Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp tự phát kháng trị được điều trị bằng bleomycine tại khoa hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 1: Nhân một trường hợp

Tài liệu Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp tự phát kháng trị được điều trị bằng bleomycine tại khoa hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 1: Nhân một trường hợp: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Nhi Khoa 180 TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI DƯỠNG TRẤP TỰ PHÁT KHÁNG TRỊ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG BLEOMYCINE TẠI KHOA HỒI SỨC SƠ SINH BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1: NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP Phạm Thị Lan Phương*, Nguyễn Thu Tịnh** TÓM TẮT Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp thường vô căn là dạng tràn dịch màng phổi thường gặp nhất ở lứa tuổi sơ sinh. Chúng tôi báo cáo trường hợp trẻ sơ sinh 13 ngày tuổi nhập viện với tràn dịch màng phổi dưỡng trấp và được điều trị với Bleomycine. Tràn dịch kém đáp ứng với các điều trị nội khoa bao gồm truyền tĩnh mạch Octreotide và dẫn lưu màng phổi. Chúng tôi kiến nghị Bleomycin có thể có hiệu quả trong điều trị tràn dịch màng phổi dưỡng trấp ở trẻ sơ sinh. Tuy nhiên cần có nghiên cứu so sánh với cỡ mẫu lớn hơn. Từ khóa: Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp thường vô căn. ABSTRACT REFRACTORY SPONTANEOUS NEONATAL CHYLOTHORAX TREATED WITH BLEOMYCINE AT NEONATAL INTENSIVE CARE UNIT OF CHILD...

pdf6 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp tự phát kháng trị được điều trị bằng bleomycine tại khoa hồi sức sơ sinh Bệnh viện Nhi Đồng 1: Nhân một trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Nhi Khoa 180 TRÀN DỊCH MÀNG PHỔI DƯỠNG TRẤP TỰ PHÁT KHÁNG TRỊ ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ BẰNG BLEOMYCINE TẠI KHOA HỒI SỨC SƠ SINH BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1: NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP Phạm Thị Lan Phương*, Nguyễn Thu Tịnh** TÓM TẮT Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp thường vô căn là dạng tràn dịch màng phổi thường gặp nhất ở lứa tuổi sơ sinh. Chúng tôi báo cáo trường hợp trẻ sơ sinh 13 ngày tuổi nhập viện với tràn dịch màng phổi dưỡng trấp và được điều trị với Bleomycine. Tràn dịch kém đáp ứng với các điều trị nội khoa bao gồm truyền tĩnh mạch Octreotide và dẫn lưu màng phổi. Chúng tôi kiến nghị Bleomycin có thể có hiệu quả trong điều trị tràn dịch màng phổi dưỡng trấp ở trẻ sơ sinh. Tuy nhiên cần có nghiên cứu so sánh với cỡ mẫu lớn hơn. Từ khóa: Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp thường vô căn. ABSTRACT REFRACTORY SPONTANEOUS NEONATAL CHYLOTHORAX TREATED WITH BLEOMYCINE AT NEONATAL INTENSIVE CARE UNIT OF CHILDREN HOSPITAL 1: A CASE REPORT Pham Thi Lan Phuong, Nguyen Thu Tinh * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 180 – 185 Chylothorax, which is usually idiopathic, is the most common form of pleural effusion encountered in the neonatal period. We report a 13-day-old infant who had spontaneous chylothorax and was treated with bleomycin. Neonatal