, rồi đem ra ngoài để
chung quanh chánh điện cúng cho những vong
hồn cô đơn, không có con cháu.
Ngày thứ hai (ngày cúng chính): Vào buổi trưa,
bà con người Khmer chuẩn bị mâm cơm cùng
bánh, trái mang vào chùa để tổ chức cúng chính
(cúng tập thể). Sau khi được các vị sư tụng kinh
cầu siêu cho tất cả các linh hồn ông bà của mọi
nhà trong phum, sóc, bà con Phật tử cùng ăn
uống, trao đổi kinh nghiệm trong công việc đồng
áng và vui chơi tại chùa. Buổi chiều, họ rước linh
hồn ông bà về nhà, làm mâm cơm mới để cúng và
mời ông bà ở lại chứng kiến cuộc sống sung túc
của con cháu.
Ngày thứ ba (ngày cúng tiễn): Mỗi nhà, bà con
Khmer chuẩn bị một mâm cơm, họ mời vài vị sư
sãi cùng họ hàng, thân tộc trong phum, sóc đến
nhà tụng kinh cầu siêu để tiễn đưa linh hồn người
quá cố. Riêng phần chuẩn bị cho ông bà, người
thân quá cố, bà con làm chiếc thuyền bằng bẹ
chuối, có gắn thêm cờ phướn, hai hình nộm
(tượng trưng cho tổ tiên) và các lễ vật cúng, mỗi
thứ một ít, có cả các gói gạo, muối, quần áo, tiền,
vàng mã rồi người nhà thắp nhang đèn và mang
thuyền thả dưới dòng sông hay kênh rạch gần nhà
để đưa tiễn ông bà và những người thân quá cố về
lại thế giới bên kia.
Có thể nói, lễ hội Sen Đôn-ta của bà con người
Khmer mang ý nghĩa rất sâu sắc về lòng hiếu
kính, tưởng nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng
dục của ông bà, cha mẹ, những người quá cố đối
với con cháu. Ngoài ra, Lễ này còn thể hiện nét
đẹp truyền thống của đời sống văn hóa tinh thần
gắn với các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trong
ngôi chùa Khmer Nam bộ.
3. NHỮNG GIÁ TRỊ TRIẾT LÝ NHÂN
SINH TRONG LỄ HỘI SEN ĐÔN-TA
CỦA NGƯỜI KHMER
Từ xa xưa, đồng bào Khmer cho rằng, ngoài thế
giới hiện hữu còn có thế giới linh hồn; con người
chỉ chết đi về thể xác, còn linh hồn thì vẫn tồn tại
ở cõi vĩnh hằng. Xuất phát từ đó, theo phong tục
của đồng bào Khmer Nam bộ, hàng năm cứ vào
ngày 29 tháng 8 đến ngày mùng 01 tháng 9 AL,
bà con lại nô nức tổ chức lễ Sen Đôn-ta hay gọi là
lễ cúng ông bà nhằm tưởng nhớ đến công ơn và
cầu phước cho linh hồn của các bậc sinh thành,
những người trong thân tộc quá cố và tri ân tổ tiên
đã khai phá đất đai, phù hộ cho phum, sóc được
bình an, thịnh vượng. Lễ hội thể hiện được truyền
thống đạo lý “cây có cội, nước có nguồn” của
cộng đồng dân tộc Việt Nam, mang tính nhân văn
và tính giáo dục đạo đức sâu sắc. Điều này còn
cho thấy, đạo đức Phật giáo và đạo đức xã hội vốn
có sự tương đồng và tương quan sâu sắc, tạo nền
tảng đạo đức xã hội, duy trì lối sống tốt đẹp của
người Khmer ở các phum, sóc. Lễ hội Sen Đôn-ta
là lễ hội lớn trong năm, mang màu sắc tín ngưỡng
dân gian xen lẫn tôn giáo, chứa đựng nhiều yếu tố
tích cực, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống
của dân tộc, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Triết lý
nhân sinh nổi bật nhất của Lễ hội Sen Đôn-ta là tư
tưởng hiếu đạo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
34
Trong hầu hết kinh sách của nhà chùa Khmer đều
ghi lại rằng, từ khi được sinh ra cho đến khi
trưởng thành, con cái nhất định phải có bổn phận
báo hiếu đối với cha mẹ mình. Bổn phận, tiếng
Khmer có nghĩa là Phia-ra-ci, đó là những nhiệm
vụ được quy định khi con người bước vào những
vị trí xã hội. Có nhiều bổn phận khác nhau đối với
các vị trí xã hội khác nhau như: cha mẹ đối với
con cái, con cái đối với cha mẹ, học trò đối với
người thầy, mê phum hay mê sóc đối với bà con
trong phum, sóc và ngược lại bổn phận của bà con
đối với mê phum, mê sóc, bổn phận của người
dân đối với đất nước, Báo hiếu, tiếng Khmer có
nghĩa là Ka-ta-nhu, là việc thực hiện bổn phận của
con cái đối với cha mẹ. Để thực hiện những bổn
phận của mình, người con không chỉ phải biết và
hiểu rõ bổn phận của bản thân đối với cha mẹ mà
còn phải biết về những bổn phận của cha mẹ đối
với bản thân mình, để từ đó, giúp cha mẹ thực
hiện bổn phận đối với con cái. Đó cũng là một
việc làm có hiếu với cha mẹ, bởi vì đã làm điều
tốt, làm cho cha mẹ vui lòng.
