Tài liệu Trầm tích đevon ở đới Quảng Ninh: TRẦM TÍCH ĐEVON Ở ĐỚI QUẢNG NINH
NGUYỄN HỮU HÙNG1, TẠ HOÀ PHƯƠNG2, NGUYỄN THỊ THUỶ1
1Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Thanh Xuân, Hà Nội2Đại học Khoa học Tự nhiên, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Tóm tắt: Trên cơ sở những tài liệu mới về thạch học, địa tầng và cổ sinh, trầm tích Đevon ở đới Quảng Ninh được phân thành các phân vị địa tầng sau:
1. Loạt Ngọc Vừng: gồm các hệ tầng Vạn Cảnh, Dưỡng Động. Ranh giới dưới của loạt không xác định được. Ranh giới trên không chỉnh hợp dưới hệ tầng Đồ Sơn.
1.1. Hệ tầng Vạn Cảnh: chủ yếu gồm cát kết, bột kết chứa di tích cá cổ, Eurypterida và thực vật Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites? sp., tuổi Lochkov-Praga, lộ trên bán đảo Đồ Sơn và các đảo Vạn Cảnh, Ngọc Vừng, Phượng Hoàng, Cống Đông, Cống Tây, Đống Chén, Trà Bàn ở vùng vịnh Bái Tử Long.
1.2. Hệ tầng Dưỡng Động: nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Vạn Cảnh, chủ yếu gồm đá phiến sét và bột kết chứa hoá thạch Tay cuộn, San hô, Huệ biển thuộc các phức hệ Eoschuchertella - Howellella và...
23 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Trầm tích đevon ở đới Quảng Ninh, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRẦM TÍCH ĐEVON Ở ĐỚI QUẢNG NINH
NGUYỄN HỮU HÙNG1, TẠ HOÀ PHƯƠNG2, NGUYỄN THỊ THUỶ1
1Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Thanh Xuân, Hà Nội2Đại học Khoa học Tự nhiên, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Tóm tắt: Trên cơ sở những tài liệu mới về thạch học, địa tầng và cổ sinh, trầm tích Đevon ở đới Quảng Ninh được phân thành các phân vị địa tầng sau:
1. Loạt Ngọc Vừng: gồm các hệ tầng Vạn Cảnh, Dưỡng Động. Ranh giới dưới của loạt không xác định được. Ranh giới trên không chỉnh hợp dưới hệ tầng Đồ Sơn.
1.1. Hệ tầng Vạn Cảnh: chủ yếu gồm cát kết, bột kết chứa di tích cá cổ, Eurypterida và thực vật Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites? sp., tuổi Lochkov-Praga, lộ trên bán đảo Đồ Sơn và các đảo Vạn Cảnh, Ngọc Vừng, Phượng Hoàng, Cống Đông, Cống Tây, Đống Chén, Trà Bàn ở vùng vịnh Bái Tử Long.
1.2. Hệ tầng Dưỡng Động: nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Vạn Cảnh, chủ yếu gồm đá phiến sét và bột kết chứa hoá thạch Tay cuộn, San hô, Huệ biển thuộc các phức hệ Eoschuchertella - Howellella và Desquamatia - Schizophoria, ứng với khoảng Emsi-Eifel, lộ ở các vùng Kinh Môn, Tràng Kênh, Thuỷ Nguyên và trên các đảo Vạn Cảnh, Ngọc Vừng, Phượng Hoàng, Cống Đông, Cống Tây, Đống Chén, Trà Bàn ở vùng vịnh Bái Tử Long.
2. Hệ tầng Đồ Sơn: nằm không chỉnh hợp trên các hệ tầng Dưỡng Động và Vạn Cảnh, gồm cuội kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên chứa hoá thạch cá Bothriolepis và các di tích thực vật Lepidodendropsis tuổi Givet. Chúng lộ trên bán đảo Đồ Sơn và các đảo Quán Lạn, Ngọc Vừng, Phượng Hoàng, Cống Đông, Cống Tây, Đống Chén, Trà Bàn ở vịnh Bái Tử Long.
3. Hệ tầng Tràng Kênh: gồm đá vôi chứa các phức hệ San hô, Lỗ tầng, Răng nón tuổi Givet muộn - Famen sớm. Chúng lộ ở các vùng Kinh Môn, Thuỷ Nguyên, Tràng Kênh, Đường 10 (Kiến An) và các đảo ở vịnh Bái Tử Long và Hạ Long. Hệ tầng nằm chỉnh hợp trên hệ tầng Đồ Sơn và không rõ dưới các trầm tích Famen thượng - Carbon sớm. Theo quan niệm trước đây trong thành phần của hệ tầng Tràng Kênh còn có đá vôi chứa các ổ silic ở Pháp Cổ, Phi Liệt, Đò Đụn (huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng); nay chúng được được coi thuộc hệ tầng Phố Hàn (D3-C1 ph).
MỞ ĐẦU
Sự có mặt của các trầm tích Đevon trong đới Quảng Ninh [23] thuộc địa phận các tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu địa chất. Từ những phát hiện ban đầu của H. Lantenois [8] ghi nhận sự có mặt của các trầm tích trước Carbon và sự phân chia có tính khái quát các trầm tích Eifel tướng lục nguyên và các trầm tích Eifel - Givet tướng carbonat của Jamoida A.I. [3] đã đi đến việc phân chia chi tiết ra các phân vị địa tầng: điệp Kiến An (S2 ka), điệp Sông Giá, tầng Dưỡng Động (D2e dđ), Tràng Kênh (D2gv tk) của Nguyễn Quang Hạp [13]; điệp Yên Phụ (D2e yp), điệp Lỗ Sơn (D2-3? ls) của Phạm Văn Quang [15]; điệp Sông Cầu (D1sc) của Trần Văn Trị, Nguyễn Đình Uy [23], Trần Văn Trị và nnk. [24]; điệp Đồ Sơn (D1 đs) của Nguyễn Công Lượng [11]; hệ tầng Si Ka (D1 sk) của P. Janvier và nnk. [4,5]. Ở đây có thể dễ nhận thấy sự không thống nhất trong cách phân chia các phân vị địa tầng. Cùng một đối tượng là đá lục nguyên, Nguyễn Quang Hạp [13] gọi là tầng Dưỡng Động, trong khi đó Phạm Văn Quang [15] gọi là điệp Yên Phụ v.v.... Tuổi của hệ tầng Đồ Sơn, từ chỗ chỉ coi là Đevon sớm: Trần Văn Trị, Nguyễn Đình Uy [23], P. Janvier và nnk. [4] đến việc xếp hệ tầng Đồ Sơn vào Givet - Đevon muộn: J. Long và nnk. [9], Tống Duy Thanh và nnk. [20] hoặc D3-C1: Ngô Quang Toàn [10]. Vị trí địa tầng của hệ tầng Đồ Sơn cũng có những ý kiến khác nhau, như nằm trên hệ tầng Tràng Kênh: J. Long và nnk. [9], nằm trên hệ tầng Dưỡng Động: Tống Duy Thanh, Tạ Hoà Phương [22]. Thành phần trầm tích của hệ tầng Tràng Kênh cũng cần được xem xét lại. Phần lớn các nhà nghiên cứu [1, 13, 14, 20] đều cho rằng, tập silic chứa Trùng tia, đá vôi chứa các ổ silic lộ ra ở dải Pháp Cổ - Phi Liệt - Đò Đụn thuộc phần giữa của hệ tầng Tràng Kênh. Đó là những vấn đề không bình thường trong một hệ tầng, nếu xét về sự tiến hoá của bồn trầm tích.
Những tài liệu đo vẽ chi tiết các mặt cắt sinh địa tầng và những phát hiện mới về cổ sinh qua các đề tài "Nghiên cứu cổ sinh địa tầng và tướng đá cổ địa lý các thành tạo trầm tích D3-C1 Bắc Việt Nam" (1999 - 2001); "Địa tầng các trầm tích Phanerozoi ở Đông Bắc Việt Nam" (2004 - 2006) đã góp phần làm rõ hơn về trật tự địa tầng, bối cảnh cổ địa lý của các thành tạo trầm tích Đevon trong đới Quảng Ninh.
