Tài liệu Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp: VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93
82
Original Article
Theory of Freedom’s Zhuang Zhi: The Perspective of
Limitation of Executive Power
Pham Quang Huy*
Legal Department, Ministry of Finance, 28 Tran Hung Dao, Hai Ba Trung, Hanoi, Vietnam
Received 26 April 2019
Revised 03 June 2019; Accepted 19 September 2019
Abstract: On the basis of the presentation, analyzing the free doctrine of Zhuang Zhi, the author
explains the origin and the rationale for this doctrine as well as the nature of Zhuang Zhi's free
philosophy. At the same time, the author also refers to the philosophy of freedom with the doctrine
of the rule of law, especially the content of executive limitation to freedom.
Keywords: Theory of freedom, Zhuang Zhi, the rule of law.
________
Corresponding author.
E-mail address: phamquanghuy@mof.gov.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4209
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82...
12 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93
82
Original Article
Theory of Freedom’s Zhuang Zhi: The Perspective of
Limitation of Executive Power
Pham Quang Huy*
Legal Department, Ministry of Finance, 28 Tran Hung Dao, Hai Ba Trung, Hanoi, Vietnam
Received 26 April 2019
Revised 03 June 2019; Accepted 19 September 2019
Abstract: On the basis of the presentation, analyzing the free doctrine of Zhuang Zhi, the author
explains the origin and the rationale for this doctrine as well as the nature of Zhuang Zhi's free
philosophy. At the same time, the author also refers to the philosophy of freedom with the doctrine
of the rule of law, especially the content of executive limitation to freedom.
Keywords: Theory of freedom, Zhuang Zhi, the rule of law.
________
Corresponding author.
E-mail address: phamquanghuy@mof.gov.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4209
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93
83
Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và
tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp
Phạm Quang Huy*
Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính, Số 28 Trần Hưng Đạo, Hai Ba Trưng, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 26 tháng 4 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 03 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019
Tóm tắt: Trên cơ sở trình bày, phân tích học thuyết tự do của Trang Tử, tác giả lý giải nguồn gốc
và lý do hình thành học thuyết này cũng như bản chất triết lý tự do của Trang Tử. Đồng thời, tác giả
cũng tham chiếu triết lý tự do của Trang tử và học thuyết nhà nước pháp quyền, đặc biệt là nội dung
giới hạn hành pháp để đảm bảo tự do.
Từ khóa: Triết lý tự do, Trang Tử, pháp quyền.
1. Đặt vấn đề*
Học thuyết tự do của Trang Tử xuất phát sâu
xa từ những tiềm ẩn văn hoá của văn minh triết
học Phương Đông khi mà hàng ngàn năm Nho
giáo thống trị tư tưởng từ Trung Hoa, Nhật Bản,
Triều Tiên và Việt Nam. Nếu điều đó có thể coi
là phần chìm sự ẩn ức của một hệ tư tưởng có
nhiều biến thái và rất sinh động này, thì tác giả
cảm giác những điều ấy như một khát vọng đi
tìm phương thức trị nước, phương thức sống gần
gũi với thiên nhiên, từ đó chế ngự thiên nhiên
bằng cách hoà hợp với nó.
Lâm Ngữ Đường nhận xét khá thâm thuý về
người Trung Hoa “mỗi con người Trung Hoa là
có một ông Khổng bên ngoài và một ông Lão bên
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: phamquanghuy@mof.gov.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4209
trong” [1]. Như vậy, trong bản thân Nho giáo đã
tiềm ẩn những ẩn số không nhỏ của Lão giáo và
cho thấy sự giao lưu học thuyết là không thể
tránh khỏi của các triết gia vĩ đại. Điều này cũng
cho thấy những biến thể tư tưởng không làm lu
mờ sự tương quan của các tư duy lớn.
Bên cạnh đó, tác giả còn cho rằng, nhìn từ
góc độ lịch sử thì việc Việt Nam có ảnh hưởng
văn hoá Trung Hoa là điều chắc chắn. Do đó,
những tìm hiểu này còn xuất phát từ những tìm
tòi lịch sử có lợi cho sự hiểu biết về Việt Nam
cũng như lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tác giả
nhận thấy phong cách sống của các danh nhân
như Nguyễn Công Trứ, hay gần đây là triết gia
Cao Xuân Huy chắc chắn có ảnh hưởng không
nhỏ của học thuyết Lão Trang. Điều này cho thấy
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93
84
văn minh Trung Hoa, qua cảm nhận của các nhân
cách lớn đã trở nên tuyệt vời đến như vậy. Thâm
thuý hơn, sâu sắc hơn và quan trọng hơn cả là
gần với cuộc sống hơn.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, sự ảnh
hưởng văn hoá Trung Hoa, xét riêng từ góc độ
Trang học là phong cách sống tự do, ẩn mình,
sáng tạo của nhiều nhân sĩ trí thức Tây học
nhưng uyên bác Hán học. Có thể kể đến như cố
triết gia Cao Xuân Huy, nhà văn hoá Đào Duy
Anh, nhà văn hoá Hoàng Xuân Hãn trong thời
hiện đại. Quan trọng ở chỗ tác giả rất khâm phục
những nhân cách lớn ấy và có những cố gắng
nhất định để thực hành những điều mà tác gỉa
tâm niệm. Ấy cũng là một lí do không nhỏ để tác
giả theo đuổi đề tài này.
2. Tác giả, tác phẩm và uyên nguyên học
thuyết tự do của Trang Tử
2.1. Tiểu sử Trang tử.
Theo Tư Mã Thiên thì: “Trang Tử người
huyện Mông, tên là Chu. Chu có lần làm lại ở
thành Tất Viên thuộc huyện Mông, đồng thời với
Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Học
thuyết của ông không việc gì không xét đến.
Nhưng cái gốc là theo thuyết của Lão Tử. Ông
làm sách có hơn mời vạn chữ, đại để đều theo lối
ngụ ngôn. Ông làm những thiên Ngư phủ, Đạo
Chích, Khư kíp để chê cười Khổng Tử và làm
sáng tỏ học thuyết của Lão Tử” [2].
Nguyễn Duy Cần theo thuyết của Tư mã
Luận trong “Trang Tử Tống nhơn khảo”, cho
rằng Trang Tử là người nước Tống. Tác giả Tư
mã Luận cũng cho biết Trang Tử sống vào
khoảng Lương Huệ Vương nguyên niên và Triệu
Văn Vương nguyên niên, tương ứng với năm thứ
6 đời Châu Liệt Vương và năm Châu Văn Vương
thứ 17, nghĩa là vào khoảng 370 và 298 trước
Tây lịch kỷ nguyên, đồng với thời của Mạnh Tử,
Huệ Tử bên Đông phương và Aristotle, Zénon,
Epicure bên Tây phương.
Về thân thế, sự nghiệp của Trang Tử cũng
khá mơ hồ. Ngoài những thiên trong Nam Hoa
Kinh mà ông tự trở thành nhân vật đối đáp với
Huệ Tử để bác bỏ học thuyết của học giả danh
gia phái này ra thì chỉ có một thiên trong Sử ký
Tư Mã Thiên là có bàn luận về ông.