Đức Phật Thích ca lúc còn tại thế, khi thuyết pháp
về công ơn cha mẹ được ghi lại trong bộ Kinh
Tăng Chi Bộ, thuộc Tạng Kinh Pali, đã dạy: "Có
hai hạng người, này các Tỳ kheo, ta nói không thể
trả ơn được. Thế nào là hai? Đó là Mẹ và cha.
Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỳ kheo, nếu
một bên vai cõng cha, làm vậy suốt 100 năm cho
đến 100 tuổi. Như vậy, này các Tỳ kheo, cũng
chưa làm đủ hay trả ơn đủ cho mẹ và cha. Nếu
đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dù tại
đấy, mẹ cha có vãi đại tiện, tiểu tiện, dù như vậy,
này các Tỳ kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ
mẹ và cha...". Ngài giải thích, vì sao công ơn cha
mẹ đối với con cái to lớn đến thế: "Vì cớ sao? Vì
rằng, này các Tỳ kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho
con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới
thiệu chúng vào đời này" (Thích Minh Châu,
2003, tr. 75).Đức Phật cũng nêu rõ giới hạn của
việc báo đáp cha mẹ bằng đời sống vật chất rằng,
“Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng,
cúng dường bằng của cải vật chất, tiền bạc thì
không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ. Nhưng những
ai đối với cha mẹ không có lòng tin thì khuyến
khích, hướng dẫn cha mẹ an trú vào lòng tin; đối
với cha mẹ theo ác nghiệp thì khuyến khích,
hướng dẫn cha mẹ an trú vào thiện nghiệp; đối với
cha mẹ tham thì khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ
an trú vào bố thí; đối với cha mẹ theo tà kiến, ác
kiến thì khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ an trú
vào chánh kiến, trí tuệ. Như thế là làm đủ và trả
ơn đủ cho cha mẹ” (Thích Minh Châu, 2003, tr.
75). Công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ
rộng lớn như trời biển, làm sao con cái có thể đáp
đền bằng những giá trị tầm thường như tiền bạc,
của cải vật chất. Của cải vật chất không thể so
sánh được với những tình cảm thiêng liêng quý
báu mà cha mẹ dành cho con. Vì vậy, để đền đáp
công ơn cha mẹ, ngoài việc kính yêu, hiếu thuận
và phụng dưỡng, con cái phải hết lòng quan tâm
cha mẹ về mặt tinh thần, chăm lo đời sống tâm
linh của cha mẹ, chỉ như thế mới có thể báo hiếu
một cách trọn vẹn. Ngoài việc lo cho cha mẹ từng
miếng ăn, giấc ngủ và làm cho cha mẹ sống vui vẻ
hạnh phúc, người con cần phải biết hướng cha mẹ
đi trên con đường lành. Đó là lo cho cha mẹ trong
đời sống hiện tại và tương lai, lo cho cha mẹ lúc
sinh tiền và cả sau khi khuất bóng. Người con
khuyến khích, hướng dẫn cha mẹ có cuộc sống
chơn chánh để hiện tại được an lạc, hoan hỉ, hạnh
phúc trong đời sống vị lai. Nếu cha mẹ không có
chánh tín thì người con giúp cha mẹ có chánh tín,
nếu cha mẹ không có chính kiến thì người con
giúp cha mẹ có chính kiến, nếu cha mẹ sống tà
mạng, tà nghiệp thì người con hướng cha mẹ về
với chánh mạng, chánh nghiệp Cha mẹ không
tin Tam bảo thì người con hướng dẫn cha mẹ kính
tin, giúp cha mẹ quay về nương tựa Tam bảo.
Người con chẳng những giúp cha mẹ tạo nhân
duyên lành để có được đời sống an lạc trong hiện
tại và vị lai mà còn có thể khuyến khích, hướng
dẫn cha mẹ tu tập, hướng đến con đường giác ngộ,
giải thoát, đó chính là tột cùng của sự báo hiếu.
Đức Phật đã từng dạy về phước báo hiếu rằng,
“những gia đình nào có con cái hiếu thảo với cha
mẹ, những gia đình ấy được chấp nhận ngang
bằng với Phạm Thiên. Những gia đình nào, ở đó
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
35
các con cái hiếu thảo với cha mẹ, những gia đình
ấy được chấp nhận như các bậc Đạo sư thời xưa.
Những gia đình nào, ở đó các con cái hiếu thảo
với cha mẹ, những gia đình ấy xứng đáng được
cúng dường” (Thích Minh Châu, 2003). Theo
quan niệm của Hindu giáo, Phạm Thiên hay Đại
Phạm Thiên là vị thần sáng tạo của vũ trụ, giống
như Thượng đế hay Sáng tạo chủ. Vị thần Brahma
là một trong ba vị thần nổi tiếng của đạo Hindu,
hai vị còn lại là thần Vishnu và thần Shiva.