I. VỀ CÁC PHÂN VỊ ĐỊA TẦNG ĐEVON ĐÃ ĐƯỢC PHÂN CHIA TRONG ĐỚI QUẢNG NINH QUA CÁC THỜI KỲ NGHIÊN CỨU
1. Về hệ tầng Đồ Sơn
Các thành tạo Đevon trong đới Quảng Ninh lần đầu tiên được Lantenois H. [8] mô tả dưới tên gọi “Cát kết Đồ Sơn”, tuổi trước Carbon, chứa hoá thạch Tay cuộn Rhynchonella. Patte E. [14] cho rằng, ngoài bán đảo Đồ Sơn, loại cát kết này còn lộ ra ở Kiến An. Tại đây, chúng bị trầm tích chứa hoá thạch Tay cuộn tuổi Frasni Spirifer cf. ziczac Roemer phủ lên trên. Cát kết ở đảo Con Mang và một số đảo khác ở vịnh Bắc Bộ và các núi thuộc dải Quảng Ninh - Chí Linh cũng được ông xếp vào Đevon. Trong các công trình địa chất tiếp theo, ý kiến của các nhà nghiên cứu rất khác nhau về cát kết ở bán đảo Đồ Sơn và ở một số vùng khác thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương và thành phố Hải Phòng. Saurin E. [16, 17] cho tuổi Đevon; Jamoiđa A.I. [3] phủ nhận sự có mặt của trầm tích Đevon ở vùng Kiến An, bởi một lẽ ở đây đã phát hiện ra các hoá thạch Tay cuộn và San hô bốn tia cho tuổi Silur muộn như Retziella weberi Nik., Eospirifer cf. linxoides Nal., Xiphelasma sp., Nipponophyllum sp.. Cát kết trên bán đảo Đồ Sơn, các đảo Ngọc Vừng, Trà Bản, Quán Lạn và cát kết dạng quarzit trên dải Đông Triều - Quảng Ninh được ông xếp vào bậc Eifel. Cát kết lộ trên đảo Con Mang và một số đảo khác ở vịnh Bắc Bộ và các núi thuộc dải Quảng Yên - Chí Linh được coi thuộc hệ tầng Hà Cối (J1 hc) vì đã phát hiện hoá thạch thực vật Mesozoi như Bernoullia zeilleri P’an, Asterotheca cottonii Zeill. v.v.. Nguyễn Quang Hạp [13] coi “Cát kết Đồ Sơn” cùng tuổi với cát kết và đá vôi chứa hoá thạch San hô và Tay cuộn lộ ra ở thị xã Kiến An thuộc hệ tầng Kiến An, tuổi Silur muộn. Toàn bộ cát kết, bột kết lộ ra ở Hiệp Sơn Hạ (vùng Kinh Môn, Hải Dương), Dưỡng Động (vùng Thuỷ Nguyên, Tp. Hải Phòng) được ông xếp vào hệ tầng Dưỡng Động, một phân vị địa tầng mới do ông xác lập, tuổi Eifel. Trần Văn Trị, Nguyễn Đình Uy [23]; Trần Văn Trị và nnk. [24] coi “Cát kết Đồ Sơn” thuộc điệp Sông Cầu, tuổi Đevon sớm; Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ [25] coi thuộc hệ tầng Đồ Sơn, có vị trí địa tầng nằm dưới hệ tầng Dưỡng Động, tuổi Đevon sớm; Janvier P. và nnk. [4] xếp “Cát kết Đồ Sơn” vào hệ tầng Si Ka, coi chúng có cùng tuổi với “Cát kết đỏ cổ” ở xứ Wales ở Anh hoặc đảo Spitsberg ở Na Uy; J. Long và nnk. [9] đã phát hiện di tích cá cổ Vietnamaspis, một giống mới trong cát kết ở bờ phía tây bán đảo Đồ Sơn dưới chân “Biệt thự Bảo Đại” 100 m thuộc phức hệ cá cổ Bothriolepis có tuổi Đevon giữa - Đevon muộn. Vì vậy, hệ tầng Đồ Sơn cũng được coi thuộc Givet, Đevon muộn và xếp nằm trên hệ tầng Lỗ Sơn (= hệ tầng Tràng Kênh); Ngô Quang Toàn [10] coi “Cát kết Đồ Sơn” thuộc chu kỳ trầm tích Đevon thượng - Carbon hạ? chuyển tướng ngang với các trầm tích lục nguyên - carbonat của hệ tầng Phố Hàn (D3-C1 ph); P. Janvier và nnk. [7] cho rằng hệ tầng Đồ Sơn bao gồm các trầm tích Silur thượng? - Đevon hạ lộ ra ở phần dưới chứa hoá thạch cá cổ Wangolepis và Eurypterid Rhinocarcinosoma; phần trên của hệ tầng gồm cuội kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên, cát kết quarzit chứa hoá thạch cá Vietnamaspis, Bothriolepis và thực vật Cây vẩy Lepidodendropsis, tuổi Givet - Đevon muộn. Ranh giới giữa hai phần của hệ tầng được coi là không chỉnh hợp, đánh dấu bằng lớp sạn kết nằm trên các lớp chứa Rhinocarcinosoma. Tống Duy Thanh và nnk. [22] coi hệ tầng Đồ Sơn có tuổi Givet - Frasni và có vị trí địa tầng nằm trên hệ tầng Dưỡng Động và dưới hệ tầng Tràng Kênh. Kết quả nghiên cứu mới của chúng tôi về các trầm tích từng được mô tả thuộc hệ tầng Đồ Sơn ở bán đảo Đồ Sơn cũng như trên các đảo ở vịnh Bái Tử Long sẽ được trình bày chi tiết ở phần sau.
2. Về hệ tầng Dưỡng Động
Theo mô tả ban đầu của Nguyễn Quang Hạp [13], hệ tầng gồm 6 tập, bắt đầu bằng các tập cuội, sạn, cát kết; chuyển dần lên là bột kết, cát kết phân lớp xiên chứa cuội, kết thúc bằng tập bột kết xen cát kết và đá phiến sét với tổng bề dày 800-1000 m, chứa hoá thạch Tay cuộn, San hô tuổi Eifel, lộ ở một số vùng thuộc huyện Thủy Nguyên, Tp. Hải Phòng và huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Ranh giới dưới với hệ tầng Kiến An (S2 ka) không rõ, ranh giới trên chuyển tiếp lên hệ tầng Tràng Kênh (D2 tk).
Phạm Văn Quang [15] không công nhận tên gọi “tầng Dưỡng Động” và đưa ra tên gọi “điệp Yên Phụ” (D2e yp) gồm hai phụ điệp: phụ điệp dưới có chiều dày 150 - 220 m, gồm cát kết thạch anh, cát kết xen bột kết, đá phiến sét; phụ điệp trên gồm chủ yếu đá phiến sét-sericit xen kẽ cát bột kết, dày 300 - 380 m. Tổng bề dày của điệp Yên Phụ là 350 - 600 m.
Nguyễn Công Lượng [11] cho rằng điệp Yên Phụ lộ cả trên các đảo Trà Bản, Châu Dấp, Ngọc Vừng, Lũ Con, Vạn Sao, Lộc Dữ, Thừa Cống ở vùng vịnh Bái Tử Long, chiếm diện tích 100 - 124 km2. Các công bố sau này của Tống Duy Thanh và nnk. [20, 21]; Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ [25]; Tạ Hoà Phương và nnk. [19] coi "điệp Yên Phụ" là đồng nghĩa với hệ tầng Dưỡng Động và đưa lại những nội dung cơ bản của hệ tầng đã được Nguyễn Quang Hạp [13], Phạm Văn Quang [15] và Nguyễn Công Lượng [11] mô tả, đồng thời có bổ sung một số tài liệu về cổ sinh mới được phát hiện trong thời gian gần đây. Riêng về vị trí địa tầng, Tống Duy Thanh, Tạ Hoà Phương [22] cho là hệ tầng Dưỡng Động nằm dưới hệ tầng Đồ Sơn.
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu lại mặt cắt Hiệp Sơn Hạ (Hiệp Hạ) nơi được coi là có mặt cắt chuẩn của hệ tầng Dưỡng Động, cũng như các mặt cắt khác ở vùng Kinh Môn, tỉnh Hải Dương; vùng Thuỷ Nguyên, Tp. Hải Phòng và các đảo trong vịnh Bái Tử Long thuộc tỉnh Quảng Ninh. Kết quả nghiên cứu mới cho thấy, các mặt cắt của hệ tầng Dưỡng Động thường bắt đầu bằng tập đá phiến sét chứa hoá thạch Tay cuộn, San hô, Huệ biển cho tuổi D1-D2, đặc trưng cho tướng biển nông. Các tập cuội kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên chỉ gặp ở phần trên của mặt cắt, nay được chúng tôi coi thuộc hệ tầng Đồ Sơn, đặc trưng cho tướng sông, suối và tam giác châu.
3. Về hệ tầng Tràng Kênh
Hệ tầng này do Nguyễn Quang Hạp [13] xác lập và mô tả dưới tên gọi “tầng Tràng Kênh” với 2 phụ tầng. Phụ tầng dưới gồm 4 lớp:
Lớp 1. Đá vôi sinh vật có kiến trúc giả trứng cá, lộ ra ở nam làng Hạ Chiểu. Dày 70-80 m.
Lớp 2. Đá vôi màu đen, hạt mịn, chứa nhiều di tích hữu cơ, kiến trúc giả trứng cá. Dày 50 m.
Lớp 3. Đá phiến silic màu đen, kiến trúc hạt ẩn tinh, lộ thành dải chạy dài từ Tràng Kênh qua Thụy Khê, Phà Đụn tới Hạ Chiểu. Dày 100 - 120 m.