Ta thấy rằng học thuyết của ông khởi từ Lão
Tử, và dường như ông cha bao giờ xa rời cái tôn
chỉ ấy. Tôn chỉ “bất ngôn chi giáo” đó đã hoàn
toàn hơn bao giờ hết trong phong cách sống tiêu
diêu, thuận theo tự nhiên, không xu nịnh công
quyền. Đoạn trích Thần Quy đã phần nào thể
hiện được con người và nhân cách của ông.
Xưa Trang Châu chiêm bao thấy mình là b-
ướm, vui phận làm bướm, tự thấy thích chí,
không biết là Châu nữa.
Chợt tỉnh giấc, lại thấy mình là Châu.
Không biết Châu chiêm bao là bướm, hay
bướm chiêm bao là Châu?
Châu và bướm ắt phải có tính phận khác
nhau. Ấy là Vật hoá [3].
Sự nghĩ này đã đưa Đạo đạt lý, đạt tình.
Thông hiểu cái lòng vật hóa của vạn vật. Cảm
được cái tình lồng lộng của nhân sinh. Tất thảy
đều hài hoà trong tư duy của Trang Tử. Cho thấy
một con người học Đạo, hiểu Đạo và hướng tới
chỗ đạt Đạo.
2.2. Tác phẩm Nam Hoa Kinh.
Nam Hoa Kinh tác phẩm duy nhất và cũng là
tác phẩm văn học – triết học bất hủ của Trang
Tử. Sách này có thuyết cho rằng chính có 52
thiên, nhưng truyền đến chúng ta còn 33 thiên,
bản do Quách Tượng san định là phổ thông hơn
cả, và là bản mà tác giả sử dụng trên cơ sở bản
dịch Việt ngữ của ông Thu Giang Nguyễn Duy
Cần. Nam Hoa Kinh được người đời sau chia ra
thành: Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên.
Trong đó, Nội thiên gồm 07 thiên với Tiêu Diêu
Du là thiên khả dĩ thể hiện sâu sắc và tinh túy
hơn cả triết lí tự do tuyệt đối của Trang Tử.
Ngoại thiên gồm 15 thiên; Tạp thiên gồm 11
thiên. Tô Đông Pha đời Tống trong Trang Tử từ
đường ký (dẫn theo Thu Giang Nguyễn Duy Cần,
Trang Tử), cho rằng: Phân biệt các chương, đặt
tên các thiên là do nơi thế tục, không phải bản ý
của Trang Tử.
Như vậy, cũng như Lão Tử, Trang Châu
dường như cho rằng việc viết ra những suy nghĩ
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 85
về Đạo đã đi ngược lại sự thông hiểu Đạo, đi
ngược lại thuyết bất ngôn chi giáo mà các ông
chủ trương. Hai triết gia đã dằn lòng mình để làm
trái lại những gì mình suy nghĩ, điều này thể hiện
ở việc, mỗi triết gia để lại cho đời một cuốn sách,
dường như điều đó, theo các ông, đã là quá lắm,
quá lắm rồi. Nhưng ấy lại là một điều may mắn
cho hậu thế. Bởi các ông đã truyền lại cho đời
sau những suy nghĩ, những cảm nhận về một hệ
thống triết học nhất nguyên, trong đó nguyên lí
tự do tuyệt đối mang ý tứ sâu xa về một phương
thức sống tiêu diêu, phóng khoáng. Điều này sẽ
được bàn kĩ hơn ở phần sau.
Nam Hoa Kinh là tác phẩm mang tính chất
ngụ ngôn, phóng dụ. Văn phong hài hoà, ý tứ.
Tuy rằng việc phân biệt chân nguỵ tư tưởng
Trang Tử là không phải dễ, nhưng điều đó lại
thật sự thú vị. Thu Giang Nguyễn Duy Cần cho
rằng Nội thiên là mang ý vị chân chính của Trang
Châu hơn cả, đặc biệt là thiên Tiêu Diêu Du.
Ngoài ra một số thiên khác trong Ngoại thiên và
Tạp thiên cũng có phong vị Trang Tử còn việc
có phải do chính Trang Tử viết ra không thì đó
là một câu chuyện cần bàn bạc kỹ lưỡng và sẽ
mất khá nhiều thời gian. Theo tác giả thiết nghĩ
thì Trang học cũng như các học phái khác, việc
uyên nguyên ý chỉ thường càng về sau càng bị
sai lạc đi rất nhiều.
Nếu xét Nam Hoa Kinh trên phương diện
văn học, thì quả thật ngôn ngữ trong tác phẩm
nhiều chỗ đã đạt đến tuyệt bút. Dụ, luận gắn kết
với nhau chặt chẽ, tới lui có quy củ. Văn phong
nhàn tản, tiêu diêu, có khí vị của mây gió. Bay
đấy mà trôi đấy. Chảy đấy mà rơi đấy. Hơi văn
có sức sống nảy nở của mùa xuân, có cái giá lạnh
của mùa đông. Đôi lúc lại man mác như thu về.
Có khi lại rực rỡ hè sang. Vạn hoá luân chuyển
luôn luôn không ngừng nghỉ.
2.3. Uyên nguyên triết lý tự do của Trang tử
Triết lí tự do của Trang Tử được thể hiện
bàng bạc trong văn phong của Trang Tử, nhưng
kể đến uyên nguyên sâu xa triết lí ấy, không thể
không nhắc tới học thuyết triết học của Lão Tử
trong Đạo Đức Kinh. Nguồn cội triết lí Trang Tử
nói chung được nhiều học giả cho rằng khởi lên
từ sự học của Lão Tử. Theo đó, “Học thuyết của
ông không có việc gì là không xét đến. Nhưng
gốc là theo thuyết của Lão Tử” [4].
Như vậy, sự học của Lão Tử có thể coi là gốc
của cái học Trang Tử. Nhưng qua bộ óc vĩ đại
của mình, triết gia họ Trang đã thể hiện riêng biệt
ra lối học của mình trong “Nam Hoa Kinh”, sâu
sắc châm biếm bằng những ngụ ngôn hóm hỉnh,
hài hước và ý tứ. Suy ngẫm sự học của Lão cũng
như của Trang, nếu chỉ suy xét theo câu chữ thì
sự nghĩ đó thật là tệ hại. Điều khó là biết thả lòng
theo hơi văn, dốc ruột mình theo tứ, cảm chân ý
của mình theo khí văn, may chăng mới hiểu được
đôi chút tấm lòng của cổ nhân.
Lão Tử người làng Khúc Nhân, Hưng Lệ
huyện Khổ, nước Sở, họ Lý, tên tự là Bá Dương,
tên thuỵ là Đam. Ông là quan sử giữ nhà chứa
sách của nhà Chu. Khổng Tử đến Chu, muốn hỏi
Lão Tử về lễ, Lão Tử nói:
- Những người ông nói đều đã tan xương nát
thịt cả rồi, chỉ còn lời nói của họ thôi. Vả lại,
người quân tử gặp thời thì xe ngựa ngênh ngang,
không gặp thời thì như cỏ bông xoay chuyển. Tôi
nghe nói : Người buôn giỏi thì biết giấu của báu,
khiến người ta thấy dường như không có hàng;
người quân tử có đức tốt thì diện mạo dường như
ngu si. Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái
lòng ham muốn nhiều, cái vẻ hăm hở cùng cái
chí tham lam đi. Những cái đấy đều không có
ích gì cho ông; tôi chỉ bảo ông có thế thôi.