Brahma là cha của Manu, con người đầu tiên trên
thế gian và từ đó loài người được sinh ra. Do đó,
Phạm Thiên được tôn thờ như một đấng sáng tạo
và sinh ra loài người. Theo Đức Phật, trong gia
đình mà con cái biết hiếu thảo với cha mẹ thì gia
đình đó sẽ được phước báo tốt, sẽ được tái sinh
lên các tầng trời sắc giới. Trong Tiểu bộ
kinh (kinh Nipata), Đức Phật dạy “Thờ cha mẹ
đúng pháp/ Buôn bán đúng (chơn chánh), thật thà/
Gia chủ không phóng dật/ Được sinh Tự Quang
Thiên”. Con cái phụng dưỡng cha mẹ bằng đời
sống chơn chánh (chánh mạng), hành động, việc
làm, nghề nghiệp chơn chánh (chánh nghiệp), đời
sống tinh cần không phóng dật, nỗ lực làm lành,
lánh dữ, tu tập các thiện pháp, đoạn trừ các ác
pháp thì sau khi mạng chung sẽ được sinh lên cõi
Tự Quang Thiên, là nơi an lạc. Người Khmer rất
tin tưởng và tôn sùng đạo Phật. Những lời răn dạy
trong Kinh Phật luôn được họ khắc ghi sâu sắc.
Chính vì lẽ đó, người Khmer quan niệm rằng, con
cái phải luôn làm tròn năm bổn phận báo hiếu đối
với cha mẹ mà nó thể hiện như là triết lý nhân
sinh trong lễ hội Sen Đôn-ta, đó là:
Thứ nhất, phụng dưỡng cha mẹ (Bhavana)
Đối với những người con hiện còn cha mẹ đang
sống trên đời thì phải hết lòng cung kính, tôn
trọng cha mẹ, không làm cha mẹ buồn khổ; những
lúc họ bệnh tật thì phải cung phụng ăn uống,
thuốc thang, chỗ ngủ, y phục... Cũng giống như
dân tộc Việt, người Khmer quan niệm chăm lo
cho cha mẹ về mặt vật chất là thực hiện đạo hiếu
dưỡng. Người con phải dâng cơm, rót nước, quạt
nồng ấp lạnh lúc cha mẹ bệnh tật hay tuổi già
bóng xế. Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là sự hiếu
tâm. Người con phải thương yêu cha mẹ bằng cả
tấm lòng và sinh mệnh của mình. Một người con
chí hiếu là người luôn mang tinh thần, tư tưởng ấy
khi cha mẹ còn hiện tiền hay ngay cả khi cha mẹ
đã mất.
Thứ hai, làm việc thay thế cho cha mẹ (Kicca
kavana)
Trong quan niệm nhân sinh của người Khmer
Nam bộ, khi con cái trưởng thành thì phải gánh
vác tất cả những công việc mà trước đây cha mẹ
làm. Đó là công nuôi nấng, dưỡng dục. Cha mẹ
phải gánh bao khó nhọc, vất vả, gánh chịu mọi
điều vì con cái. Chính vì vậy, con cái trong gia
đình cần phải làm thay mọi việc để cha mẹ mình
có thời gian nghỉ ngơi, thụ hưởng những ngày
tháng nhàn rỗi cuối đời. Con cái không làm việc
đó xem như bất hiếu với cha mẹ.
Ba là, gìn giữ gia phong tốt đẹp (Kùlavam
sathapana)
Người Khmer quan niệm, người con hiếu thảo là
người con phải biết gìn giữ gia phong đạo đức tốt
đẹp, người con phải phát huy những giá trị truyền
thống tốt đẹp của gia đình, gia tộc, không được vì
bản thân mà có những hành vi xấu xa, vượt ra
những chuẩn mực đạo đức, gia phong của gia
đình, dòng họ. Khi đến tuổi trưởng thành thì
người con phải lấy vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái
để giữ gìn và duy trì nòi giống của dòng tộc.
Bốn là, bảo quản tốt tài sản thừa tự (Dàyai
jàpati pajjana)
Người Khmer cho rằng, cha mẹ phải có bổn phận
với con cái. Khi con cái lập gia đình, nếu các con
ra ở riêng thì cha mẹ phải góp vốn cho con để xây
dựng nhà cửa và có vốn làm ăn. Vốn ở đây tùy
thuộc vào khả năng kinh tế của cha mẹ, nếu cha
mẹ giàu có, khá giả thì có thể cho con tài sản, tiền
bạc, nếu nghèo khó thì có thể cho cây, lá, dụng cụ
gia dụng trong nhà,... Do đó, họ cho rằng, những
tài sản của gia đình là nhờ công sức, mồ hôi và
nước mắt của cha mẹ tạo dựng nên. Vì vậy, bổn
phận làm con khi được thừa hưởng những tài sản
do cha mẹ để lại cần phải bảo quản tốt tài sản ấy
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
36
và làm cho chúng sinh sôi nảy nở. Đó là biểu hiện
sự hiếu thảo đối với cha mẹ.