Lớp 4. Đá vôi chứa sét, hạt mịn và chứa nhiều di tích hữu cơ. Dày 20 - 40 m.
Bề dày toàn bộ của phụ tầng dưới là 250 - 280 m. Theo tác giả, phụ tầng dưới chứa hoá thạch Syringopora cf. eifeliensis Schl., Amphipora cf. ramosa Phil., Crassialveolites crassus Lec. cho tuổi Eifel muộn - Givet sớm. Phụ tầng trên gồm đá vôi xám sáng, đôi khi chuyển thành màu trắng và trắng hồng, cấu tạo dạng khối, chứa hoá thạch Scoliopora denticulata (M. E. H.), Caliapora battersbyi (M. E. H.), tuổi Givet.
Phạm Văn Quang [15] mô tả một mặt cắt tương tự, nhưng đưa ra một tên gọi mới là “điệp Lỗ Sơn” với thành phần gồm 4 tập, tương ứng với 4 lớp như mô tả của Nguyễn Quang Hạp [13] và cho tuổi D2gv - D3?.
Dương Xuân Hảo, Nguyễn Thơm, Nguyễn Đức Khoa [1] và Dương Xuân Hảo [23] coi hệ tầng thuộc bậc Givet với thành phần trầm tích gồm 3 phần: phần dưới gồm đá vôi đen chứa hoá thạch Lỗ tầng và San hô tuổi Givet, dày 150 m; phần giữa gồm chủ yếu đá phiến silic, chứa Trùng tia, dày 50 m; phần trên gồm đá vôi phân lớp dày chứa Lỗ tầng và San hô tuổi Givet. Nằm không chỉnh hợp lên trên là đá vôi Carbon - Permi.
Tống Duy Thanh và nnk. [20] công nhận tên gọi “điệp Lỗ Sơn” cho các trầm tích Givet lộ ra ở đây với thành phần thạch học và trật tự địa tầng như mô tả của Dương Xuân Hảo, Nguyễn Thơm và Nguyễn Đức Khoa [1], nhưng nằm chỉnh hợp trên “điệp Lỗ Sơn” còn 300 m đá vôi của Đevon thượng có chứa hoá thạch Lỗ tầng Amphipora laxeperforata Lec., A. patokensis minor (Riab.) và Trùng lỗ Quasiendothyra.
Ngô Quang Toàn và nnk. [10] cho rằng tập silic được mô tả ở phần giữa của “điệp Lỗ Sơn” thuộc thành phần trầm tích của hệ tầng Phố Hàn (D3-C1 ph), một phân vị địa tầng mới của Bản đồ địa chất và khoáng sản 1:50.000 nhóm tờ Hải Phòng. Nguyễn Hữu Hùng và nnk. [12] đã dẫn ra nhiều mặt cắt khác nhau của hệ tầng Tràng Kênh kể cả trên đất liền và trên các đảo ở vịnh Hạ Long và Bái Tử Long và đã đưa đến kết luận: ngoài các yếu tố Givet và Frasni sớm, còn có các yếu tố của Frasni giữa - muộn và Famen.
II. NHỮNG SỬA ĐỔI VỀ ĐỊA TẦNG ĐEVON TRONG ĐỚI QUẢNG NINH
1. Loạt Ngọc Vừng (D1-D2 nv)
Trong bài báo này, loạt Ngọc Vừng được xác lập để chỉ một loạt trầm tích lục nguyên hình thành trong một chu kỳ trầm tích từ Lochkov của Đevon sớm đến Eifel của Đevon giữa. Loạt này gồm các hệ tầng Vạn Cảnh và Dưỡng Động nằm chỉnh hợp với nhau. Trên thực tế, việc tách bạch hai hệ tầng này dựa trên đặc điểm thạch học là một vấn đề khó khăn đối với công tác đo vẽ bản đồ địa chất, nhưng khi xét đến bối cảnh cổ địa lý, việc thành lập mới loạt Ngọc Vừng và hệ tầng Vạn Cảnh là cần thiết. Hệ tầng Vạn Cảnh gồm cát kết, bột kết chứa phong phú hoá thạch thực vật thuỷ sinh, cá cổ, Eurypterid đặc trưng cho tướng vũng vịnh, ven bờ. Hệ tầng Dưỡng Động gồm đá phiến sét vôi xen kẹp các lớp cát kết, bột kết vôi chứa Tay cuộn, San hô, Huệ biển đặc trưng cho trầm tích tướng biển nông, gần bờ. Trên đất liền, các trầm tích của loạt Ngọc Vừng thường lộ ra không đầy đủ. Trên bán đảo Đồ Sơn chỉ lộ ra các trầm tích thuộc phần dưới của loạt, bao gồm các lớp chứa cá cổ, Eurypterid và thực vật thuỷ sinh, tuổi Lochkov-Praga thuộc hệ tầng Vạn Cảnh. Phủ không chỉnh hợp lên trên là hệ tầng Đồ Sơn. Trong các vùng Kinh Môn, tỉnh Hải Dương và Thuỷ Nguyên, Tp. Hải Phòng thường chỉ lộ ra các trầm tích thuộc phần trên của loạt (hệ tầng Dưỡng Động). Trên các đảo ở vịnh Bái Tử Long, trong đó có đảo Ngọc Vừng, đều có thể thấy được thành phần đầy đủ của loạt.
a. Hệ tầng Vạn Cảnh (D1 vc)
Hệ tầng lộ trên các đảo Ngọc Vừng, Vạn Cảnh, Cống Đông, Cống Tây, Phượng Hoàng, Thẻ Vàng, Đống Chén (đảo Dài), Vạn Dưới, Châu Dấp, Trà Bản ở vùng vịnh Bái Tử Long và trên bán đảo Đồ Sơn, được coi thuộc phần thấp nhất của mặt cắt Đevon trong đới Quảng Ninh. Mặt cắt bờ tây đảo Vạn Cảnh (Hình 1.2) được chọn làm mặt cắt chuẩn cho hệ tầng. Bắt đầu từ bờ phía đông sườn núi Sơn Tàu trên bờ tây đảo Vạn Cảnh (F. 609; x = 20o52'22'' B; y = 107o20'14'' Đ), cách bến tàu khách Ngọc Vừng 3,5 km về phía B-TB, sát mép nước biển, lộ liên tục nhưng khá đơn điệu các lớp bột kết màu xám vàng, phân lớp mỏng xen kẽ gần như luân phiên với các lớp cát kết màu xám trắng, phân lớp cỡ 10 - 20 cm. Đá có thế nằm thoải (30o) cắm về phía T-TB (280o) và lộ liên tục trên quãng gần 1 km. Trong tất cả các lớp cát kết, bột kết của hệ tầng, đều phát hiện được thực vật thuỷ sinh Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites ? sp. Bề dày của hệ tầng ở mặt cắt này ước tính >200 m. Nằm trên với thế nằm chỉnh hợp là các lớp đá phiến sét vôi xen bột kết vôi, chứa hoá thạch Tay cuộn Tulynetes nongpoensis (Mans.) của hệ tầng Dưỡng Động (D1-2 dđ).
Trên đảo Ngọc Vừng, mặt cắt tốt nhất của hệ tầng lộ dọc theo đường ô tô từ bến tàu khách Ngọc Vừng về trung tâm xã Ngọc Vừng (Hình 1.1), gồm bột kết màu xám, phong hoá có màu đỏ nâu xen các lớp cát kết màu xám. Đá cắm về phía TN, góc dốc khoảng 40-45o. Tại điểm lộ F.603 (x = 20o50’49” B; y = 107o20’36” Đ), cách cảng Ngọc Vừng 200 m về phía nam, vách bên phải đường ô tô, lộ ra các vỉa dày đặc hoá thạch thực vật thuỷ sinh Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites ? sp.. Ngoài ra, trong các lớp cát kết còn thu thập được các di tích cá?, Lingula và Chân rìu. Bề dày >200 m.
Trên đảo Cống Tây, sau trụ sở UBND xã Thắng Lợi, trong bột kết màu xám xanh, xám trắng lộ ở vách núi, đã thu thập được di tích Eurypterid bảo tồn xấu và thực vật thuỷ sinh Psilophytites ? sp. (F.604; x = 20o53'09'' B; y = 107o18'51'' Đ). Tại bờ cực nam của đảo Cống Đông (F.607; x = 20o53'09'' B; y = 107o18'51'' Đ), trong cát kết lộ sát mép nước biển, đã thu thập được thực vật thuỷ sinh Taeniocrada? sp.. Bề dày của hệ tầng ở hai mặt cắt này quan sát được >200 m.