Khổng Tử đi ra, bảo học trò:
- Con chim, ta biết nó bay, con cá ta biết nó
lội, con thú ta biết nó chạy. Đối với loài chạy thì
ta có thể dùng lưới để săn, đối với loài lội thì ta
dùng câu để bắt; đối với loài bay thì ta có thể
dùng tên để bắn; đến như con Rồng cưỡi mây cưỡi
gió lên trời, ta không sao biết được. Hôm nay gặp
Lão Tử, ông ta có lẽ là con Rồng chăng? [5].
Trên đây là những dòng trích dẫn trong Sử
ký Tư Mã Thiên, nó đã cho ta những hiểu biết sơ
khởi về học thuyết của Lão Tử. Ông quan niệm
không làm mà như làm. Tác giả cần trao đổi về
vấn đề này - vấn đề Vô vi nhi vô bất vi - bởi theo
tác giả đây không phải là biểu hiện của chủ nghĩa
xuất thế hay yếm thế. Nếu bàn như vậy thì sự
thực chưa hiểu hết tấm lòng của cổ nhân. Tác giả
thiết nghĩ học thuyết của Lão Tử chỉ gợi mở sự
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93
86
tìm hiểu tự nhiên dưới góc độ nhất nguyên và sau
đó là thuận theo nó. Tư tưởng yếm thế xuất thế
là do người sau hiểu và thực hành theo cách hiểu
những chỉ dạy của Lão Tử. Trong phần sau tác
giả sẽ bàn kĩ hơn nữa vấn đề này.
Về thân thế của Lão Tử, ngoài sự mơ hồ
được viết trong Sử Ký Tư Mã Thiên ở Lão Tử
Truyện được dẫn ra ở trên thì không còn gì khác
trong chính sử. Có lẽ đây cũng là một ẩn ý trong
phong cách sống của triết nhân khi lời ông phô
diễn trong Đạo Đức Kinh chính là sự trở về với
Đạo. Chính vì vậy, ngay cả việc viết ra tác phẩm
triết học bất hủ này thì ông cũng đã dằn lòng
mình, làm trái với lòng minh khi bắt buộc phải
để lại chút danh cho hậu thế.
Phùng Hữu Lan cho rằng cuốn Đạo Đức
Kinh được viết ở vào khoảng sau thời đại của
Huệ Thi và Công tôn Long, nghĩa là sau thời đại
của Khổng Tử khá lâu. Ông lập luận dựa trên cơ
sở đạo vô danh của Lão Tử nhằm phản bác phái
danh gia của hai vị trên, có danh rồi mới xuất
hiện vô danh, do đó tác phẩm triết học của Lão
Tử phải xuất hiện sau những tác phẩm của phái
danh gia. Đó là điều cần xem xét và tìm hiểu kĩ
[6].
Cũng theo ông Phùng Hữu Lan thì có ba giai
đoạn của triết học Đạo gia:
1. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn triết học vị
kỷ của Dương Chu
2. Giai đoạn thứ hai là Lão Tử với tác phẩm
đang bàn luận Đạo Đức Kinh bắt đầu nâng cao
và phổ diễn học thuyết vô danh, đạo thường và
trở lại cái động của Đạo (chương 40)
3. Giai đoạn thứ ba là Nam Hoa Kinh của
Trang Tử, với triết học tự do tuyệt đối, hạnh
phúc tuyệt đối, thuyết Thiên Quân và Vạn Hoá.
Thông qua những câu chuyện ngụ ngôn hài hước
và ý vị trong Nam Hoa Kinh
Theo lí thuyết này thì nguồn gốc sâu xa của
Đạo cũng như triết học của Trang Tử, cần tìm
hiểu ở cả ba giai đoạn nêu trên, thế nhưng theo
tác giả bản thì việc tìm hiểu uyên nguyên triết lí
tự do tuyệt đối của Trang Tử thì sự nghiên cứu
trong học thuyết triết học vô vi nhi trị và Đạo của
Lão Tử trong Đạo Đức Kinh là hợp lí hơn cả. Do
đó, sau đây, tác giả sẽ trình bày hai luận điểm
nêu trên.
a) Đạo
Chúng ta hãy cùng nhau theo dõi thiên đầu
tiên rất tinh hoa và ý tứ như một tuyên ngôn học
phái của Lão Tử: “Đạo khả Đạo, phi thường
Đạo, Danh khả Danh, phi thường Danh”(Đạo
(mà ta) có thể gọi được, không (còn) phải là Đạo
thường, Danh mà ta có thể gọi được, không còn
phải là Danh thường)
Bản thể Đạo chính là nguyên lí tuyệt đối, đó
cũng chính là xương sống tư tởng Lão Tử. Đạo
không thể nắm lấy, sờ thấy được mà phải cảm
nhận bằng trực giác và nhiều khi cả tâm linh nữa.
Trong hơi văn của tác phẩm, ta thấy có điều gì
như sự quay vòng, sự điệp trùng của ngôn ngữ,
điều này khơi gợi khá nhiều trong tâm thức ta khi
đọc và tìm hiểu bản chất của Đạo. Đạo phải
chăng là nguyên lí tuyệt đối dọc và Đức là
nguyên lí tuyệt đối ngang như ở phần trên đã mô
tả trực quan bằng hình ảnh tờ giấy được xoay
theo bốn phương tám hướng. Cái không gian sự
sống dọc ngang này khơi gợi rất nhiều điều trong
suy ngẫm của ta. Sự biến ảo của vũ trụ. Sự khôn
lường của thời gian. Nhưng trong cảm nhận của
tác giả về Đạo Đức Kinh. Tất cả đều quy về Một.
Một chính là Mẹ của Không Thời gian. Đạo lan
toả trong không gian như không khí dưỡng nuôi
trời đất, cỏ cây, muôn vật và loài người. Nó bàng
bạc trong tiềm thức và dường như là khó có thể
nhận ra được. Ý niệm triết học của Lão Tử hướng
tới học thuyết nguyên lí tuyệt đối. Có điều gì
xuyên suốt trong tâm thức của sự sống.
Đạo không bất biến. Đạo biến ảo như thể trò
chơi trốn tìm của cuộc sống. Hiểu được nó không
chỉ có một công việc đọc sách, mà hơn thế là cần
phải sống, lao vào cuộc sống để chiêm nghiệm
ra bản chất đích thực của nó. Cũng như việc
khám phá bản chất đích thực của cuộc sống vậy.
Bên cạnh nhìn vào nội dung, cảm theo cái ý
của ngôn từ, tác giả mong muốn độc giả lưu ý
hơn về văn phong cũng như âm điệu Lão Tử sử
dụng trong việc phô diễn ý tưởng triết học qua
tác phẩm Đạo Đức Kinh. Để ý rằng: Tín ngôn bất
mỹ/Mỹ ngôn bất tín/Thiện giả bất biện/Biện giả
bất thiện/Tri giả bất bác/Bác giả bất tri (Chương
81,sđd, trang 353,354) và Tri giả bất ngôn /Ngôn
giả bất tri (Chương 56,sđd, trang 246, 247).
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 87
Việc sử dụng nghệ thuật điệp ngữ là có dụng ý
trong tuyền tải ý nghĩa của triết thuyết.