Năm là, tạo phước hồi hướng khi cha mẹ đã quá
vãng (Đakkinànuppadana)
Đối với những cha mẹ đã quá vãng, con cái phải
tạo thật nhiều công đức để hồi hướng phần công
đức đó đến cha mẹ, vì nếu như cha mẹ đã quá cố
không may tái sanh vào cõi khổ, theo phước mà
người con đã hồi hướng, họ sẽ mau thoát ra cõi
khổ để tái sinh ở cõi lành. Theo truyền thống của
người Khmer, khi cha hoặc mẹ mất, trong gia
đình sẽ chọn ra một người con trai để tu trước lửa.
Việc tu được thực hiện ngay tại chỗ thiêu người
quá cố, ngay sau khi các nghi thức tang ma được
thực hiện xong. Người con được chọn thường là
chưa lập gia đình, các vị sư sẽ xuống tóc và thay
đổi y phục cho người đi tu. Sau đó, người đi tu
được đưa lên chánh điện của chùa để thực hiện lời
tuyên thệ và nghe giảng các điều răn. Thời gian tu
trước lửa tùy theo điều kiện của mỗi người. Có
người chỉ tu trong vòng 24 giờ, nhưng cũng có
người tu 7 ngày hoặc 3 tháng. Tu trước lửa không
phải nhằm giải thoát cho người xuống tóc mà là
hướng đến yếu tố gột rửa, hóa giải tội lỗi của
người đã khuất để nhằm báo đáp công ơn sinh
thành, dưỡng dục.
Có thể nói, người Khmer rất xem trọng việc báo
hiếu. Chữ “hiếu” được truyền tải trong Lễ Sen
Đôn-ta là bài học hiếu đạo của mỗi người đối với
cả người sống và người đã khuất, thậm chí người
đã khuất là tổ tiên, ông bà từ bao nhiêu đời trước,
rộng hơn nữa là những người đã chết, cô quả
không người cúng tế. Họ quan niệm, kiếp này,
con người sống ở trần gian làm nhiều việc thiện
thì chết sẽ được lên các cõi trời, còn làm nhiều
điều ác thì khi chết sẽ bị giam cầm nơi địa ngục...
Hằng năm, cứ vào thời gian từ 15 đến 30 tháng 8
AL, Diêm Vương xá tội vong nhân, những vong
hồn đói khát này sau khi rời ngục tối tìm đến các
chùa chiền để hưởng vật thực của con cháu cúng
kiến. Nhân mùa lễ Sen Đôn-ta, mọi người Khmer
trong phum, sóc mang thức ăn và bánh trái ngon
đến chùa, nhờ các nhà sư tụng kinh cầu nguyện
cho vong hồn người thân quá cố sớm siêu thoát,
đầu thai kiếp khác được phước báo sung túc hơn.
Theo phong tục của người Khmer trước đây, lễ
Sen Đôn-ta kéo dài trong nửa tháng, khi công việc
gieo cấy ngoài đồng đã xong. Trong những ngày
này, từ lúc sớm tinh mơ, khi trời chưa rạng sáng
(khoảng từ 3- 4 giờ sáng), từng nhà, mọi người
chuẩn bị mâm cơm cùng thức ăn và bánh trái
ngon mang đến chùa, nhờ sư sãi tụng kinh cầu
nguyện mọi điều tốt lành cho vong hồn những
người thân đã mất, sau đó, họ rải cơm vắt ba vòng
bên trong chánh điện của chùa để cúng cho những
vong hồn cô đơn, không có con cháu. Họ quan
niệm rằng, người đã khuất sẽ đi hết chùa này đến
chùa khác để nhận thức ăn mà con cháu dâng
cúng. Tương truyền rằng, nếu gia đình, con cháu
nào không mang thức ăn, bánh trái vào chùa cúng
cho người đã khuất thì gia đạo sẽ không được
bình an, chuyện làm ăn không được thuận lợi, gia
đình sẽ không sung túc, thậm chí sẽ “không có cái
ăn”. Chính quan niệm này là một lời răn dạy, một
triết lý nghiêm khắc mà bất kỳ một người con,
người cháu nào trong cộng đồng Khmer cũng phải
thực hiện lòng hiếu thảo của mình để tạo phước
cho bản thân, cho gia đình và dòng họ. Do đó, báo
hiếu là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người, như
lời Đức Phật đã răn dạy “dù là tại gia hay xuất
gia, dù là Thanh Văn hay Chư Phật đều có bổn
phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm phật”.
Ngày nay, do quá trình cộng cư với các dân tộc
anh em cùng với quá trình giao lưu văn hóa và sự
phát triển của xã hội, đồng bào Khmer tổ chức lễ
Sen Đôn-ta chỉ trong ba ngày. Tuy nhiên, dù thời
gian tổ chức có rút ngắn lại so với truyền thống
trước đây, nhưng triết lý hiếu đạo vẫn còn duy trì.