chylothorax didn’t respond to IV octreotide treatment and drainage of the pleural fluids. We suggest that bleomycin may be effective in the treatment of neonatal chylothorax. However, a comparable study with larger size is needed. Keywords: Chylothorax, which is usually idiopathic. ĐẠI CƯƠNG Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp là sự tích tụ dịch dưỡng trấp (hỗn hợp của triglycerides, acids béo, proteins, immunoglobulins và lymphocytes) trong khoang màng phổi. Sự thất thoát dịch này vào trong khoang màng phổi gây ra các biến chứng suy dinh dưỡng, rối loạn điện giải và suy giảm miễn dịch(9,18,20). Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp ở trẻ sơ sinh có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như biến chứng của phẫu thuật, sang chấn lúc sanh, dị dạng mạch bạch huyết ở phổi, chèn ép ống ngực từ bên ngoài (như thoát vị hoành bẩm sinh, u phổi, neuroblastoma), phù nhau thai không do tán huyết, phối hợp với những hội chứng khác nhau liên quan đến bất thường mạch bạch huyết hay những nguyên nhân gây tắc nghẽn tĩnh mạch chủ trên bên trong hay từ bên ngoài (biến chứng của đặt catheter, huyết khối). Tuy nhiên, nguyên nhân thường gặp nhất vẫn là “vô căn”(4,6,9). Khoảng 50% các trường hợp tràn dịch màng phổi dưỡng trấp ở trẻ sơ sinh được phát hiện trong tuần đầu sau sanh(3,4). Về phượng diện chẩn đoán tràn dịch màng phổi ở trẻ sơ sinh dựa vào hai biểu hiện chính là dịch có thành phần triglycerides cao và bạch cầu cao với lymphocytes ưu thế. Hầu hết các tác giả chấp nhận tiêu chí: (1) bạch cầu trong dịch màng phổi > 1000/ml (lymphocytes > 70%), (2) triglycerides > 100 mg/dl, protein > 20g/l(3,4). Về phương diện điều trị: điều trị quy ước gồm hỗ trợ hô hấp, dẫn lưu màng phổi, bù dịch * Bệnh viện Nhi Đồng 1, ** Đại học Y dược TP HCM, Tác giả liên lạc: TS.BS Nguyễn Thu Tịnh, ĐT: 0937911277, Email: tinhnguyen@ump.edu.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 181 và điện giải thất thoát, nuôi ăn tĩnh mạch toàn phần hay nuôi ăn với triglycerides chuỗi trung bình (MCTs), điều trị quy ước này thành công trong 80% các trường hợp. Tiêu chí thành công khi lượng dịch dẫn lưu màng phổi <10 ml/kg/ngày và thất bại khi dẫn lưu màng phổi ra dịch >10 ml/kg/ngày sau 2 - 4 tuần(1,2,3,4,6,9). Sau điều trị quy ước thất bại bệnh nhân có chỉ định ngoại khoa: phẫu thuật thắt ống ngực, shunt màng phổi – phúc mạc, cắt màng phổi hay làm dày dính màng phổi(3,5,15). Bleomycin là một tác nhân gây độc tế bào, được sử dụng như một chất chống ung thư. Bleomycin dùng điều trị các bệnh ung thư như bệnh lymphoma, ung thư tinh hoàn, buồng trứng, cổ tử cung. Bleomycin thường được sử dụng chung với các thuốc chống ung thư khác, nó có thể dùng qua đường tiêm tĩnh mạch, tiêm bắp hoặc tiêm dưới da. Ngoài ra, nó còn được tiêm vào khoang màng phổi để ngăn ngừa sự tái lập dịch màng phổi ác tính do ưng thư gây ra. Cơ chế tác dụng của Bleomycin là phá huỷ cấu trúc các chuỗi ADN trong tế bào. Tuy nhiên cơ chế tác động cụ thể vẫn chưa được biết rõ ràng. Một vài nghiên cứu cho rằng Bleomycin cũng ức chế sự gắn thymidine vào chuỗi ADN. Một số giả thiết khác lại cho rằng Bleomycin tạo phản ứng oxy hoá làm tan