Ở đây, tác giả lưu ý độc giả ở chủ ý của Lão
Tử khi tạo ra sự trùng điệp của âm thanh, điều
này tất không phải là ngẫu nhiên ở một tác phẩm
giàu trí tuệ như vậy. Theo tác giả thì bằng việc
tạo ra sự co duỗi, đưa đẩy này của âm thanh đã
khiến cho tạo ra tương hỗ giữa nội dung – ngôn
từ và hình thức thể hiện của văn bản có cùng mục
đích chung là phô diễn chân ý nghĩa của Đạo.
Đây cũng là một ẩn ý sâu xa của Lão Tử trong
mong muốn hậu thế hiểu trúng và hiểu đúng bản
chất thực sự tư tưởng của ông.
Tóm lại, Đạo là nguyên lí tuyệt đối trong t
tởng nhất nguyên của Lão Tử được phổ diễn qua
Đạo Đức Kinh. Tác phẩm triết học này đã thành
công trong việc đưa người đọc tìm hiểu được
thực chất ý tởng của ông, và hơn thế nữa trong
đó ông đã tạo ra những gốc gác tiền đề sâu xa để
hậu thế có thể tìm tòi, phát triển thành một sự học
mới, uyên bác, tinh tế và cũng rất hài hước. Phải
chăng đó chính là sự tiếp nối bởi Trang học.
b) Vô vi nhi trị
Cụ thể triết lý vô vi là: Vi vô vi/ Sự vô sự
(Làm mà không làm/Lo mà “không lo” [7].Trên
đây, là những cổ từ diễn tả đầy đủ hơn cả sự vi
vô vi trong triết học của Lão Tử. Chính sự phô
diễn trong đoạn trích này đã cho ta những ý hiểu
sâu sắc không chỉ ở tư cách bàn luận về một nhân
sinh quan, một thế giới quan mà còn cho ta
những ý vị tinh tuý về sự thâu tóm vạn vật vũ trụ
trong tầm kiểm soát của trí óc con người. Dần
dần trong đoạn dưới, tác giả bản sẽ cố gắng khai
diễn phần nào ý tưởng vô vi và vô vi nhi trị của
Lão Tử.
Chúng ta cần bàn luận với nhau ở phương
diện rộng hơn nữa là với các học phái khác ngoài
Lão Trang đưa ng xét đến trong bản này. Vấn đề
là ở chỗ có nhiều ý hiểu cho rằng các học phái đã
chỉ ra căn nguyên bản thể của con người. Theo
tác giả thì đó chỉ là một mảng của vấn đề. Mảng
tiếp theo ta cần tư duy theo hướng đó là những
phương pháp luận thực hiện mô thức trị nước của
mỗi triết gia.
Nếu Khổng Tử buộc con người ta vào chữ
Lễ, trói kẻ sĩ vào sự Chính Danh, khớp họ vào
cỗ máy của Tam Cương Ngũ Thường thì dường
như là tương hỗ trở lại (chứ không phải tương
phản trở lại – tôi nhấn mạnh), Lão Tử đưa ta sống
thuận theo tự nhiên, thuận theo những gì đã đưa
ng và sẽ tự nhiên tồn tại, ông khuyên ta đừng
sống nghịch lại tự nhiên. Theo ông thì ta nên
thuận theo vòng quay muôn nghìn của Đạo,
nương theo ngọn gió xa xôi vạn dặm của Đức, có
thể hẳn mới là sống, mới là biết sống.
Sự học của Lão Tử thể hiện đặc biệt sâu sắc
qua tác phẩm “Lão Tử” mà người đời sau đã
dùng cái nguyên lí được phổ diễn trong ấy đặt
tên lại là Đạo Đức Kinh (vì Lão Tử dường như
đã không đặt tên cho tác phẩm của mình), tác
phẩm này gồm 81 chương. Những suy ngẫm
trong tác phẩm xoay quanh Đạo và Đức nhưng
thực ra chỉ là Một. Hãy tưởng tượng bạn kẻ một
nét vẽ lên tờ giấy trắng tượng trưng cho triết học
nguyên lí tuyệt đối của Đạo. Khi bạn quay tờ
giấy ấy theo hướng nằm ngang hay bốn phương
tám hướng thì Đạo đã biến ảo thành Đức. Sự
quay vòng của Đạo của triết lí nhất nguyên mà
Lão Tử suy ngẫm không hề giống với những luận
đề tương tự trong Phật học, nó chỉ mang trong
mình nó những ẩn số phát triển của tư duy Phật
học và Thiền học. Đó là điều chúng ta cần lưu ý.
Quay trở lại vấn đề đưa ng bàn là vô vi nhi
trị, ta có thể hiểu đây như thể phương pháp trị
nước mà Lão Tử đưa ra. Làm mà như không làm,
trị mà như không trị. Điều này được Trang Tử về
sau quảng diễn và ngụ ngôn trong Nam Hoa
Kinh khi so sánh phép trị quốc như chăn ngựa,
tựu chung lại là thuận theo tính của chúng, ngừa
những thói xấu của chúng, chứ hoàn toàn không
phải là quan niệm vô chính phủ mà nhiều người
đã gán ghép cho Lão Tử. Đó là một điều đáng
tiếc. Hiểu theo Thu Giang Nguyễn Duy Cần về
vô vi nhi trị ta có thể lược lại mấy ý sau:
1. Mỗi vật đều có tính tự nhiên của chúng,
không thể ép buộc đựợc
2. Thuận theo tự nhiên mà làm
3. Nếu trị thiên hạ mà được như trên, thì tuy
có làm, dân không hay là mình làm.
Như vậy, vô vi nhi trị tựa như thể nương theo
ngọn gió của Đạo, chứ không phải nghịch lại
ngọn gió ấy. Ta nên tưởng tượng Đạo như cây
tre trước ngọn gió lớn. Dù gió có lớn thế nào nhờ
nương theo ngọn gió và cái gốc của cây tre mà
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93
88
cây tre vẫn tồn tại được. Lưu ý rằng điều này
hoàn toàn khác với kiểu sống gió chiều nào che
chiều ấy(tục ngữ Việt Nam). Khác ở chỗ Lão Tử
dạy ta nên sống thuận theo chứ không phải xu
nịnh tự nhiên. Đó là điều căn bản khác.
Vô vi nhi trị quả thực cần hiểu dựa trên
những hiểu biết căn bản về Đạo, một cái là
phương thức, một cái là tiền đề, do đó chúng khó
lòng tách rời nhau ra được. Vô vi nhi trị như thể
cách dòng nước chảy trôi từ khe ngầm sự sống,
nhẹ nhàng thấm sâu mà thành sông thành biển.
Dịu dàng đi qua mà đá núi phải mòn. Sự ví von
này đã được quảng diễn rất hay trong Đạo Đức
Kinh, và sự thật Vô vi nhi trị nên hiểu như vậy.
Vô vi nhi trị nên hiểu ở góc độ sự quảng diễn
của tâm thức Đạo. Chính phương thức Vô vi nhi
trị đã đẩy học thuyết của Lão Tử lên một tầm cao
mới của nhận thức và thực tiễn xử thế cũng như
sử dụng trong trị quốc an dân.
Vô vi nhi trị là kết quả, là thành quả của việc
tư duy Đạo dựa trên góc độ phương pháp luận.