Theo đó, trong ngày đầu là ngày cúng tiếp đón thì
vào buổi sáng, mọi người trang hoàng lại bàn thờ
Phật trong nhà, dọn dẹp một giường thờ với
mùng, mền, chiếu, gối và bộ quần áo mới để rước
ông bà về dự. Khi dọn xong mâm cơm cùng thức
ăn, trà rượu và bánh trái ngon với bốn chén cơm
và bốn đôi đũa để bốn góc giường thờ, gia chủ
mời họ hàng thân tộc trong phum, sóc đến thắp
nhang đèn cúng bái. Quanh mâm cơm cúng, mọi
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
37
người cùng tập trung quanh giường thờ, phụ nữ
ngồi xếp chân sang một bên, đàn ông ngồi chồm
hổm, cùng chắp tay lạy và đọc kinh cầu nguyện
cho vong hồn những người thân quá cố về hưởng
vật thực. Sau ba lần rót trà rượu khấn vái, chủ nhà
gắp thức ăn mỗi món một ít lên bốn chén cơm, rót
một chút rượu và trà cúng, xong mang ra đặt ở
bốn góc của hàng rào chung quanh nhà, mỗi nơi
cắm một nén nhang mời vong hồn ông bà về dự lễ
cùng con cháu. Buổi chiều, mọi người trong nhà
ăn mặc đẹp, dọn mâm cơm cùng thức ăn mới cúng
ông bà, đủ ba lần rót trà rượu khấn vái, chủ nhà
mời vong hồn ông bà cùng đến chùa nghe nhà sư
tụng kinh cầu siêu và thuyết pháp cho đến tối.
Trong lễ Sen Đôn-ta, những món ăn gần gũi, thân
thiết với đời thường như sản vật quê hương, trái
cây vườn nhà, gạo nếp thơm được bàn tay khéo
léo của những người phụ nữ trong gia đình chế
biến thành những món ăn có giá trị truyền thống
đặc sắc của dân tộc như bánh tét (Num chruôt),
bánh nếp (Num sêt), bánh ít (Num toi). Ngoài ra,
món “cơm nếp trộn mè đen” ăn với chuối cao chín
và có cả bánh in thường được bà con phật tử làm
mang cúng dường chư tăng và đãi khách viếng
chùa. Đó là những sản phẩm do bà con lao động,
sản xuất mới có. Bà con làm cúng ông bà tại nhà,
vừa mang đến chùa cúng dường chư tăng. Mọi
người coi như thành quả lao động, ai cũng rất quý
trọng. Có thể khẳng định, dù xưa hay nay, dù là
truyền thống hay đương đại, tư tưởng hiếu đạo
vẫn là triết lý xuyên suốt và có sức răn dạy vô
cùng mãnh liệt đối với mọi người dân Khmer
trong việc thực hiện bổn phận báo hiếu với tổ tiên,
ông bà, cha mẹ mình, được truyền dạy từ thế hệ
này sang thế hệ sau. Tư tưởng này còn thể hiện
trong ngày cuối cùng lễ hội, khi từng nhà làm tàu
bè bằng bẹ chuối hoặc bẹ cau, trang trí thật lộng
lẫy với hình cá sấu, có treo cờ phướn hình tam
giác, họ đặt muối, gạo, bánh trái, nhang đèn rồi
mang thả ra sông hoặc kênh, mương hay con rạch
gần nơi ở của mình với quan niệm đưa người quá
cố được trở về cõi âm một cách yên bình, suông
sẻ để tiếp tục hưởng phước, có một cuộc sống đầy
đủ hơn cả khi còn sống.
Triết lý nhân sinh trong Lễ Sen Đôn-ta còn thể
hiện tính nhân bản của người Khmer, thể hiện qua
hình thức Phchumbanh (nghĩa là hội cơm nắm,
cơm vắt) với những hành động cụ thể của bà con.
Chẳng hạn, vào buổi tối của ngày cúng đón tiếp,
các vị à cha lấy những nắm cơm vắt đựng trên
mâm cúng Tam Bảo của mọi nhà dâng lên chùa
trong ngày để đem ra ngoài đặt chung quanh điện
Phật cho những vong hồn cô đơn đang đói khát
ăn, vì những vị này không có con cháu đến chùa
dâng cúng. Phong tục này thể hiện lòng từ bi bác
ái. Sen Đôn-ta không chỉ là ngày lễ báo hiếu của
con cái đối với ông bà, cha mẹ mà còn là ngày lễ
của tình thân, tình người, không phân biệt huyết
thống, giai cấp, già trẻ, giàu nghèo,... Mọi người
sống ở trần thế hướng tới những vong hồn quá cố,
nhà nhà đều mang thức ăn, bánh trái vào chùa,
nhờ các nhà sư tụng kinh, cúng vái. Trong suy
nghĩ và hành động cầu siêu, cúng kiến là cầu
mong không chỉ cho tổ tiên, ông bà mình mà còn
cho tất cả vong hồn quá cố được giải thoát khỏi
đau khổ, được ăn no mặc ấm, đạt tới cảnh giới an
vui ở bên kia thế giới. Quá trình cộng cư dẫn đến
sự giao lưu văn hóa đi liền với quan hệ tình cảm
cộng đồng, quan hệ chủng tộc giữa người Khmer
với người Kinh, Chăm, Hoa trong phạm vi lãnh
thổ chung đã tạo nên sự tiếp biến văn hóa của
người Khmer trong lễ hội Sen Đôn-ta, bởi lẽ, lễ
cầu siêu lại là hơi thở của văn hóa Việt trong đạo
thờ cúng ông bà, khi cha mẹ mất đi thì cầu siêu,
tịnh độ mong cha mẹ được giải thoát, sống an yên
trong cõi cực lạc. Chữ hiếu trong ngày Sen Đôn-ta
không dừng lại ở phạm vi cá nhân, gia đình mà
lan tỏa ra tất cả cộng đồng, không dừng lại ở việc
báo đáp cho ông bà, cha mẹ của chính mình mà
lan rộng ra cả chúng sinh, từ vong linh của người
có thân bằng quyến thuộc cho đến những ai không
có người thân, con cháu cúng kiến. Điều này có ý
nghĩa như tư tưởng “xá tội vong nhân” của người
Việt. Người Khmer quan niệm rằng, dâng cơm
vào chùa, “bố thí”, “làm phúc”, cứu giúp đồng
loại tức là đã làm việc thiện thì núi phúc của họ
càng cao, mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc về lòng
hiếu thảo, thiện nghĩa với ông bà, cha mẹ, với
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
38
cộng đồng xã hội và tránh xa điều ác làm tổn hại
đến sự đoàn kết gắn bó giữa gia đình, dòng tộc,
làng xóm và giữa các dân tộc anh em đang cùng
chung sống.