rã các phân tử ADN hoặc cắt các gốc hydro ra khỏi cấu trúc nucleotide trong chuỗi ADN. Với mục đích làm xơ hoá màng phổi, Bleomycin sau khi được bơm vào khoang màng phổi sẽ kích thích gây viêm và làm dính hai lá màng phổi. Sau đó lại kích hoạt hệ thống đông máu và sản xuất các cytokine như yếu tố tăng trưởng  dẫn đến việc sản xuất collagen trong khoang màng phổi làm xơ hoá và dính hai lá màng phổi(17). Ngoài Bleomycin còn có nhiều hoá chất gây dày dính màng phổi khác như bột talc, tetracycline, doxycyline, iodopovidine, OK- 432(12,13). Năm 2003, O Brissaud và cộng sự(8) báo cáo điều trị thành công 4 trường hợp tràn dịch dưỡng trấp bẩm sinh bằng phương pháp xơ hoá màng phổi bằng povidone-iodine và không ghi nhận trường hợp nào bị ảnh hưởng chức năng tuyến giáp sau phẫu thuật. Từ năm 2013, tại đơn vị phẫu thuật của bệnh viện trẻ em Bambino Gesù của Ý(16) đã thực hiện phương pháp xơ hoá màng phổi bằng povidine-iodine cho các trường hợp tràn dịch dưỡng trấp kháng trị vì cho rằng đó là hoá chất an toàn và hiệu quả. Năm 2011, JR Pan và cộng sự(14) thành công khi làm dày dính màng phổi bằng erythromycine cho 3 trẻ bị tràn dịch dưỡng trấp kháng trị. Đến nay đã có nhiều nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả cũng như biến chứng giữa các tác nhân xơ hoá màng phổi. Nghiên cứu gần đây nhất (2012)(17) cho thấy hiệu quả thành công là như nhau, các tác giả đề nghị tuỳ vào sự sẵn có của thuốc, giá thành và kinh nghiệm bác sĩ để chọn lựa loại hoá chất phù hợp, nhất là tại các nước đang phát triển. Tác dụng phụ sau khi sử dụng Bleomycin(11) được báo cáo bao gồm các biểu hiện toàn thân (gặp trên 30% bệnh nhân) như sốt, ớn lạnh, biểu hiện ở da (đỏ da, lở loét, lột da, dày da, vết rạn), rụng tóc, dày móng. Ít gặp hơn (dưới 30% bệnh nhân) là các vấn đề về đường tiêu hoá như ói, chán ăn, sụt cân, lở miệng, viêm tĩnh mạch, viêm phổi, hiếm hơn là xơ hoá phổi. Sau đây chúng tôi báo cáo trường hợp tràn dịch màng phổi dưỡng trấp được điều trị với bleomycine. BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP Con bà Mai Thị H., nữ, sinh ngày 25/8/2016. Nhập viện Nhi Đồng 1 lúc 11h20 6/9/2016. PARA 0121. Lần mang thai thứ nhất, siêu âm tiền sản phát hiện thai nhi bị tràn dịch màng phối hai bên, sản phụ phải bỏ thai lúc thai 20 tuần. Lần mang thai thứ hai, siêu âm tiền sản cũng phát hiện thai nhi bị tràn dịch màng phổi hai bên, sản phụ bị thai lưu lúc 30 tuần. Lần mang thai này, sản phụ được siêu âm tiền sản phát hiện thai nhi bị tràn dịch màng phổi hai bên và được chọc ối cho kết quả nhiễm sắc thể đồ bình thường. Bệnh nhân được sanh thường, lúc tuổi thai 31 tuần, cân nặng lúc sanh 2200 gram, tại BV Từ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Nhi Khoa 182 Dũ lúc 3:30. Sau sanh bé tự thở yếu, APGAR không rõ được hồi sức với bóp bóng qua mask, đặt nội khí quản. Sau hồi sức bé được thở máy, chích kháng sinh claforan, ampicillin, gentamycin và nuôi ăn tĩnh mạch hoàn toàn với dextrose 10%, đạm, lipid, siêu âm ngực: tràn dịch màng phổi 2 bên lượng nhiều. Bé được chọc dịch màng phổi giải áp, kết quả dịch màng phổi: Bạch cầu 16408/mm3, đa số đơn nhân, Triglycerid 5,43 mmol/L, Cholesterol 1,6 mmol/L, Rivalta (-). Sau 13 ngày điều trị, em được rút ống NKQ, thở NCPAP và chuyển đến BV Nhi Đồng I với chẩn đoán: Phù mạch bạch huyết di truyền, suy hô hấp, trẻ non tháng trong tình trạng trẻ tỉnh, môi hồng với oxy canulla, Sp02 92%, chi ấm, mạch rõ, tim đều rõ 140 lần/phút, thở đều 60 lần/phút, bụng mềm, thóp phẳng. Khám lâm sàng lúc nhập viện: chiều dài 43 cm, vòng đầu 34 cm, mạch 124 lần/phút, nhiệt độ 36.5oC. Hình thể bên ngoài bình thường, không ghi nhận các dị tật bẩm sinh. Tím khi thở oxy ẩm qua cannula SpO2: 46% Hồng hơn khi thở NCPAP SpO2: 96%. Chi ấm, mạch rõ 160 l/p. Sau đó, bé thở co lõm ngực nặng dần với tần số 64 l/p, đừ, rên rỉ, SpO2 80 – 85%. Tim đều, không âm thổi. Phổi phế âm giảm 2 bên P > T. Bụng mềm, gan lách không to. Thóp phẳng. Em được đặt nội khí quản thở máy. Chụp XQ cho kết quả thâm nhiễm cả hai phế trường và tràn dịch màng phổi P lượng nhiều. Siêu âm ngực cho kết quả tràn dịch màng phổi 2 bên, bên P nhiều hơn bên T, Siêu âm tim Doppler màu trong giới hạn bình thường. Chọc hút dịch màng phổi ngày 7 tháng 9 cho kết quả tế bào rất nhiều bạch cầu (90% đơn nhân), LDH: 142 U/L, Triglyceride: 6 mg/dl, Cấy dịch (-) và Albumin máu 20 g/l. Bệnh nhân được hỗ trợ hô hấp với máy thở Babylog 8000, PIP/PEEP là 18/6 cmH20 và Fi02 60%, nuôi ăn tĩnh mạch toàn phần, kháng sinh ciprofloxacine. Tình trạng suy hô hấp không cải thiện, XQ và siêu âm ngực cho thấy dịch màng phổi tiến triển. Chọc hút dịch màng phổi lần thứ 2 vào ngày 14 tháng 9 cho kết quả dịch vàng, hơi đục, tế bào có nhiều hồng cầu, bạch cầu (75% L), lactate: 1.44 mmol/L, LDH: 72.11 U/L, triglyceride: 6 mg/dl, Cấy (-) và albumin 21.6 g/l. Bệnh nhân tiếp tục được hỗ trợ hô hấp với máy thở, nuôi ăn tĩnh mạch toàn phần và dùng sandostatin liều 4 ug/kg/h tăng dần lên liều 10 ug/kg/h. Tuy nhiên, tình trạng bệnh nhân vẫn không cải thiện, diễn tiến suy hô hấp tăng dần. Chọc hút dịch màng phổi lần thứ 3 vào ngày 19 tháng 9 cho kết quả pH 8, tế bào: nhiều hồng cầu, bạch cầu (90% L), LDH: 71.5 U/L, triglyceride: 16 mg/dl, cấy (-) và albumin: 16g/l. Lâm sàng ghi nhận bệnh nhân phù nhiều nên được truyền albumin, tiếp tục thở máy, kháng sinh levofloxacin và truyền sandostatin. Sau đó bệnh nhân tiếp tục suy hô hấp tiến triển nên phải chọc hút màng phổi giải áp thêm 1 lần nữa và quyết định đặt dẫn lưu màng phổi 2 bên. Tình trạng suy hô hấp có chiều hướng cải thiện, thông số máy giảm dần. Chúng tôi quyết định cho bệnh nhân nuôi ăn tĩnh mạch bán phần kèm sữa thuỷ phân 14% tăng dần, kháng sinh như trên, kháng nấm dự phòng bằng Fluconzole, tiếp tục duy trì sandostatin, truyền albumin. Sau đó 10 ngày, bệnh nhân cải thiện, giảm dần thông số máy thở, dẫn lưu màng phổi ra dịch ít dần, siêu âm thấy tràn dịch màng phổi 2 bên lượng ít. Bệnh nhân được rút ống dẫn lưu màng phổi hai bên, sau 3 ngày bệnh nhân được rút nội khí quản thở NCPAP với áp lực 6 cmH20 và Fi02 40%, giảm dần sandostatin còn liều 6 ug/kg/h. Tuy nhiên sau 1 tuần, bệnh nhân suy hô hấp nặng lên, siêu âm ngực tràn dịch màng phổi hai bên lượng nhiều phải đặt nội khí quản để thở máy, chọc dò màng phổi giải áp, tăng ) sẽ gây vỡ ống ngực bẩm sinh(3,4,7,9,10,19). Sandostatin 10 ug/kg/h và truyền