Nếu Đạo là cái khởi thuỷ thì Vô vi nhi trị là cái
tiếp theo, cái cách để thực hiện sự khởi thuỷ âý.
Ta nên hiểu Vô vi nhi trị theo góc độ đi lên, phát
khởi thành từ Đạo, có vậy mới dần ngộ ra cái
chân ý thực tiễn mà Lão Tử muốn phô diễn với
Đời. Chỉ có như vậy thì thực tế Đạo mới được
luân diễn trong cuộc sống chân thực.
Hơn thế nữa Vô vi nhi trị còn thể hiện tầm
nhìn lớn của nhà triết học vĩ đại Lão Tử, ông đã
để lại cho hậu thế một phương thức trị quốc, một
phong cách sống hướng về tự nhiên, thuận theo
tự nhiên. Trong thời đại nguyên tử hiện nay, khi
mà cuộc sống vùn vụt trôI theo cấp số nhân
chóng mặt của thời gian và độ phù phiếm vì thế
cũng nâng theo lên thì suy ngẫm về phương cách
sống ấy quả thật không phải là không hữu ích.
Vô vi nhi trị là một phương thức trị nước mà
Lão Tử chỉ ra dựa trên triết thuyết của minh khởi
từ Đạo.
3. Nội dung triết lý tự do của Trang Tử
3.1. Cơ sở triết học tự nhiên của quan niệm về tự do.
Thiên Tiêu Diêu Du đã thể hiện gần như trọn
vẹn triết lí tự do của Trang Tử, qua đó ông đã
khởi phát học thuyết Đạo và Vô vi nhi trị của Lão
Tử ỏ một phương diện mới: triết lí sống khoáng
đạt của con người thuận theo tự nhiên. Nói khác
đi qua đó ông mô tả sâu sắc cái lẽ tự do của vạn
vật, trong đó bao gồm cả loài người. Bằng những
mẩu chuyện ngụ ngôn rất ý vị, ông đã nhiều lần
đối lập lớn với nhỏ, có với không, trên với dưới,
trước với sau, để dần dần quy về cái lẽ nguyên lí
tuyệt đối của vạn vật. Sự tự hoá của tự nhiên đã
khiến cho Đạo luôn trôi chảy và vững bền.
Phùng Hữu Lan bình về thiên Tiêu Diêu Du:
“Thiên đầu sách Trang Tử nhan đề Tiêu Diêu
Du, là một thiên giản dị, gồm nhiều câu chuyện
vui. Tư tưởng tiềm tàng là có nhiều mức độ khác
nhau trong sự đạt hạnh phúc. Sự phát triển tự do
bản tính mọi người có thể dẫn ta đến một thứ
hạnh phúc tương đối;muốn có hạnh phúc tuyệt
đối, phải có một hiểu biết cao về bản chất sự vật”
[8]. Những lời bình giản dị mà ông Phùng Hữu
Lan đưa ra đã cho thấy chút ít nguồn gốc bản thể
triết lí của Trang Châu. Như vậy trong thiên Tiêu
Diêu Du, Trang Tử đã tìm hiểu bản thể, nguồn
gốc của hạnh phúc tuyệt đối là ở chỗ có tự do
tuyệt đối, tự do được hiểu ở nghĩa thiên hoá ở
vạn vật, trong đó có cả mỗi cá nhân con người.
Ngoài ra, để đạt đến hạnh phúc tuyệt đối thì
con người cần phải hiểu bản chất của sự vật,
sự việc ở những tầm cao vượt qua khỏi bản thể
của sự vật. Hiểu cái sự ở ngoài việc tồn tại của
bản thể đó.
Trong các câu chuyện ngụ ngôn trong Nam
Hoa Kinh, Trang Châu đã trải ý chỉ học thuyết
của mình qua sự to nhỏ của vật, sự ngắn dài của
thời gian, trong ngoài, trên dưới của Trời Đất.
Huyền vi của Đạo là ở chỗ không màng đến
những nơi nhị nguyên ấy, trỏ ra Đạo nằm giữa
những đối lập từ sóng đôi đó. Đạo không có ngắn
dài, không có trước sau, không có to nhỏ, không
có trên dưới, chỉ có Đạo người người biến ảo
trong tự nhiên, thuận theo tự nhiên. Nếu tôn chỉ
học thuyết khởi từ Đạo của Lão Tử thì sự phát
khai đã đến mức huyền diệu và thần bí của tự
nhiên. Bản tính của tự nhiên là mang lại tự do
tuyệt đối của sự vật. Hạnh phúc tuyệt đối nằm
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 89
giữa những sự trái ngược ấy. Và như thế chưa
hẳn là đạt đạo.
Triết lí tự do tuyệt đối do khởi phát từ Đạo
nên những ý vị của nó được diễn giải trong Tiêu
Diêu Du thực là Đạo thông hiểu giữa sự không
sự có, sự trước sự sau, mọi vật đều phát triển theo
cái ý nghĩa, giá trị mà chính tự nhiên nó đã vốn
như thế, đã như thế và sẽ như thế. Tự do tuyệt
đối còn được hiểu theo nghĩa tự nhiên vạn vật đã
tự mình nhận lấy cái trách nhiệm tồn tại trong tự
nhiên, phát triển và biến tháI trong tự nhiên để
phục vụ cho sự biến ảo hợp lý hợp tình của Đạo.
Để hiểu được triết lí tự do tuyệt đối của Trang
Châu ta cần phải hiểu tự uyên nguyên sâu xa học
thuyết của Trang Tử, hiểu được bản chất triết lí
Đạo, vô vi nhi trị của Lão Tử, những điều này
mới căn bản giúp ta hiểu được những ẩn ý suy
ngẫm của cổ nhân.
Việc hiểu như thế nào triết lí tự do tuyệt
đối của Trang Tử sẽ khiến cho ta hiểu hơn ý
nghĩa phương thức trị nước của Trang Châu,
điều này sẽ bàn kĩ ở phần đặt vấn đề tích hợp
giữa triết lí tự do của ông và học thuyết tự do
của Tây phương.
3.2. Quan niệm về tự do
Quan niệm tự do của Trang Tử xuất phát từ
học thuyết Đạo của Lão Tử, tuy nhiên ông đã
phát triển lên thành triết lí tự do tuyệt đối có
nhiều khí vị rất lạ. Ở đây, Trang Châu đã kích
hoạt tối đa học thuyết vô vi của Lão Tử thành
triết lí tự do tuyệt đối và tự do tương đối. Vậy tự
do tuyệt đối và tự do tương đối là gì và khác nhau
như thế nào?
Theo Trang Tử, tự do tuyệt đối là phiêu diêu
như Liệt tử đi mây về gió khi ông viết trong thiên
Liệt Ngữ Khấu. Nhưng nếu hiểu tự do tuyệt đối
như những đạo sĩ đời Tấn – Tuỳ - Đường hiểu và
kích hoạt lên thành trò ma quỷ mà tác giả Ngô
Thừa Ân đã mỉa mai châm biếm trong tác phẩm
văn học bất hủ “Tây du ký” thì như thế hẳn đã
đúng? Chi tiết Liệt Tử đi mây về gió này đã được
các đạo sĩ đời sau triệt để lợi dụng cho thuyết
trường sinh bất lão. Nhưng đó chưa hẳn đã là bản
ý của Trang Tử. Bởi thâm ý của ông là ở chỗ tự
do đã đạt đến độ không ràng buộc gì nữa vào tự
nhiên, một bản thể độc lập hoàn toàn với sự ngoàI
bản thể đó. Để làm được như vậy thì chúng ta cần
thực hiện lối sống vô vi như Lão Tử từng dạy.