Trên đảo Châu Dấp (Hình 1.3), đoạn nối liền với mỏm tây nam của đảo Trà Bản, lộ ra các lớp cát kết, bột kết chứa vôi màu xám trắng, phân lớp trung bình đến dày, cắm về phía B-TB (340o), góc dốc 45o. Trên vách phải đường ô tô mới mở, cách Văn phòng Công ty Nuôi trồng Thuỷ sản Mỹ-Việt 100 m về phía tây nam, đã thu thập được các di tích cá cổ và rất phong phú các di tích Chân rìu, Chân bụng và Chân đầu kiểu Orthoceras (F. 613; x = 20o54' 21'' B; y =107o26'27'' Đ). Bề dày > 200 m. Trên đảo Trà Bản (Hình 1.5), hệ tầng Vạn Cảnh lộ dọc theo vách đường ô tô, từ trụ sở UBND xã Bản Sen đến thôn Đồng Danh, gồm cát kết, bột kết sáng màu, đá phiến sét màu đỏ nâu. Bề dày >200 m. Tại các điểm lộ F.621 (x = 20o58’13” B; y = 107o29’23” Đ), cách trụ sở UBND xã Bản Sen 300m về phía nam, trong cát kết và điểm lộ F.620 (x = 20o57'33'' B; y = 107o29'23'' Đ); tại Đồng Danh, cách trụ sở UBND xã 1,5 km về phía nam, trong bột kết màu vàng nâu đã thu thập được các di tích thực vật thuỷ sinh Psilophytites ? sp. và Vỏ cứng. Một điều đáng lưu ý, tại mặt cắt này, nằm trực tiếp trên tập bột kết chứa thực vật Đevon sớm là cát kết dạng quarzit chứa phong phú di tích cá và thực vật Lepidodendropsis của hệ tầng Đồ Sơn.
Trên bán đảo Đồ Sơn (Hình 2.4), hệ tầng thường nằm ở phần thấp của các mặt cắt. Tại sườn núi phía đông bắc làng Ngọc Xuyên, mặt cắt hệ tầng lộ ra ở đây bắt đầu bằng tập bột kết phân lớp 10-20 cm, màu xám trắng, lục nhạt, chứa nhiều vẩy sericit, xen kẽ gần như luân phiên với các lớp cát kết vôi, phân lớp 30-40 cm. Đá có thế nằm thoải, góc dốc 15o, cắm về B-TB. Tại điểm lộ F.589 (x = 20o43’03” B; y = 106o45’19” Đ), trong bột kết đã thu thập được các di tích Eurypterid, cá, Lingula. Cũng tại chân sườn núi này, sát nhà dân ở thôn Ngọc Xuyên, P. Janvier và nnk. [4-7] đã sưu tập được cá cổ: Yunnanolepis, Zhanjilepis, Wangolepis và Eurypterida Rhynocarcinosoma dosonensis, Hyghmilleria sp., thực vật Cooksonia. Bề dày tập ~ 80 m. Chuyển tiếp lên trên là tập cát kết phân lớp dày xen các lớp mỏng bột kết màu đỏ chứa phong phú Lingula kích thước lớn, lộ ra ở phần cuối dải núi này. Ngoài Lingula, trong cát kết còn gặp rất phong phú các dấu vết hoạt động của sinh vật đường kính 8-10 mm, dạng ống, cắt vuông góc mặt lớp của đá, chiều dài 20-30 cm . Bề dày tập ~ 35 m. Nằm trên tập 2 là cuội kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên, cát kết sáng màu lộ ra ở trên đỉnh 98, được coi thuộc hệ tầng Đồ Sơn. Mặt cắt tương tự cũng lộ ra ở mỏ đá Nam Thôn (x = 20o42’30” B, y = 106o47’08” Đ), gồm bột kết màu xám trắng, phớt lục xen các lớp cát kết sáng màu, phân lớp 0,4 - 0,5 m; chứa di tích cá cổ Galeaspis và các di tích Eurypterid giống như ở vết lộ F.598 (ở Ngọc Xuyên). Tại mặt cắt này có thể quan sát được tập cuội kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên của hệ tầng Đồ Sơn nằm không chỉnh hợp trên hệ tầng Vạn Cảnh mà P. Janvier [7] đã mô tả. Bề dày chung của hệ tầng quan sát được ở bán đảo Đồ Sơn >110 m; trên các đảo là >200 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi: Ở các đảo trong vịnh Bái Tử Long cũng như trên bán đảo Đồ Sơn đều không thấy được ranh giới dưới của hệ tầng Vạn Cảnh vì bị chìm dưới mực nước biển. Ranh giới trên của hệ tầng quan sát được tại bờ tây đảo Vạn Cảnh. Ranh giới này được vạch ở giữa 2 lớp: lớp cát kết chứa hoá thạch thực vật Psilophytites ? sp. nằm dưới và lớp đá phiến sét vôi chứa Tay cuộn Tulynetes nongpoensis của hệ tầng Dưỡng Động nằm trên. Trên đảo Trà Bản, theo mặt cắt từ trụ sở UBND xã Bản Sen đi Nà Sắn, hệ tầng nằm chỉnh hợp dưới các lớp đá phiến sét vôi chứa Tay cuộn và Huệ biển của hệ tầng Dưỡng Động. Trên bán đảo Đồ Sơn, ranh giới trên của hệ tầng được coi là không chỉnh hợp dưới hệ tầng Đồ Sơn chứa các hóa thạch cá và thực vật Lepidodendropsis, tuổi Givet. Vấn đề này sẽ được chúng tôi đề cập chi tiết hơn ở phần sau.
Có nhiều ý kiến khác nhau về tuổi của hệ tầng Vạn Cảnh. Trước hết cần loại trừ yếu tố Givet vì thực tế các hoá thạch cá cổ Bothriolepis và thực vật Lepidodendropsis cho tuổi Givet trên bán đảo Đồ Sơn cũng như trên đảo Trà Bản không đi cùng với các lớp chứa cá và thực vật thuỷ sinh Đevon hạ, chúng có vị trí địa tầng nằm trên rất rõ ràng ở tất cả các mặt cắt. Trên cơ sở các phức hệ cá cổ Yunnanolepis, Wangolepis; Eurypterida Rhynocarcinosoma dosonensis, Hyghmilleria sp. và thực vật Cooksonia, P. Janvier và nnk. [4-7] cho rằng các lớp chứa hoá thạch kể trên thuộc Silur muộn - Đevon sớm. Tuy nhiên, cũng tại điểm lộ chứa cá cổ và Eurypterid ở Ngọc Xuyên, Zhu Huaicheng và Li Jun (Viện Địa chất và Cổ sinh Nam Kinh) đã xác định được Bào tử: Calamospora sp., Retusotriletes rotundus, R. warringtonii, Apiculiretusispora sp., Dictotriletes subgranifer, Emphanisporites neglectus, E. cf. micronatus, Archaeozonotriletes sp. và Acritarcha: Veryhachium sp. cho tuổi Đevon sớm (Vũ Khúc và nnk., 2000). Theo quan điểm của chúng tôi, trong đới Quảng Ninh, sự có mặt của các trầm tích Silur thượng thuộc hệ tầng Kiến An, cách Đồ Sơn 15 km về phía tây bắc, đảm bảo một sự khác biệt rõ ràng, kể cả thành phần trầm tích và phức hệ cổ sinh. Do vậy các yếu tố Silur muộn ở bán Đảo Đồ Sơn cần được loại trừ. Cùng với các kết quả nghiên cứu hoá thạch thực vật thuỷ sinh mới được sưu tập trên các đảo ở vùng vịnh Bái Tử Long trong mùa thực địa đầu năm 2005, được gửi đến GS Wang Yi, Viện Địa chất và Cổ sinh Nam Kinh, Trung Quốc nghiên cứu và xác định gồm Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites ? sp. cho tuổi Đevon sớm và được ông so sánh với các hoá thạch thực vật Đevon sớm ở Đông Vân Nam, Trung Quốc. Như vậy, tuổi Đevon sớm của hệ tầng Vạn Cảnh là chấp nhận được và ta có thể đối sánh hệ tầng ngang với các hệ tầng Si Ka và Bắc Bun ở miền Đông Bắc Bộ.
b. Hệ tầng Dưỡng Động (D1-2 dđ)
Trong công trình này, hệ tầng Dưỡng Động được coi là chỉ gồm các tập đá phiến sét vôi, bột kết vôi xen cát kết chứa các hoá thạch Tay cuộn, Huệ biển, San hô, đặc trưng cho tướng trầm tích biển nông. Các tập cuội kết, sạn kết, cát kết dạng quarzit không chứa hoá thạch biển thường lộ ra ở phần trên của mặt cắt, trước đây thường được mô tả là thành phần của hệ tầng Dưỡng Động, nay chúng tôi coi thuộc hệ tầng Đồ Sơn. Trên đất liền, hệ tầng Dưỡng Động chủ yếu lộ ra ở vùng Kinh Môn, tỉnh Hải Dương và Thuỷ Nguyên, Tp. Hải Phòng. Trên biển, chúng lộ ra trên các đảo Ngọc Vừng, Phượng Hoàng, Vạn Cảnh, Đông Chén, Châu Dấp và Trà Bản thuộc vịnh Bái Tử Long. Hệ tầng có ranh giới dưới chỉnh hợp trên hệ tầng Vạn Cảnh và ranh giới trên được coi không chỉnh hợp dưới hệ tầng Đồ Sơn.