Albumin. Kết quả dịch màng phổi ngày 22 tháng 10 như sau: dịch vàng đục, tế bào rất nhiều (56% L), pH 8, LDH 107,4 U/L, lactate: 1,09 mmol/L, triglyceride: 127 mg/dl và albumin 16,5 g/l. Sau đó, bệnh nhân được siêu âm ngực kiểm tra vẫn còn dịch màng phổi lượng nhiều hai bên, thông số thở máy còn chưa giảm được nên phải chọc hút Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 183 màng phổi thêm một lần nữa. Với tình trạng bệnh nhân hiện tại, chúng tôi đánh giá bệnh nhân bị tràn dịch màng phổi dưỡng trấp kháng với điều trị nội khoa. Chúng tôi phối hợp với các bác sĩ ngoại khoa sơ sinh quyết định phẫu thuật cột ống ngực và tiêm Bleomycine vào màng phổi vào ngày 26 tháng 10. Sau phẫu thuật 2 ngày, bệnh nhân được ngưng truyền sandostatin. Sau 1 tuần, bệnh nhân cai được máy thở, thở NCPAP với áp lực 6 cmH20 và Fi02 40%. Bệnh nhân tiếp tục được điều trị bằng kháng sinh levofloxacin, dinh dưỡng tiêu hoá hoàn toàn bằng sữa thuỷ phân 14% và sữa non tháng 22 kcalo/oz. Sau phẫu thuật 3 tuần, bệnh nhân cai được NCPAP, chuyển qua thở oxy canulla với oxy ẩm 0,5 l/ph. Sau đó bệnh nhân được cai oxy, ngưng kháng sinh, các xét nghiệm về nhiễm trùng trong giới hạn bình thường. Bệnh nhân được tập bú với sữa non tháng 24 kcalo/oz phối hợp MCT. Siêu âm ngực kiểm tra cho thấy tràn dịch màng phổi lượng rất ít hai bên, không gây cho bệnh nhân suy hô hấp. Bệnh nhân xuất viện sau 3 tháng điều trị và không ghi nhận có bất kỳ biến chứng nào. Bệnh nhân được tái khám 1 tuần, 2 tuần và 3 tuần sau xuất viện với tình trạng ổn định. BÀN LUẬN Trường hợp của chúng tôi gặp khó khăn trong chẩn đoán khi mới tiếp nhận bệnh nhân. Do nhận bệnh nhân tràn dịch màng phổi sớm phát hiện ngay sau sanh, do đó trẻ chưa được cho ăn qua đường tiêu hoá, nên dịch màng phổi không cho thấy sự gia tăng triglyceridesnhận xét này cũng được ghi nhận trong bài tổng quan của Helin(10). Chúng tôi không ghi nhận bất kỳ yếu tố nguy cơ gây nào gây nên tràn dịch màng phổi dưỡng trấp trong trường hợp của chúng tôi như phẫu thuật vùng ngực, chấn thương sản khoa, đặt catheter trung ương gây huyết khối tĩnh mạch chủ trên nên đây là trường hợp tràn dịch màng phổi dưỡng trấp tự phát(4,6,9). Như ghi nhận của y văn phần lớn trường hợp tràn dịch màng phổi dưỡng trấp ở trẻ sơ sinh là không biết nguyên nhân. Tràn dịch màng phổi bẩm sinh vô căn thường liên quan u mạch bạch huyết, dãn mạch bạch huyết bẩm sinh, hội chứng Down, mẹ đa ối. Những trẻ sơ sinh này có ống ngực hoạt động chức năng kém hay dị dạng mạch bạch huyết, khi gặp phải sự gia tăng áp lực tĩnh mạch trong chuyển dạ sanh. Tràn dịch màng phổi dưỡng trấp tự phát ở trẻ sơ sinh thường là thoáng qua, thuyên giảm khi làm giảm lưu lượng bạch mạch trong ống ngực. Để giảm lưu lượng bạch mạch trong ống ngực cần loại trừ axit béo chuỗi dài trong sữa hay nuôi ăn tĩnh mạch toàn phần(4,9,10). Tuy nhiên phương pháp này sẽ làm kéo dài thời gian thuyên giảm dịch và tăng nguy cơ xảy ra biến chứng của việc dẫn lưu màng phổi, thở máy, NCPAP, nuôi ăn tĩnh mạch toàn phần kéo dàivì vậy dẫn đến mất nước, giảm bạch cầu lympho, đạm, yếu tố đông cầm máu và kháng thể. Do đó làm tăng nguy cơ xảy ra các biến chứng giảm đạm máu, giảm bạch cầu