Bên cạnh đó tự do tương đối lại là một khía
cạnh khác, ẩn đằng sau tập đại thành của triết
thuyết Trang Tử, bởi tự do tương đối là bước nối
tiếp của thuyết vô vi vô bất vi, sự tiếp nối này cho
ta tới cực đại học thuyết Trang Châu ở tự do tuyệt
đối. Như vậy hai ý niệm về tự do này được triển
khai dựa trên một học thuyết mang tính nhất
nguyên về tư tưởng của Trang Tử. Điều này
gợi cho ta những cảm nghĩ sâu sắc về triết
thuyết của ông.
Để tìm hiểu rõ hơn nữa triết lí tự do tuyệt đối
của Trang Tử, tác giả sẽ cố gắng mô tả học thuyết
phương Tây và phương Đông như cố triết gia
Cao Xuân Huy phân biệt trong tác phẩm Tư
tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu. Triết gia Cao Xuân Huy cho rằng con
đường tư tưởng được chia làm hai nhánh:
phương thức tư duy chủ toàn và chủ biệt. Phương
thức tư duy chủ toàn là cái nhìn tổng quát bản thể
sự vật. Sự vật không phải là số cộng lại các bộ
phận. Tổng thể các bộ phận mới hình thành nên
được sự vật. Ngược lại phương thức tư duy chủ
biệt đưa người ta thiên về triết lí bộ phận, cấu
thành bộ phận có thể suy ra sự vật [14].
Ở đây, tác giả muốn tham chiếu cho triết
thuyết của Trang Tử. Trang Tử đã tư duy từ cái
nhìn bao quát tất cả bản thể của vũ trụ, sự vật
hiện tượng. Và ông đã phát khảI tư tưởng mình
trở nên thành triết thuyết tự do. Mà theo ông tự
do tuyệt đối đến cực đại của nó phảI là tự do
tuyệt đối. Đó mới là giá trị đích thực của tự do.
Nếu phương Đông đi từ sự hoà hợp tự nhiên
và dần dần đẩy thành triết lí tự do thì phương Tây
trong tư tưởng của họ được phát triển và đi lên
từ những cuộc cách mạng. Tóm lại tư duy của
phương Tây đi lên từ sự phát triển về vật chất của
con người dẫn đến những biến đổi tương đương.
Bên cạnh đó tư duy tự do của phương Đông là sự
hoà hợp giữa con người với tự nhiên từ thể xác,
tâm hồn và tư tưởng. Mỗi con đường một khác
nhưng con đường tư tưởng từ Đạo của Lão Tử
đến tự do tuyệt đối của Trang Tử là một sự phát
triển hiếm có trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93
90
Tóm lại, Cao Xuân Huy nhận định về triết lý
tự do của Trang Tử như sau: “Trong trạng thái tự
nhiên con người được hưởng tự do tuyệt đối và
bình đẳng tuyệt đối. Con người phải có tự do
tuyệt đối mới thuận theo tính tự nhiên của mình
để được hưởng hạnh phúc” [9].
3.3. Từ tự do đến vô vi
Nếu Lão Tử với học thuyết Đạo và diễn giảI
thành vô vi vô bất vi, thì Trang Tử lại tư duy theo
đó như một phương thức trị nước vô vi nhi trị.
Xét ở một khía cạnh nào đó, mỗi triết gia tuy
cùng học phái nhưng đã không ngừng tạo ra
những nét riêng biệt về tư tưởng. Ở đây, đó là
triết lí tự do của Trang Tử và vô vi theo cách
nghĩ của ông. Trang Châu suy nghĩ dựa trên hai
phương diện:
Thứ nhất, tự do được hiểu theo nghĩa sống
sát hợp với tự nhiên, thích hợp với tự nhiên, hoà
theo tự nhiên. Từ ý niệm này có thể đẩy lên theo
những tương quan logic khác nhau về học thuyết.
Có cảm nghĩ điều này ông tư duy cho một bản
thể, từ đó suy ra cho bản thể vũ trụ. Học thuyết
của ông vì thế nhuốm màu chủ quan của tư tưởng
tự do cá nhân. Điều này càng lạ lùng khi có đôI
điểm trùng hợp trong tư duy Đông Tây.
Thứ hai, Trang Châu suy xét trên bình diện
phương thức trị nước được thể nghiệm dưới hình
thức vô vi nhi trị. Điểm này có ý trùng khớp và
phát triển lên từ học thuyết chính trị của Lão Tử.
Ông tư duy trên mô thức trị quốc xuất phát từ
việc tôn trọng sự hoà hợp của bản thể với vũ trụ.
Nói khác đi là sự tôn trọng của chính quyền đối
với tự do tuyệt đối của con người. Một điều chắc
chắn đây là điểm trùng hợp khá ngẫu nhiên với
triết lí tự do cá nhân và tiếp sau đó là giới hạn
chính quyền của Tây phương.
Nếu suy nghĩ theo hai quan điểm nêu trên, ta
có cảm giác như đang cố gán ghép học thuyết tự
do tuyệt đối của Trang Châu vào một khía cạnh
mới của học thuyết nhà nước pháp quyền. Không
hẳn là như vậy khi Trang Tử suy nghĩ phát khởi
từ triết thuyết vô vi của Lão Tử và phát triển nó
thành phương thức sống tiêu diêu. Phương Tây
và phương Đông thiết nghĩ chưa hẳn đã tư duy
một cách trùng khít nhưng ít ra đã có một số giao
lưu về mặt tư tưởng. Mọi con đường đều dẫn đến
La Mã. Đó là một câu châm ngôn của người
phương Tây.
4. Từ triết lý tự do của Trang Tử đến việc
nghiên cứu hành pháp trong bối cảnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay
4.1. Tham chiếu triết lý tự do của Trang tử và
học thuyết nhà nước pháp quyền.
Việc suy ngẫm triết lí tự do của Trang Tử
phục vụ cho hành pháp là một ý tưởng mới, lạ
lẫm và nhiều khi là chưa thuyết phục. Chính vì
thế, trước khi tích hợp hai vấn đề nêu trên, thì tác
giả sẽ giải quyết trước tiên câu hỏi sau: (1) triết
lí tự do của Trang Tử có liên quan tới học thuyết
tự do của Tây phương hay không và nếu có thì
như thế nào; (2) sau khi giải quyết câu hỏi trên,
chúng ta sẽ cùng nhau bàn bạc xem việc xuất
phát từ triết lí tự do tuyệt đối của Trang Tử thì
cần làm gì để đảm bảo tự do nếu đứng góc độ
của hành pháp (còn về thuật ngữ “hành pháp”,
tại bài viết này được hiểu trên phương diện công
việc của chính quyền trong việc quản lí xã hội
bằng quyền lực nhà nước).