Không chỉ dừng lại ở tư tưởng hiếu đạo, triết lý
nhân bản, Sen Đôn-ta còn là dịp để bà con Khmer
phát huy tính cộng đồng, đoàn kết, thân ái. Ảnh
hưởng của một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước
đã chi phối việc tổ chức lễ hội, không chỉ thể hiện
ở thời điểm diễn ra lễ hội mà nó còn thể hiện cả ở
những nghi thức, lễ vật mà người Khmer đã chuẩn
bị để đón Sen Đôn-ta, đồng thời, ta thấy dáng dấp
của sự tiếp biến, giao thoa văn hóa và dáng dấp
của cư dân vùng sông nước với nền nông nghiệp
trồng lúa. Lễ hội này vừa mang tính làng xóm,
vừa mang tính mở của một lễ hội cộng đồng. Bởi
lẽ, cứ mỗi dịp Sen Đôn-ta về, người Khmer cùng
nhau quy tụ về chùa, là ngôi nhà chung của cả
phum, sóc, cùng nhau hướng về một đời sống tâm
linh. Trong lễ hội Sen Đôn-ta truyền thống trước
đây, lễ hội kéo dài từ 14 đến 16 ngày. Trong thời
gian này, bà con trong phum, sóc tổ chức phân
công thay phiên nhau mang lễ vật, hoa quả, nhang
đèn, cơm vắt vào chùa cúng, họ có thể phân công
thành từng tổ hoặc từng cụm nhà theo xóm luân
phiên nhau từng ngày để thực hiện nhiệm vụ dâng
lễ vào chùa cho các vị sư à cha tụng kinh, cúng
kiến. Ngày nay, thời gian tổ chức lễ hội được rút
ngắn lại nên bà con Khmer phân công nhau mang
các lễ vật vào chùa, sự phân công ấy thể hiện ở
chỗ, nhà mang bánh tét, nhà dâng nhang đèn, nhà
chuẩn bị cơm nắm, cơm vắt, Sự phân công ấy
thể hiện sự phối hợp nhịp nhàng và tinh thần đoàn
kết sâu sắc của bà con Khmer, phát huy tính cộng
đồng mạnh mẽ trong sinh hoạt tâm linh. Có thể
nói, tính cộng đồng, sự gắn bó của người Khmer
là tình cảm son sắt đã được dày công vun đắp qua
nhiều thế hệ, được thử thách qua những hoàn cảnh
khó khăn để trở thành khối đại đoàn kết keo sơn
bền chặt, góp phần tô điểm thêm cho bức tranh đa
dân tộc tuyệt đẹp ở Nam bộ.
Sen Đôn-ta là lễ hội lớn trong năm của đồng bào
Khmer Nam bộ, là dịp thứ hai trong năm, ngoài
ngày Tết Chol Chnam Thmay, bà con được sum
họp, quây quần bên nhau. Sau khi làm lễ cúng ông
bà xong, họ quây quần bên nhau, tổ chức ăn uống,
rồi cùng nhau hòa vào lời ca, tiếng hát, điệu múa
trong lễ hội Sen Đôn-ta sau một vụ mùa cực nhọc.