lympho, rối loạn đông – cầm máu, giảm globulin miễn dịch, nhiễm trùng nặng, các biến chứng liên quan thở máy(9,10). Từ năm 2003, việc sử dụng somatostatin trong điều trị tràn dịch dưỡng trấp ở trẻ em đã giúp rút ngắn được thời gian thuyên giảm dịch cũng như giảm các biến chứng do nuôi ăn tĩnh mạch kéo dài và dẫn lưu màng phổi. Tuy nhiên đối với các trường hợp kém đáp ứng với điều trị nội khoa như trường hợp của chúng tôi thì somatostatin dường như không có hiệu quả. Đối với các trường hợp kháng trị với các biện pháp trên, chỉ định ngoại khoa cần được đặt ra. Trường hợp chúng tôi báo cáo, trẻ được tiến hành phẫu thuật cột ống ngực kèm với xơ hoá màng phổi bằng hoá chất. Hiện nay trong báo cáo y văn, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy trường hợp tràn dịch dưỡng trấp nào ở trẻ em Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Chuyên Đề Nhi Khoa 184 được xơ hoá bằng Bleomycin như trường hợp của chúng tôi. Kết quả sau khi được can thiệp ngoại khoa, bệnh nhân hết tràn dịch màng phổi, cai được thở máy, ăn hoàn toàn bằng đường tiêu hoá chỉ sau 3 tuần hậu phẫu và xuất viện về nhà sau 3 tháng điều trị. Hiện sau 3 tháng theo dõi sau khi xuất viện, chúng tôi vẫn chưa ghi nhận bất kỳ tác dụng phụ nào. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi bệnh nhân trong thời gian tới nhằm phát hiện được sớm nhất các biến chứng có thể xảy ra cho bệnh nhân do Bleomycine. KẾT LUẬN Qua điều trị thành công trường hợp tràn dịch màng phổi dưỡng trấp tự phát kháng trị và tổng quan một số báo cáo của các tác giả khác trong y văn chúng tôi đề nghị: Chẩn đoán tràn dịch màng phổi dưỡng trấp dựa vào: (1) bạch cầu trong dịch màng phổi > 1000/ml (lymphocytes > 70%), (2) triglycerides > 100 mg/dl, protein > 20g/l. Tuy nhiên khó khăn trong chẩn đoán là tràn dịch màng phổi dưỡng trấp khi trẻ không được cho ăn lipid qua đường tiêu hoá. Đối với trường hợp tràn dịch dưỡng trấp tái lập nhiều lần, chúng tôi đề nghị xem xét dẫn lưu màng phổi trong thời gian ngắn với lợi ích giảm thiểu xâm lấn và giảm đau cho trẻ sơ sinh. Với nguy cơ dẫn lưu dịch màng phổi sẽ gây mất các chất dinh dưỡng như đạm, điện giải có ghi nhận trong y văn, hiện nay chúng tôi nghĩ có thể bù đắp được qua dinh dưỡng tĩnh mạch toàn phần. Đối với trường hợp tràn dịch dưỡng trấp kháng trị, chúng tôi đề nghị phối hợp thủ thuật cột ống ngực, một phương pháp đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và kĩ năng, với xơ hoá màng phổi bằng hoá chất sẽ hiệu quả hơn cột ống ngực đơn thuần. Bleomycin có thể là một hoá chất gây xơ hoá màng phổi có hiệu quả và ít tác dụng phụ quan sát thấy ở các trẻ sơ sinh bị tràn dịch màng phổi dưỡng trấp kháng trị. Tuy nhiên cần có nghiên cứu với cỡ mẫu đủ lớn ở trẻ sơ sinh để so sánh liều dùng và biến chứng sau thủ thuật tiêm Bleomycin vào màng phổi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Al-Arfaj AL, Upadhyaya P et al (1992), "Current status of management of neonatal chylothorax", Indian J Pediatr. 59(1), pp. 133-6. 2. Al-Zubairy SA, Al-Jazairi AS (2003), "Octreotide as a therapeutic option for management of chylothorax", Ann Pharmacother. 37(5), pp. 679-82. 