Triết lí tự do của Trang Tử có liên quan tới
học thuyết tự do của Tây phương hay không. Câu
hỏi này đặt ra nhằm giải quyết vấn đề có hay
không có sự tương quan giữa học thuyết phương
Tây và phương Đông hay chỉ là sự gán ghép của
tư duy con người. Việc tìm hiểu những luận cứ
khoa học nhằm kiến giảI thoả đáng điều này hẳn
nhiên là không phải dễ, tuy nhiên, đó lại là một
tiền đề có lí để tiếp tục trong phương án tìm
nguyên do của sự hạn chế quyền lực nhà nước
(chữ dùng của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung).
Trong tác phẩm cùng tên của mình PGS.TS
Nguyễn Đăng Dung đã cho rằng việc hạn chế
quyền lực là vô cùng cần thiết và ông kiến giải
nguyên nhân của sự hạn chế này chính là việc
đảm bảo tự do cho con người cũng như những
quyền nguyên thuỷ của họ [10].
Lê Đình Chân nhìn nhận nguyên do của sự
hạn chế chánh quyền cũng như nguồn gốc của lý
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 91
thuyết tự do công cộng: “Thiệt ra, khái niệm hạn
chế chánh quyền bắt nguồn ở Thiên chúa
giáo.Trước hết, theo Jesus Christ, con người ta
được quan niệm như là hình ảnh của thần linh.
Do đó, con người ở trên đoàn thể. Thứ chi: sự
hiện hữu của Giáo hội Thiên chúa (Eglise
catholique) đưa đến sự phân biệt giữa quyền
chánh trị và quyền tôn giáo, thời Trung cổ, đã
thất bại.” [11]. Như vậy, theo ông Lê Đình Chân
thì học thuyết “hạn chế chánh quyền” là phát
xuất từ lí thuyết tự do công cộng, và lí thuyết này
thì tiên khởi từ Thiên chúa giáo. Tôn giáo này
cho rằng cá nhân con người đứng trên đoàn thể,
và như vậy quyền khởi thuỷ, quyền tự nhiên của
họ phải được tôn trọng hơn quyền lực của chính
quyền. Từ đây xuất phát lên những đặc điểm cơ
bản của quyền nguyên thủy của con người cũng
như ý niệm chính quyền phải tôn trọng nhân
phẩm, có vậy quyền con người mới được thực
thi. Khi bình luận về lý thuyết tự do của Trang
Tử, Cao Xuân Huy cũng chỉ ra điều kiện của tự
do tuyệt đối: “Bình đẳng tuyệt đối là điều kiện
của tự do tuyệt đối, vì rằng nếu thừa nhận giữa
người và người, vật và vật, người này có cái gì
hơn người kia, vật này có cái gì hơn vật kia, thì
tức là người nào hơn, vật nào hơn phải cải tạo
người nào kém, vật nào kém, như thế thì những
người, những vật bị cải tạo không được hoàn
toàn được tự do nữa” [12].
Theo Herbert J. Muller, xét từ góc độ lịch sử,
triết lý tự do của phương Tây được hình thành
theo chiều dài lịch sử Thiên chúa giáo, các cuộc
Thập tự chinh Trung cổ, thấm đẫm máu và nước
mắt [13]. Từ dặm dài lịch sử, người phương Tây
mới định nghĩa tự do thành: quyền nói, hành
động không bị cản trở hoặc kiềm chế; điều kiện
hoặc quyền có thể hoặc được phép làm, nói, suy
nghĩ bất cứ điều gì bạn muốn, mà không bị
kiểm soát hoặc giới hạnKinh điển là định
nghĩa tại Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ: “Mọi
người sinh ra đều bình đẳng, Tạo hóa ban cho
họ những quyền bất khả xâm phạm, trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” (all men are created
equal, that they are endowed by their Creator
with certain unalienable Rights, that among
these are Life, Liberty and the pursuit of
Happiness) [14].
Đối chiếu với triết lí tự do của Trang Tử, ta
thấy rằng điều này có điểm tương đồng. Tương
đồng ở chỗ Trang Tử cũng cho rằng việc con
người cần sống thuận theo tự nhiên, kẻ trị thiên
hạ cũng vậy, phải nương theo tự nhiên để phòng
và giữ thiên hạ. Một khi anh đã thuận theo tự
nhiên để sống, nói khác đi anh phải được tự do
để làm theo điều đó. Bên cạnh việc tự do để sống
thuận theo tự nhiên, anh cần hiểu bản chất của sự
vật ở tầm cao, có thế anh mới đạt được hạnh phúc
tuyệt đối. Như vậy, trong học thuyết của ông có
nhắc đến tự do, để khởi từ đây, ông chỉ ra phép
trị nước tựa như việc chăn ngựa, chỉ cần ngừa
những tính xấu của nó. Như ông đã viết trong
thiên Tại Hựu: Ta nghe Phòng và Giữ thiên hạ,
chứ không nghe chuyện trị thiên hạ. Phòng, là sợ
thiên hạ đắm đuối mà mất Tánh; Giữ, là sợ thiên
hạ dời đổi mà mất Đức. Thiên hạ mà không đắm
đuốiđến mất Tánh, không dời đổi đến mất
Đức,tại sao lại có chuyện trị thiên hạ? [15]. Đây
là học thuyết khởi phát từ triết luận vô vi nhi trị
của Lão Tử đã bàn ở trên. Tuy nhiên nếu đứng ở
phương diện so sánh giữa học thuyết tự do công
cộng của Phương Tây và lí thuyết tự do tuyệt đối
của Trang Tử thì ắt hẳn đều thống nhất ở điểm
cần tôn trọng tự nhiên, tự đó tôn trọng những
quyền nguyên thuỷ của loài người.
Từ những kiến giải nêu trên, tác giả cho rằng
chắc chắn có mối tương đồng giữa hai học thuyết
tự do của phương Đông và phương Tây. Tác giả
không tư duy từ phương diện là cả hai nhà thuỷ
tổ của lí thuyết ấy nghĩ giống nhau. Không có
chuyện Trang Tử nghĩ y như Đức Chúa Ki – tô
và ngược lại ngẫu nhiên mà Đức Chúa Ki – tô
nghĩ không khác gì Trang Tử. Nếu tư duy như
vậy thì ắt hẳn đây là một sự áp đặt không hơn
không kém. Do đó, ở những luận giảI nêu trên
thì tác giả đã khẳng định là chỉ có tương quan
giữa hai học thuyết về sự tôn trọng tự nhiên và
con người, ngoài ra còn sự ngẫu nhiên nào không
thì tác giả chưa kiểm chứng được.
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93
92
4.2. Giới hạn hành pháp để đảm bảo tự do - một
hướng nghiên cứu về hành pháp trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Nguyễn Đăng Dung chia ra các hình thức
hạn chế quyền lực nhà nước như sau :
1. Hạn chế quyền lực nhà nước từ bên trong:
việc phân chia, phân công, phân nhiệm và tự
kiểm tra bằng cơ chế kìm chế đối trọng; việc
chính phủ phải chịu trách nhiệm.
2. Hạn chế quyền lực nhà nước từ bên ngoài
như việc thực thi tự do báo chí; việc công khai
hoá, minh bạch hoá chính quyền; hay việc bỏ
phiếu trưng cầu dân ý; hoặc ngay như sự vô tư,
độc lập của tư pháp cũng là một phương thức
thực hiện hạn chế quyền lực nhà nước.