Có một điều thú vị là gần như bất kỳ người
Khmer nào cũng mang trong mình một sự nhạy
cảm với âm nhạc và yêu thích âm nhạc. Thông
qua lời ca, điệu múa, họ thể hiện được tính cách
đặc trưng của dân tộc là bình dị, gần gũi, lạc quan,
vui tươi với những động tác tay chân phối hợp di
chuyển nhịp nhàng theo điệu nhạc dân tộc. Người
Khmer sinh ra và lớn lên đã biết múa hát với
nhiều điệu múa như Răm Vông hay còn gọi là
múa Lâm Thôn, Lăm Leo, Saravan, Đặc biệt,
điệu múa Lâm Thôn là điệu múa phổ biến và quen
thuộc nhất với họ, bởi sự gần gũi, bình dân và tính
cộng đồng cao của nó ; bởi động tác múa thoải
mái, thể hiện sự lạc quan, yêu đời pha chút hóm
hỉnh mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của
đồng bào Khmer không chỉ giúp mọi người quên
đi những vất vả trong cuộc sống mà còn thắt chặt
thêm tình đoàn kết trong cộng đồng. Khi tiếng
nhạc vang lên, mọi người cùng uyển chuyển bước
chân theo nhịp điệu, di chuyển thành vòng tròn,
không giới hạn số người tham gia. Thông thường,
trong các dịp lễ hội, người Khmer tổ chức ca hát
và múa Lâm Thôn quanh một bàn tròn, trên bàn
thường bày biện một dĩa hoa quả, có thể có thêm
nén hương và hai ngọn tháp khắc từ thân chuối,
đây là nét văn hóa người Khmer còn lưu giữ mà ít
người nhắc đến. Họ cho rằng, đó là điệu múa của
một vị thần lúc trước đã chỉ dạy tổ tiên nhảy múa
để xua đi mệt nhọc và tà ma quấy rối trong cuộc
sống. Nếu có dịp đến với một ngôi chùa Khmer và
quan sát trong chánh điện, chúng ta sẽ dễ dàng
thấy phía sau lưng tượng Phật Thích ca có khắc
hình tượng một vị nữ thần đang nhảy múa và
chung quanh là các loài quỷ dữ phá hoại Ngài.
Người Khmer cho rằng, chính vị thần này đã nhảy
múa để xua đuổi quỷ dữ, giúp cho Đức Phật thanh
tịnh tu hành. Do đó, điệu múa trở thành một
truyền thống không chỉ có ý nghĩa giải trí mà còn
mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống
tâm linh của người Khmer; đó là xua đuổi ma tà,
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
39
quỹ dữ phá hoại. Múa Lâm Thôn với các động tác
khá đơn giản, chỉ cần nhìn người múa vài lần là
có thể múa theo được. Trong các dịp lễ hội, giao
lưu văn hóa giữa các dân tộc, người Khmer
thường mời vị khách mời người Kinh, người
Hoa... cùng nhau múa Lâm Thôn với động tác
nhịp nhàng theo điệu nhạc. Do đó, đối với đồng
bào Khmer ở tỉnh An Giang, điệu múa Lâm Thôn
còn là một phương tiện giao lưu văn hóa với các
dân tộc, là một hình thức để thắt chặt tình đoàn
kết, hữu nghị giữa các dân tộc cùng cộng cư trên
địa bàn.
Trong sinh hoạt ngày Sen Đôn-ta của người
Khmer còn biểu hiện một giá trị văn hóa vô cùng
độc đáo, đó là lễ hội đua bò. Đây là một môn thể
thao “độc nhất vô nhị”, mang đậm màu sắc dân
gian truyền thống nhưng rất đặc trưng của đồng
bào Khmer ở tỉnh An Giang nên thường được gọi
là Lễ hội đua bò Bảy Núi. Tục đua bò đã có từ lâu
đời. Cuộc đua thường được tổ chức trên ruộng có
nước xâm xấp nên bà con còn gọi là “đua bò
bừa”. Lễ Sen Đôn-ta thường trùng với dịp vừa thu
hoạch xong mùa vụ Thu - Đông. Để tạo không
khí vui chơi, giải trí sau một vụ mùa cực nhọc,
các chủ bò thường tổ chức mang bò của mình ra
thi đấu với nhau xem đôi bò nào khoẻ, bừa giỏi và
chạy nhanh nhất. Theo phong tục của cộng đồng
Khmer, bà con nào trong phum, sóc có bò thường
mang đến để cày bừa các mảnh ruộng của nhà
chùa mà không lấy tiền công nên gọi là “bừa công
quả”. Do đó, để động viên, cổ vũ thêm, đồng thời,
cũng để trả công các chủ bò đã bừa công quả cho
nhà chùa, trong những lần tổ chức đua bò trong
phum, sóc, Sãi cả của chùa thường khen thưởng
cho đôi bò thắng cuộc bằng phần thưởng tinh thần
như sợi dây “Cà tha” có lục lạc đeo ở cổ bò. Đôi
bò nào được nhận phần thưởng này là một món
quà tinh thần vô cùng to lớn và vinh dự cho gia
đình chủ bò trong phum, sóc đó. Đua bò là dịp để
những người đàn ông trong phum, sóc, là những
nhà nông chân lấm tay bùn hằng ngày được trổ tài
dũng cảm, sự khôn khéo của mình trước cộng
đồng và lúc này, họ được tôn vinh là nhân vật
chính của ngày hội. Đua bò có thể thức rất đặc
biệt, không giống bất kỳ môn thể thao nào.
Theo quan niệm của đồng bào Khmer vùng Bảy
Núi, đua bò có một ý nghĩa hết sức đặc biệt.
Người giành được giải cao trong năm không
những mang lại cho chủ nhân của đôi bò số tiền
thưởng khá nhiều mà còn mang đến cho cả phum,
sóc một vinh hạnh, niềm vui, một nghị lực gieo
trồng hứa hẹn đem lại một mùa bội thu. Lễ hội
đua bò như một nét độc đáo mà người Khmer góp
vào sự đa dạng, đặc sắc của nền văn hóa Việt,
giúp chúng ta hiểu nhiều hơn về con người ở một
vùng đất mang đậm dấu ấn đặc sắc của nền văn
minh lúa nước. Lễ hội đua bò đã được nâng cấp
và trở thành một sản phẩm du lịch lễ hội, một
môn thể thao độc đáo riêng có ở tỉnh An Giang.