Các mặt cắt của hệ tầng Dưỡng Động ở trên đất liền gồm có:
Mặt cắt Hiệp Sơn Hạ (Hình 2.3). Lộ ra ở eo núi phía nam làng Hiệp Hạ (trên bản đồ địa hình 1:50.000 ghi là Hiệp Sơn Hạ), cách thị trấn Kinh Môn 1,5 km về phía tây bắc. Chân mặt cắt lộ ra tại ngã ba từ đường nhựa rẽ về phía đông bắc theo đường cấp phối vào làng Hiệp Hạ (x = 20o 59’22” B; y = 106o 32’12” Đ). Nhìn chung, thế nằm của các lớp đá khá ổn định, đơn nghiêng, cắm về B-TB 350o với góc dốc 40-45o.
Tập 1. Đá phiến sét vôi màu xám xanh, đá phiến sericit chứa các dấu vết Tay cuộn và Huệ biển bảo tồn xấu. Ở phần giữa và phần trên của tập xuất hiện các lớp cát kết quarzit phân dải mỏng, có chiều dày 0,5 - 1 m. Dày 200 m.
Tập 2. Cát kết, bột kết, đá phiến sét xen kẽ gần như luân phiên, màu xám trắng, phong hoá có màu đỏ nâu, chứa nhiều vảy mica. Các lớp bột kết có bề dày 0,2 - 0,3 m, cát kết dày 0,25 - 0,5 m, đôi chỗ gặp các lớp quarzit màu trắng trong, rắn chắc, dày 0,4 - 0,5 m. Bề dày tập: 170 m.
Tập 3. Đá phiến sét xen bột kết màu tím gụ có nhiều vảy mica chứa các di tích Tay cuộn và Chân rìu bảo tồn xấu. Dày 50 m. Bề dày tổng cộng của mặt cắt là 420 m.
Hệ tầng Dưỡng Động ở vùng Lỗ Sơn (Hình 2.1) phân bố thành dải, hướng TB-ĐN, từ núi Tử Lạc qua núi Cúc Tiền đến núi La Dương. Không thấy được mặt cắt đầy đủ của hệ tầng vì địa hình phân cắt và bị đá phun trào keratophyr xuyên cắt. Tổng hợp các đoạn mặt cắt, chúng tôi lập lại trật tự địa tầng của hệ tầng ở vùng Lỗ Sơn như sau:
Tập 1. Đá phiến sét đen xen bột kết màu xám trắng, phong hoá có màu tím gụ, chứa phong phú hoá thạch Tay cuộn: Schizophoria cf. macfarlami Grabau, S. cf. impressa Hall, Atrypa cf. desquamata Sow., A. cf. magna Grabau, Chlupacina cf. nariensis Rach., Bacbonetes sp. và các vết in đài Rugosa (F.569; x = 21o01'09'' B; y = 106o34'56'' Đ), cách ngã ba Hoàng Thạch - Lỗ Sơn - Tử Lạc 750 m về phía đông nam). Bề dày 50 m.
Tập 2. Cát kết hạt nhỏ màu xám trắng, phân lớp 20 - 30 cm xen các lớp mỏng đá phiến sét đen, phong hoá có màu tím gụ, chứa hoá thạch Tay cuộn: Chonetipustula sp. và các di tích Huệ biển (F.570, tây bắc làng Tử Lạc 1,5 km; x = 21o01’54” B; y = 106o 35’10” Đ). Bề dày 70 m.
Tập 3. Cát kết màu xám vàng, phân lớp dày 0,5 - 1 m xen các lớp bột kết chứa Tay cuộn và Huệ biển bảo tồn xấu. Dày 80 m. Tập này lộ ra chủ yếu ở sườn bắc núi Cúc Tiền. Bề dày chung của hệ tầng ở Lỗ Sơn không quá 200 m.
Mặt cắt núi Trại Giáo vùng Thuỷ Nguyên lộ ra tại núi Trại Giáo, xã Ngũ Lão, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Mặt cắt đơn nghiêng cắm về phía N-TN, góc dốc 45o. Trật tự địa tầng từ dưới lên như sau:
- Đá phiến sét đen chứa hoá thạch Tay cuộn, Huệ biển bảo tồn xấu (F.503; x = 20o 56’40” B; y = 106o 42’46” Đ). Dày 10 m.
- Cát kết màu xám sáng. Dày 15 m.
- Cát kết xen bột kết, đá phiến sét màu xám đen, phong hoá có màu nâu đỏ. Dày 35 m. Bề dày chung 60 m. Nằm trên với thế nằm gần như chỉnh hợp là cát kết dạng quarzit của hệ tầng Đồ Sơn.
Mặt cắt Dưỡng Động (Hình 2.2). Ở vùng Tràng Kênh (Minh Đức), hệ tầng Dưỡng Động phân bố thành dải, theo hướng tây bắc - đông nam, từ núi Phượng Hoàng qua núi Triệu Cao đến làng Dưỡng Động. Cũng như ở vùng Kinh Môn, hệ tầng thường bị đá phun trào keratophyr xuyên cắt. Cho dù chịu ảnh hưởng của các hoạt động kiến tạo - magma, gây xáo trộn ở một vài nơi, nhưng nhìn chung trong toàn vùng, hệ tầng thường chiếm vị trí địa tầng thấp nhất ở các mặt cắt.
Trong các moong khai thác đá phiến sét làm phụ gia xi măng của nhà máy Chinh Phong ở phía tây thị trấn Minh Đức, tại xóm Đông và trên các ngọn đồi, dọc theo đuờng ôtô từ thị trấn Minh Đức đến làng Dưỡng Động, lộ ra các lớp đá phiến sét đen xen kẽ gần như luân phiên với các lớp bột kết màu tím gụ. Tại điểm lộ F. 576 (x = 20o57’32” B; y = 106o44’09” Đ), sườn phía đông núi Phượng Hoàng, trong đá phiến sét đen bị nén ép mạnh đã sưu tập được hoá thạch Tay cuộn và Huệ biển nhưng bảo tồn xấu. Nằm trên với quan hệ không rõ là cát kết dạng quarzit của hệ tầng Đồ Sơn và đá vôi chứa Lỗ tầng của hệ tầng Tràng Kênh. Bề dày chung của hệ tầng lộ ra trong vùng Dưỡng Động và Tràng Kênh >150 m.
Các mặt cắt của hệ tầng Dưỡng Động trên các đảo. Tại bờ đông đảo Ngọc Vừng (Hình 1.1), cách điểm cực nam của đảo 400 m, sát với mực nước biển, lộ ra các lớp đá phiến sét dày 10-15 cm, xen kẽ luân phiên với các lớp bột kết chứa vôi, cát kết dạng quarzit dày 10-30 cm. Đá có thế nằm dốc đứng, phương B-TB và N-ĐN (Hình 4), đôi chỗ uốn lượn vò nhàu, chứa khá phong phú Tay cuộn Đevon sớm, gồm Eoschuchertella guangxiensis Wang et Rong, Howellella sp., Aulacella cf. zhamoidai Zuong et Rzhon., Pseudoschizophoria sp., Spinolicosta sp., Eospirifer sp., Stropheodonta sp., Platyorthis cf. longi Zuong, Tulynetes nongpoensis (Mans.) và các vết in dài của San hô bốn tia, vết in đốt thân Huệ biển không xác định được (F. 600; x = 20o47'56'' B; y = 107o22'57'' Đ). Bề dày chung của hệ tầng ở mặt cắt này >100 m. Ranh giới dưới không quan sát được vì bị chìm dưới mực nước biển. Ranh giới trên bị các tảng lớn cuội kết, sạn kết và cát kết phân lớp xiên của hệ tầng Đồ Sơn phủ lấp.
Trên bờ tây đảo Vạn Cảnh (Hình 1.2), cách bến tàu khách Ngọc Vừng 3,5 km về phía B-TB, lộ ra các lớp đá phiến sét xen bột kết vôi. Đá có thế nằm thoải, góc dốc 30o, cắm về phía tây (270o). Trong bột kết đã thu thập được các di tích Tay cuộn Tulynetes nongpoensis (Mans.) và các hoá thạch Tay cuộn khác giống như điểm lộ F.600 ở bờ đông đảo Ngọc Vừng (F.608, x = 20o52’33” B; y = 107o19’52” Đ). Tại mặt cắt này thấy được ranh giới dưới của hệ tầng, theo đó hệ tầng nằm chỉnh hợp trên cát kết chứa thực vật thuỷ sinh của hệ tầng Vạn Cảnh. Bề dày >100 m.