3. Ngoài ra các nội dung khác cơ bản của
triết lí hạn chế quyền lực nhà nước còn ở chỗ
phải bảo đảm nhân quyền không bị vi phạm cũng
như các chức danh quan trọng của nhà nước cần
được bầu cử và có nhiệm kì.
Bên cạnh đó tham chiếu với triết lí tự do
tuyệt đối của Trang Tử và học thuyết vô vi nhi trị
mà ông phát triển của Lão Tử thì có hai điểm
tương đồng sau:
Thứ nhất, quyền tự nhiên của con người phải
được tôn trọng. Nếu như Trang Tử nhìn ở góc độ
sống thuận theo tự nhiên nghĩa là ở tầm tiền đề
luận, thì các học giả đương đại nhìn từ khía cạnh
phát triển của vấn đề. Có sự thừa nhận học thuyết
giữa hai bên.
Thứ hai, việc minh bạch và công khai hoá
chính quyền. Đối với Trang Tử là ở triết thuyết
phòng và giữ thiên hạ, còn các học giả thời hiện
đại thì lấy đó là sự minh bạch hoá chính quyền.
Nói nôm na nghĩa là nếu kẻ phòng và giữ thiên
hạ (như chữ dùng của Trang Tử) sống thuận theo
tự nhiên, trong sáng như tự nhiên, thì không cần
trị thiên hạ vẫn tuân phục. Hình ảnh gương mẫu
của một lãnh tụ có ý nghĩa hơn rất nhiều so với
những tập bàI giảng đồ sộ về luân lý. Đó là ý kiến
của Trang Châu.
Hai điểm tương đồng nêu trên là những suy
luận có lí từ việc đối chiếu góc nhìn của hai học
thuyết. Lý giải cho yếu tố mà có thể coi là gượng
gạo khi sắp đặt hai vấn đề ở đây chính là địa dư
và lịch sử. Người phương Đông sống ở một vùng
có địa dư khí hậu khác với người phương Tây,
bên cạnh đó thời mà Trang Tử sống là một giai
đoạn có nhiều biến động của lịch sử Trung Quốc.
Do đó sự tương đồng mà tác giả nêu trên ắt hẳn
có những lu mờ nhất định nếu nhìn theo độ lùi
của lịch sử và phân tích dựa trên cảm quan địa lí
tự nhiên. nếu độc giả nào quan tâm có thể xem
cuốn Đại cương triết học sử Trung Quốc, trong
đó, nhà triết học sử Phùng Hữu Lan sẽ minh thị
hơn nữa vấn đề này.
Như vậy, triết lí tự do tuyệt đối của Trang Tử
có tương quan nhất định đối với học thuyết tự do
công cộng của các học giả cận hiện đại. Do đó
quá trình suy luận trên hoàn toàn hợp lôgic để
minh thị một số vấn đề học thuyết triết học
phương Đông và sau sẽ làm nền tảng áp dụng
trong tư tưởng nghiên cứu. Đây cũng là một hữu
ích trong nghiên cứu tư tưởng Đông phương.
Thuật ngữ nhà nước pháp quyền nên được
hiểu theo khái niệm Anh Mỹ như thể là cụm từ
“the rule of law”. Nghĩa là trong một chế độ công
pháp mà mọi sự đều được hành xử dưới sự suy
xét của pháp luật. Pháp luật là tối cao như thể
dòng chữ được đắp nổi trên vòm cổng của Tối
cao Pháp viện Hoa Kỳ “Equal Justice Under
Law”) (Công bình Công lý dưới Luật). Điều này
cho thấy sự thượng tôn pháp luật trong một nhà
nước pháp quyền. Tiếp theo những tìm hiểu
mang tính cơ bản nhất về nhà nước pháp quyền
làm cảnh huống cho những suy nghĩ về việc giới
hạn hành pháp để đảm bảo tự do. Như trên đã tìm
hiểu về việc giới hạn chính quyền xuất phát tự ý
nghĩ thượng tôn cá nhân trên đoàn thể trong giáo
lí của Thiên chúa giáo. Từ đây xuất phát cho việc
giới hạn chính quyền nhằm đảm bảo cho sự tồn
tại của cá nhân trước đoàn thể, quốc gia hay
chính quyền. Do đó, hướng nghiên cứu này tiếp
nối những gì mà cổ nhân đã suy nghĩ từ nhiều thế
kỷ trước, tuy nhiên, góc nhìn của tác giả xuất
phát từ triết lí tự do tuyệt đối của Trang Tử cũng
như phục vụ cho công cuộc xây dựng nhà nước
pháp quyền trong tương lai.
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 93
5. Tóm lại
việc nghiên cứu hành pháp xuất phát từ triết
lí tự do tuyệt đối của Trang Tử theo hướng giới
hạn quyền lực hành pháp nhằm đảm bảo tự do cá
nhân là một suy nghĩ hợp lí và khá mới mẻ cho
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay. Trong bối cảnh Đạo giáo xâm
nhập vào Việt Nam thông qua tín ngưỡng thờ
Thái Thượng Lão Quân, đạo sĩ trừ tà ma, “giáng
cơ, giáng bút”rất gần gũi với người dân Việt
Nam thì hướng nghiên cứu xuất phát từ tìm hiểu
triết lý tự do phương Đông, đặc biệt là triết lý tự
do của Trang Tử để có những ứng dụng phù hợp
vào xây dựng pháp quyền là một hướng nên làm.
Tài liệu tham khảo
[1] Thu Giang, Nguyễn Duy Cần, Cái cười của
thánh nhân của, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1999
trang 12.
[2] Tư Mã Thiên, Phan Ngọc dịch, Sử Ký Tư Mã Thiên,
NXB Văn học, Hà Nội, 2001, trang 301.
[3] Trang Tử, “Mộng hồ điệp”, dẫn theo Thu Giang
Nguyễn Duy Cần, Sđd, trang 71.
[4] Sử Ký Tư Mã Thiên, Sđd, trang 301.
[5] Sử Ký Tư Mã Thiên, Sđd, trang 299.
[6] Hồ Thích, Nguyễn Văn Dương dịch, Đại cương
triết học sử Trung Quốc, NXB Thanh Niên, 1999,
trang 105.
[7] Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch Lão Tử Đạo Đức
Kinh, Thanh Niên, 1999, trang 283.
[8] Đại cương triết học sử Trung Quốc, sđd, tr 117.
[9] Trang Tử Nam Hoa Kinh, sđd, tr 98 - 100.
[10] Cao Xuân Huy, Triết học Phương Đông gợi những
điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn học, 1995 tr 494.
[11] Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà
nước, NXB Đại học Quốc gia. 2005,
[12] Lê Đình Chân, Luật Hiến pháp và các định chế
chính trị, Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn,
1974, tr265.
[13] J. Herbert Muller, Freedom in Western World:
From the Dark Ages to the Rise of Democracy,
Harper Colophon Books, New York, London,
1963, p275.
[14] The Constitution of the United States of America
with Explanatory Notes, adapted from The World
Book Encyclopedia, International Information
Program, Department of State of the U.S, 2004,
pg73
[15] Trang Tử Nam Hoa Kinh, sđd, tr 59., truy cập ngày
18/12/2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4209_85_8238_1_10_20190924_0193_2180258.pdf