Từ năm 1992, lễ hội đua bò thu hút hàng chục
nghìn người từ các nơi trong nước lẫn du khách
nước ngoài đến xem. Năm 2003, lễ hội đặc sắc
này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
công nhận là một trong 15 di sản văn hóa phi vật
thể và được Tổng cục Du lịch công nhận là sản
phẩm du lịch.
4. KẾT LUẬN
Lễ hội Sen Đôn-ta mang giá trị triết lý nhân sinh
rất lớn trong việc hình thành nhân cách của người
Khmer Nam bộ qua nhiều thế hệ, tiêu biểu nhất là
lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên, gắn con người
với gia đình và nguồn cội. Qua lễ hội, chúng ta dễ
dàng nhận ra sự gắn kết giữa con người Khmer
với ngôi chùa như một phần không thể tách rời
trong cuộc sống của họ. Đây là nét văn hóa đặc
trưng của đồng bào Khmer. Đối với họ, chùa là
không chỉ là nơi thờ Phật mà còn là nơi thiêng
liêng, nơi gửi gắm niềm tin tuyệt đối, giúp họ
vượt qua nhiều khó khăn, tạo niềm tin để vươn
lên trong cuộc sống. Lễ hội mang nhiều giá trị
nhân sinh sâu sắc, có tầm quan trọng to lớn trong
việc giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống của
người Khmer. Triết lý nhân sinh trong Lễ hội Sen
Đôn-ta mang giá trị và ảnh hưởng tích cực, giúp
con người biết tôn trọng và hiếu đạo với tổ tiên,
ông bà, cha mẹ; biết gắn với cội nguồn, đoàn kết
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 30 - 40
40
với bà con láng giềng, phum, sóc và kết nối với
cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, nhân sinh quan
được thể hiện qua Lễ Sen Đôn-ta vẫn còn bộc lộ
một số hạn chế mà chúng tôi sẽ đề cập trong một
nghiên cứu khác. Để giữ gìn và phát huy những
giá trị cao đẹp của triết lý nhân sinh trong lễ hội,
khắc phục những hạn chế, trước tiên, cần có sự
chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chính
quyền các cấp nhằm giúp người Khmer nhận thức
rõ vị trí, vai trò của mình trong việc giữ gìn
truyền thống của dân tộc, nhìn thấy rõ những giá
trị nhân văn trong Lễ hội Sen Đôn-ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cục Thống kê tỉnh An Giang. (2010). Niên giám
thống kê 2009. An Giang: Nhà xuất bản Cục
thống kê tỉnh An Giang.
Huỳnh Ngọc Thu. (2013). Báo hiếu trong hành vi
tôn giáo của cộng đồng Khmer Nam bộ. Tạp
chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, 16, 53-
59.
Liêu Ngọc Ân. (2013). Vài đặc điểm về đời sống
tâm linh của người Khmer Nam bộ. Tạp chí
Văn hóa – Lịch sử An Giang, 10, 18-20.
Nguyễn Hùng Cường. (2013). Quan niệm về cái
ăn của người Khmer Nam bộ. Tạp chí Văn hóa
– Lịch sử An Giang, 2, 10-13.
Phùng Thị An Na.(2015). Ngôi chùa trong đời
sống người Khmer vùng Tây Nam bộ. Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, 11, 102- 107.
Sơn Phước Hoan. & Sơn Ngọc Sang. (1999).
Truyện kể Khmer, tập 4. Hà Nội: Nhà xuất bản
Giáo dục.
Sơn Nam. (2009). Lịch sử khẩn hoang miền Nam.
TPHCM: Nhà xuất bản Trẻ TP HCM.
Trần Văn Bổn. (1999). Một số lễ tục dân gian
người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long. Hà
Nội: Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.
Thích Minh Châu. (2003). Kinh Tăng Chi Bộ. Hà
Nội: Nhà xuất bản tôn giáo.
Trần Ngọc Thêm. (Tháng 8, 2018). Về triết lý,
triết lý nhân sinh và triết lý nhân sinh của
người Nam Bộ. Bài viết được trình bày tại hội
thảo Quốc tế Triết lý nhân sinh của người dân
Nam bộ, Việt Nam, An Giang, Việt Nam.
Võ Văn Thắng. (2018). Về triết lý, triết lý nhân
sinh và triết lý nhân sinh của người Nam Bộ.
Bài viết được trình bày tại hội thảo Quốc tế
Triết lý nhân sinh của người dân Nam bộ, Việt
Nam, An Giang, Việt Nam.
Võ Văn Thắng., Nguyễn Hùng Cường., &
Nguyễn Thị Ngọc Thơ. (2015). Lễ hội tôn giáo
của người Khmer Tây Nam bộ - Nhìn từ góc
độ giá trị. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 5, 16-
20.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1576048930_04_vo_van_thang_da_chinh_suapdf_2736_2200906.pdf