Trên đảo Trà Bản (Hình 1.5), hệ tầng Dưỡng Động lộ trên vách đường ô tô ven đảo, đoạn từ trụ sở UBND xã Bản Sen đến làng Nà Sắn, gồm đá phiến sét đen, đá phiến sét vôi, bột kết chứa vôi xen với cát kết. Tại điểm lộ F. 616 (x = 20o58’42” B; y = 107o29’41” Đ), ở vách bên trái đường ô tô, cách UBND xã Bản Sen 1,8 km về phía bắc, trong đá phiến sét đen đã thu thập được các di tích Huệ biển và Tay cuộn bảo tồn xấu. Tại điểm lộ F.618 (x = 20o58’35” B; y = 107o29’34” Đ), trong đá phiến sét đen đã thu thập được các di tích Chân rìu. Bề dày chung của hệ tầng ở mặt cắt này >200 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Ranh giới dưới của hệ tầng Dưỡng Động ở các mặt cắt trên đất liền đều không quan sát được vì đã bị trầm tích Đệ tứ phủ lấp (như ở các vùng Kinh Môn, Thuỷ Nguyên, Dưỡng Động). Trên biển, ranh giới này cũng chỉ thấy được ở một số đảo. Trên bờ tây đảo Vạn Cảnh (F. 608) và trên đảo Trà Bản, theo mặt cắt từ trụ sở UBND xã Bản Sen đi Nà Sắn, hệ tầng nằm chỉnh hợp trên các lớp chứa hoá thạch thực vật thuỷ sinh Taeniocrada? cf. decheniana, Psilophytites ? sp. của hệ tầng Vạn Cảnh. Ranh giới trên của hệ tầng là ranh giới không chỉnh hợp dưới hệ tầng Đồ Sơn, quan sát được trên bờ đông đảo Ngọc Vừng. Tại các vết lộ F.600, F.601, lộ ra các lớp bột kết xen đá phiến sét và cát kết có thế nằm dốc đứng chứa phong phú hoá thạch Tay cuộn thuộc phức hệ Tulynetes nongpoensis (Hình 4). Nằm không chỉnh hợp trên chúng là cuội kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên của hệ tầng Đồ Sơn (Hình 5). Trên đất liền, ở các mặt cắt Tràng Kênh, Dưỡng Động, Trại Giáo, Cúc Tiền, Yên Phụ đều bắt gặp các tập sạn kết, cát kết phân lớp xiên, cát kết dạng quarzit thuộc hệ tầng Đồ Sơn có vị trí địa tầng nằm trên, nhưng với quan hệ dường như chỉnh hợp về mặt thế nằm, có thể coi thuộc hiện tượng bất chỉnh hợp song song.
Trong các công trình nghiên cứu trước đây, hệ tầng Dưỡng Động được coi có tuổi D1-2 trên cơ sở các phát hiện rời rạc các điểm hoá thạch Euryspirifer cf. tonkinensis (Mans.), Syringopora cf. eifelensis Schl. trong các lỗ khoan ở Mạo Khê, Amphipora vatustior Gur. trong đá vôi ở phía bắc bến đò Quảng Yên, Atrypa ex gr. desquamata Sow. ở Khe Riềng và nam Dưỡng Động; Carinatina cf. arimaspa, Bacbochonetes janvieri, Indospirifer kwangsiensis, Aulacella zhamoidai ở Tử Lạc và nam huyện lỵ Chí Linh cũ. Trước hết cần lưu ý điểm hoá thạch Euryspirifer cf. tonkinensis (Mans.) do Safronov (1960) tìm được trong lõi khoan ở Mạo Khê là loại bảo tồn không đầy đủ và cho đến nay chưa ai phát hiện lại được các dạng tương tự ở đới Quảng Ninh . Loài Lỗ tầng Amphipora vatustior Gur. cho tuổi Eifel sưu tập trong đá vôi ở bắc bến phà Quảng Yên [3] do N. A. Flerova ở Viện Thăm dò Địa chất Liên bang Nga xác định có sự nhầm lẫn. Nghiên cứu lại các lát mỏng lưu trữ tại Phòng Cổ sinh Địa tầng, Viện NC Địa chất và Khoáng sản, chúng tôi nhận thấy chúng là phân loài Amphipora ramosa minor Riab., thường gặp trong các trầm tích Givet - Frasni ở Việt Nam. Thực tế điểm lộ chứa hoá thạch Lỗ tầng nêu trên nằm trong mặt cắt của hệ tầng Tràng Kênh. Cũng tại mặt cắt này, ở núi U Bò và núi Mỏ Vịt, Nguyễn Hữu Hùng và nnk. [12] đã sưu tập được một tập hợp Lỗ tầng và Trùng lỗ đặc trưng cho Frasni giữa-muộn gồm Amphipora pinguis Yav., A. simplet (Dong), Nanicella gallowayi (Thomas), Eonodosaria evlanensis (Lipina), Tichinella multiformis (Lipina), Multiseptida tikhinelliformis Truong, Eotournayella jubra (Lipina et Pronina) của phần trên hệ tầng Tràng Kênh.
Những sưu tập mới về cổ sinh trong hệ tầng Dưỡng Động ở bờ đông đảo Ngọc Vừng và ở Tử Lạc gồm Eoschuchertella guangxiensis Wang et Rong, Howellella sp., Aulacella cf. zhamoidai Zuong et Rzhon., Pseudoschizophoria sp., Spinulicosta sp., Eospirifer sp., Strophodonta sp., Platyorthis cf. longi Zuong, Tulynetes nongpoensis (Mans.). Đây là phức hệ Tay cuộn đã gặp ít nhiều trong các hệ tầng Mia Lé, Bản Nguồn ở Bắc Việt Nam và Yukiang (Úc Giang) ở Quảng Tây, Trung Quốc, ứng với khoảng Praga - Emsi. Trong số hóa thạch sưu tập trên đất liền ở Tử Lạc và Núi Thần (Lỗ Sơn), bên cạnh những loài và dạng Đevon sớm như Bacbochonetes janvieri Rach., Atrypa ex gr. reticularis Linn., Schellwienella sp., Chlupacina cf. nariensis Rach., còn gặp các dạng thường gặp trong trầm tích Đevon trung, bậc Givet như Atrypa (Desquamatia) cf. magna Grabau, Schizophoria cf. macfarlanii Grabau, Schizophoria cf. impressa Hall, Chonetipustula sp.. Do vậy tuổi hệ tầng Dưỡng Động được coi thuộc Emsi-Eifel.
Hình 3. Quan hệ không chỉnh hợp giữa Ht Quán Lạn (A) và Ht Vạn Cảnh (B), bờ tây nam bán đảo Đồ Sơn
Hình 4. Cát kết chứa cuội của Ht Vạn Cảnh, bờ tây nam bán đảo Đồ Sơn
Hình 5. Bề mặt nứt nẻ do khô hạn của đá phiến sét thuộc Ht Vạn Cảnh, tây nam bán đảo Đồ Sơn
Hình 6. Cát, bột kết xen đá phiến sét có thế nằm dốc đứng của Ht Dưỡng Động bờ đông đảo Ngọc Vừng
Hình 7. Cát kết phân lớp xiên của Ht Đồ Sơn bờ đông đảo Ngọc Vừng
(Xem tiếp trong số sau của TCĐC )
TRẦM TÍCH ĐEVON Ở ĐỚI QUẢNG NINH
NGUYỄN HỮU HÙNG1, TẠ HOÀ PHƯƠNG2, NGUYỄN THỊ THUỶ1
1Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Thanh Xuân, Hà Nội2Đại học Khoa học Tự nhiên, Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
(Tiếp theo Tạp chí Địa chất số A/302 - 2007)
c. Hệ tầng Đồ Sơn (D2gv đs)
Hệ tầng Đồ Sơn được mô tả dưới đây gồm các tập cuội kết, sạn kết, cát kết phân lớp xiên, cát kết dạng quarzit chứa hoá thạch cá cổ Bothriolepis và thực vật Lepidodendropsis, đặc trưng cho các thành tạo sông, suối và tam giác châu. Mặt cắt bờ tây nam bán đảo Đồ Sơn, đoạn từ sườn tây nam núi Đồ Sơn qua Khách sạn Hoá chất đến bến cá Vạn Hương (Hình 2.4) được chọn làm mặt cắt bổ trợ (hypostratotyp) cho hệ tầng.
Tập 1. Cuội kết, sạn kết xen với cát kết phân lớp xiên, sáng màu. Thành phần hạt cuội chủ yếu là thạch anh màu trắng đục, cát kết quarzit màu hồng nhạt, đá silic màu đen, bột kết màu xám xanh, đường kính 1-2 cm, độ mài tròn tốt. Xi măng chủ yếu là cát kết sáng màu, đã bị quarzit hoá. Tập cuội kết này phủ không chỉnh hợp trên đá phiến sét đen, phong hoá có màu tím gụ của hệ tầng Vạn Cảnh. Bề dày ~ 10 m.