3. Au M, Weber TR, Fleming RE (2003), "Successful use of somatostatin in a case of neonatal chylothorax", J Pediatr Surg. 38(7), pp. 1106-7. 4. Beghetti M, La Scala G, Belli D, Bugmann P, Kalangos A and Le Coultre C (2000), "Etiology and management of pediatric chylothorax", J Pediatr. 136(5), pp. 653-8. 5. Cheung Y, Leung MP, Yip M (2001), "Octreotide for treatment of postoperative chylothorax", J Pediatr. 139(1), pp. 157-9. 6. Copons Fernandez C, Benitez Segura I, Castillo Salinas F, Salcedo Abizanda S (2008), "Neonatal chylothorax: aetiology, clinical course and efficacy of treatment", An Pediatr (Barc). 68(3), pp. 224-31. 7. Coulter MD (2004), "Successful treatment with octreotide of spontaneous chylothorax in a premature infant", J Perinatol. 24(3), pp. 194-5. 8. Desfrere BL, Mohsen R, Fayon M, Demarquez JL (2003), "Congenital idiopathic chylothorax in neonates: chemical pleurodesis with povidine-iodine (Betadine)", Arch Dis Child Neonatal Ed 2003. 88, pp. 531-533. 9. Ercan S, Deniz D et al (2004), "Spontaneous Neonatal Chylothorax Treated with Octreotide in Turkey: A Case Report", J Perinatol. 24(4), pp. 261-262. 10. Helin RD, Angeles ST, Bhat R (2006), "Octreotide therapy for chylothorax in infants and children: A brief review", Pediatr Crit Care Med. 7(6), pp. 576-9. 11. Hudson (2016), Bleomycine, Lexi-Comp Online, Lexi-Drugs, accessed Apr 7-2016. 12. Kim JE, Lee C, Park KI et al (2012), "Successful pleurodesis with OK-432 in preterm infants with persistent pleural effusion", Korean J Pediatr. 55(5), pp. 177-80. 13. Murki S, Faheemuddin M, Gaddam P (2010), "Congenital chylothorax--successful management with chemical pleurodesis", Indian J Pediatr. 77(3), pp. 332-4. 14. Pan JR, Shi LP, Sun MY (2011), "Treatment of idiopathic congenital chylothorax in neonates using chemical pleurodesis with Erythromycin", HK J Paediatr (New Series). 16(2), pp. 128-130. 15. Rimensberger PC, Muller-Schenker B, Kalangos A and Beghetti M (1998), "Treatment of a persistent postoperative chylothorax with somatostatin", Ann Thorac Surg. 66(1), pp. 253-4. 16. Scottoni F et al (2013), "Plerodesis with povidine-iodine for refractory chylothorax in newborns: Personal experience and literature review", Journal of Pediatric Surgery. 50, pp. 1722-1725. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nhi Khoa 185 17. Shouman W, Elgazzar A, Hussien RM, et al (2012), "Chemical pleurodesis for malignant pleural effusion", Egyptian Journal of Chest Diseases and Tuberculosis. 61(3), pp. 115-120. 18. Siu SL, Lam DS (2006), "Spontaneous neonatal chylothorax treated with octreotide", J Paediatr Child Health. 42(1-2), pp. 65-7. 19. Turan O, Canter B, Ergenekon E, Koc E and Atalay Y (2001), "Chylothorax and respiratory distress in a newborn with trisomy 21", Eur J Pediatr. 160(12), pp. 744-5. 20. Tutor JD (2014), "Chylothorax in infants and children", Pediatrics. 133(4), pp. 722-33. Ngày nhận bài báo: 14/06/2018 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 14/07/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/08/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftran_dich_mang_phoi_duong_trap_tu_phat_khang_tri_duoc_dieu_t.pdf
Tài liệu liên quan