Tập 2. Cát kết quarzit màu trắng đục, phân lớp dày 0,5-1 m. Đá có thế nằm thoải, góc dốc trung bình 10o, cắm về N-TN. Trong cát kết sáng màu, tại điểm lộ F.594b ở sườn tây nam núi Đồ Sơn, đã phát hiện được nhiều di tích thực vật Lepidodendropsis và các bông bào tử. Theo phương đông nam, tập cát kết này kéo dài đến bến Vạn Hương, tới sát mép nước biển. Đây cũng là điểm lộ chứa nhiều hoá thạch thực vật Lepidodendropsis được nhiều nhà địa chất biết đến. Xa hơn nữa về phía đông nam, dưới chân đồi “Biệt thự Bảo Đại” khoảng 100 m về phía tây, P. Janvier và nnk. [6], J. Long và nnk. [9] đã thu thập được các di tích cá cổ cho tuổi D2gv - D3 gồm Bothriolepis sp., Vietnamaspis trii, Briagalepis. Bề dày chung của hệ tầng ở mặt cắt này ~ 75 m.
Ở Nam Thôn và Ngọc Xuyên cũng thấy được các lớp cuội, sạn kết xen trong cát kết phân lớp xiên, cát kết sáng màu, phân lớp dày, có bề dày không lớn (15-20 m); chúng nằm ở vị trí trên cao của mặt cắt, không chỉnh hợp trên hệ tầng Vạn Cảnh.
Cũng trong tập 2 của hệ tầng, tại sườn núi sau Khách sạn Ngân hàng, đoạn giữa chợ Đồ Sơn và UBND Quận Đồ Sơn, Tống Duy Thanh và nnk. [21] đã phát hiện được hoá thạch Chân rìu cho tuổi Givet: Schizodus (?) sp., Ptychopteria (Actinopteria) hunanensis, Goniopora sp. (xác định của Fang Zhong-Jie, Viện Địa chất và Cổ sinh Nam Kinh, Trung Quốc.
Trong các vùng Kinh Môn và Thuỷ Nguyên (Hình 2), hệ tầng Đồ Sơn thường có vị trí địa tầng nằm trên hệ tầng Dưỡng Động và chỉnh hợp dưới đá vôi của hệ tầng Tràng Kênh. Tại mặt cắt trên đỉnh núi Yên Phụ, sau cổng vào chùa Yên Phụ (F. 567; x = 21o00'16''B; y = 106o 29'36'' Đ), lộ ra các lớp sạn kết, cát kết bị quarzit hoá sáng màu nằm không chỉnh hợp? trên bột kết, đá phiến sét màu tím gụ của hệ tầng Dưỡng Động. Trong vùng Lỗ Sơn thuộc huyện Kinh Môn, ở sườn nam núi Cúc Tiền, cũng lộ ra các lớp sạn kết, cát kết hạt thô, sáng màu nằm chỉnh hợp dưới các lớp đá vôi đen của hệ tầng Tràng Kênh chứa phong phú hoá thạch Lỗ tầng Stachyodes insignis Yav., S. singularis Yav. cho tuổi Givet muộn. Kiểu mặt cắt tương tự cũng gặp ở núi Phượng Hoàng, phía tây thị trấn Mỹ Đức (Tràng Kênh) và ở Dưỡng Động trong vùng Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng.
Trên các đảo ở vịnh Bái Tử Long thuộc tỉnh Quảng Ninh, hệ tầng Đồ Sơn lộ ra với những đặc điểm thạch học khá đặc trưng cho tướng cửa sông, ven biển. Trên đảo Quán Lạn, các lớp của hệ tầng trải dài trên 10 km, rộng 0,5- 2 km. Mặt cắt đầy đủ, tiêu biểu nhất có thể theo dõi được từ bờ tây, nơi có bến tàu khách, theo hướng đông nam đến bờ đông của đảo. Mặt cắt bắt đầu bằng tập cuội kết, sạn kết đa khoáng (Hình 1.4), với hạt cuội gồm thạch anh, đá phiến sét màu xám xanh, cát kết quarzit, kích thước không đều, đường kính 1-5 cm, và xi măng chủ yếu là bột và sét kết. Chuyển dần lên là cát kết phân lớp xiên, cát kết dạng quarzit sáng màu chứa oxit sắt màu đỏ nâu, xen kẽ với các lớp cuội kết, sạn kết và kết thúc bằng tập cuội kết có đường kính 3-5 cm lộ trên bãi tắm sinh thái ở bờ đông của đảo. Đá có thế nằm ổn định, cắm về T-TB (290o), góc dốc 35-40o. Bề dày toàn bộ của hệ tầng ở mặt cắt này > 350 m. Ranh giới dưới và trên bị chìm dưới mực nước biển.
Trên đảo Ngọc Vừng, tại bờ phía đông, bắt gặp các lớp cuội kết, sạn kết dày 20 - 30 cm và các lớp cát kết phân lớp xiên đặc trưng cho trầm tích tướng sông suối và tam giác châu (Hình 5). Cho dù chưa được khảo sát đầy đủ, nhưng bề dày ước tính của tập cát kết này có thể tới trên 200 m và nó nằm không chỉnh hợp trên các lớp bột kết và đá phiến sét chứa hoá thạch Tay cuộn của hệ tầng Dưỡng Động.
Trên đảo Trà Bản (Hình 1.5), hệ tầng lộ ra tại làng Đồng Danh, cách trung tâm xã Bản Sen 1,5 km về phía nam. Mặt cắt gồm các lớp mỏng sạn kết, chuyển dần lên là cát kết dạng quarzit, phân lớp dày, màu xám sáng, phong hoá có màu vàng nâu, chứa phong phú hoá thạch cá cổ và thực vật Lepidodendropsis. Tại điểm lộ F.514 (x = 20o57’28” B; y = 107o29’26” Đ) đã thu thập được hoá thạch cá cổ Asterolepis cf. ornata Eichwald và thực vật Lepidodendropsis sp. cho tuổi D2gv. Hệ tầng cát kết này nằm trên các lớp đá phiến sét chứa thực vật Đevon sớm của hệ tầng Vạn Cảnh với quan hệ không rõ và nằm chỉnh hợp dưới đá vôi chứa hoá thạch Lỗ tầng Amphipora, tuổi D2gv-D3 thuộc hệ tầng Tràng Kênh. Bề dày chung của hệ tầng ở mặt cắt này quan sát được khoảng 200 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Trước hết cần xác định tính hiệu lực của hệ tầng Đồ Sơn với thành phần như vừa mô tả trên đây. “Cát kết Đồ Sơn” (Grès de Do-Son) do Lantenois H. [8], Patte E. [14] và Saurin E. [17] mô tả chỉ bao gồm cát kết dạng quarzit xen những lớp mỏng sét vôi (?) dọc theo các bãi tắm Đồ Sơn. Như vậy, phân vị “Cát kết Đồ Sơn” hoàn toàn ứng với khối lượng của hệ tầng Đồ Sơn được mô tả trong bài báo này. Những khối lượng trầm tích khác như ở Ngọc Xuyên mà các tác giả khác coi thuộc hệ tầng Đồ Sơn [3, 4, 11, 22, 24] thực ra thuộc một thể địa tầng khác mà chúng tôi mô tả là hệ tầng Vạn Cảnh trong bài báo này.
Một vấn đề chưa được thống nhất giữa các nhà nghiên cứu, đó là vị trí địa tầng của các tập cuội, sạn, cát kết phân lớp xiên của hệ tầng Đồ Sơn. Trần Văn Trị và nnk. [24] cho rằng các trầm tích vụn thô, cát kết phân lớp xiên là đặc trưng cho thành hệ molas của giai đoạn tạo núi Caleđoni muộn xảy ra vào Đevon sớm. Như vậy, tập cuội kết, sạn kết lộ ra ở đảo Quán Lạn cũng như các lớp cát kết phân lớp xiên được coi là thuộc đáy của mặt cắt Đevon. Trên thực tế, trừ tập cuội kết, sạn kết, các lớp cát kết phân lớp xiên lộ ra trên đảo Quán Lạn không thấy được quan hệ dưới cũng như trên; còn ở những nơi khác trên bán đảo Đồ Sơn cũng như ở các đảo khác trên vịnh Bái Tử Long, tập trầm tích hạt thô này nằm trực tiếp trên các đá lục nguyên chứa hoá thạch Đevon sớm. Janvier P. và nnk. [7] cho rằng có bất chỉnh hợp địa tầng và đã quan sát được tại mỏ đá ở phía tây nam Đông Thôn (mỏ đá Nam Thôn), thị trấn Đồ Sơn. Bất chỉnh hợp địa tầng này được đánh dấu bằng lớp cuội kết, sạn kết cơ sở, nằm ngay trên mái của tập bột kết chứa Eurypterida, Tay cuộn (Lingula), cá cổ và thực vật thuỷ sinh có tuổi Silur muộn - Đevon sớm.
Một vết lộ khác có trật tự địa tầng tương tự như ở mỏ đá Nam Thôn mới được chúng tôi phát hiện trên bờ tây nam của bán đảo Đồ Sơn (Vết lộ F.594, Hình 3). Tại đây đã bắt gặp lớp cuội kết (Hình 4) của hệ tầng Đồ Sơn nằm không chỉnh hợp trên bề mặt đá phiến sét bị nứt nẻ do khô hạn (Hình 5) của hệ tầng Vạn Cảnh.
Có thể cho rằng các tập cuội, sạn và cát kết phân lớp xiên ở đảo Quán Lạn và các đảo khác trên vịnh Bái Tử Long cũng như trên đất liền, ở bán đảo Đồ Sơn, các vùng Kinh Môn và Thuỷ Nguyên, là các thành tạo sông, suối và tam giác châu hình thành trong cùng một thời gian, phủ không chỉnh hợp trên các trầm tích cổ hơn, mở đầu cho một chu kỳ trầm tích mới vào đầu Givet. Theo thành phần hoá thạch và đặc điểm trầm tích thì hệ tầng Đồ Sơn có vị trí địa tầng tương đương với các hệ tầng Tân Lập ở vùng Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn và hệ tầng Hải Cẩu chứa phức hệ hoá thạch cá cổ Bothriolepis ở Đông Vân Nam, Trung Quốc.
Hệ tầng Đồ Sơn nằm chỉnh hợp dưới hệ tầng Tràng Kênh. Quan hệ này có thể quan sát được trên các đảo Trà Bản, Vạn Cảnh, đảo Dài, Ngọc Vừng và ở các vùng Lỗ Sơn, Dưỡng Động, Tràng Kênh trên đất liền. Tại các vùng lộ này đều thấy đá vôi của hệ tầng Tràng Kênh chứa hoá thạch Lỗ tầng và San hô tuổi Givet muộn - Frasni nằm trên hệ tầng Đồ Sơn với thế nằm chỉnh hợp.
Tuổi của hệ tầng Đồ Sơn là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm. Sau những phát hiện cá cổ Bothriolepis và thực vật Lepidodendropsis của Janvier P. [6] và Long J. [9] thì hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng hệ tầng Đồ Sơn có tuổi Givet - Đevon muộn [21] hoặc Đevon muộn - Carbon sớm? [10] chuyển tướng ngang với các trầm tích Đevon thượng - Carbon hạ của hệ tầng Phố Hàn. Trong hệ tầng Đồ Sơn bắt gặp phong phú di tích cá cổ, trong đó đáng lưu ý các đại biểu của Bothriolepis, Asterolepis là những dạng rất đặc trưng cho trầm tích Givet - Đevon muộn ở vùng Baltic của Châu Âu và Đông Vân Nam, Trung Quốc. Thực vật Lepidodendropsis thường gặp trong mức địa tầng Đevon trung, bậc Givet - Carbon hạ. Ở Việt Nam đã gặp các đại biểu này trong trầm tích Givet ở vùng Hói Đá, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình và trong hệ tầng Tân Lập (D2gv - D3fr tl) ở Mỏ Nhài, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Tại mặt cắt Đồng Danh trên đảo Trà Bản, hệ tầng Đồ Sơn chứa các phức hệ cá cổ và thực vật Lepidodendropsis nêu trên có vị trí địa tầng nằm sát dưới đá vôi chứa các phức hệ Lỗ tầng có tuổi Givet muộn - Frasni. Ngoài ra, các hoá thạch Chân rìu sưu tập trong tập 2 của hệ tầng gồm Schizodus (?) sp., Ptychopteria (Actinopteria) hunanensis, Goniopora sp. ở bán đảo Đồ Sơn cũng cho tuổi Givet. Dựa trên ý nghĩa địa tầng của các hóa thạch và quan hệ địa tầng với các trầm tích thuộc loạt Ngọc Vừng nằm dưới và hệ tầng Tràng Kênh nằm trên, mối tương quan không gian với các trầm tích có vị trí địa tầng tương đồng đã được biết ở miền Bắc Việt Nam và Đông Vân Nam, Trung Quốc, có thể coi hệ tầng Đồ Sơn có tuổi Givet, nhiều khả năng thuộc Givet sớm.
d. Hệ tầng Tràng Kênh (D2-3 tk)
Trước đây “tầng Tràng Kênh” hay “điệp Lỗ Sơn” đều được mô tả có tính chất tổng hợp từ nhiều mặt cắt khác nhau, do vậy các tập đá silic, đá vôi chứa các ổ silic lộ ra ở Pháp Cổ, Phi Liệt, Đò Đụn chứa Trùng lỗ Quasiendothyra tuổi Đevon muộn - Carbon sớm được coi thuộc phần giữa của hệ tầng Tràng Kênh. Trong khi đó, các phức hệ Lỗ tầng và San hô dẫn ra ở phần dưới và trên khá giống nhau, đều cho tuổi Givet. Tại các vùng nêu trên, trật tự địa tầng của các tập silic này như sau:
Tập 1. Đá silic dạng vi phiến, màu xám đen, phong hoá có màu xám vàng, ròn, vỡ mặt cát khai. Đá tạo thành các vi uốn nếp, uốn lượn mềm mại. Bề dày không quá 50 m. Không thấy được quan hệ dưới vì bị trầm tích Đệ tứ phủ lấp.
Tập 2. Đá vôi silic, đá vôi xen các dải silic mỏng và đá vôi chứa các ổ silic màu đen, rắn chắc. Quan sát dưới kính hiển vi thấy nhiều di tích sinh vật, nghi ngờ là Radiolaria? Dày 50 m.
Tập 3. Đá vôi màu xám đen, phân lớp dày chứa phong phú hoá thạch Huệ biển và Trùng lỗ. Bề dày trên 50 m.
Các tập kể trên nằm chỉnh hợp với nhau, phân bố thành dải, theo phương TB-ĐN, tạo nên những núi thấp từ làng Pháp Cổ qua Phi Liệt đến gần bến phà Đò Đụn (phà Lại Xuân) thuộc xã Lại Xuân, huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng.
Nguyễn Văn Liêm [2] đã phát hiện hoá thạch Trùng lỗ thuộc phức hệ Quasiendothyra trong đá vôi ở Đò Đụn mà ông xếp vào hệ tầng Hạ Long, tương ứng với Turnais và có thể gồm cả lớp ranh giới giữa Đevon và Carbon.
Bên bờ bắc sông Kinh Thày, gần đỉnh Núi Han thuộc xã Lỗ Sơn, huyện Kinh Môn, cách núi Pháp Cổ 1,5 km về phía tây bắc cũng bắt gặp tập silic như vừa mô tả, nằm sát ngay trên tập đá vôi xám sáng, có cấu tạo dạng sọc dải chứa Răng nón Famen sớm Palmatolepis subrecta Mill. & Young, P. perlobata perlobata Ul. Bass. thuộc phần trên hệ tầng Tràng Kênh. Cũng tại mặt cắt này, trong tập đá vôi nằm trên đá vôi chứa các ổ silic, chúng tôi sưu tập được San hô Sinkiangopora và Trùng lỗ Palaeopropecta minima tuổi Carbon. Với những tài liệu vừa trình bày, nên coi các tập silic, đá vôi chứa các ổ silic lộ ra ở Pháp Cổ, Phi Liệt, Đò Đụn cũng như ở mặt cắt gần đỉnh Núi Han thuộc hệ tầng Phố Hàn, tuổi D3-C1.
Việc lựa chọn mặt cắt chuẩn cho hệ tầng Tràng Kênh gặp khó khăn do các đá của hệ tầng lộ ra trong các địa hình bị phân cắt bởi đồng bằng và biển. Các mặt cắt đã nghiên cứu cả trên đất liền và trên biển cho thấy, hệ tầng Tràng Kênh chủ yếu gồm trầm tích carbonat tướng thềm. Ở phần chân của mặt cắt, có nơi xuất hiện đá vôi màu đen xen các lớp mỏng đá silic như ở mặt cắt Núi Thần (Lỗ Sơn) hoặc ở chân Núi Han, còn ở hầu hết các mặt cắt khác chúng bắt đầu bằng tập đá vôi màu đen, đá vôi xám sáng, phân lớp trung bình đến dày, chứa phong phú hoá thạch Lỗ tầng, San hô tuổi Givet muộn - Frasni; chuyển dần lên phía trên là đá vôi màu xám sáng, phân dải mỏng chứa Răng nón tuổi Famen sớm. Những mô tả cụ thể các mặt cắt của hệ tầng Tràng Kênh lộ trên đất liền cũng như trên biển đã được chúng tôi trình bày khá chi tiết trong một công bố gần đây [12]. Bề dày chung của hệ tầng là 200 - 250 m.
Quan hệ địa tầng và tuổi. Ranh giới dưới của hệ tầng Tràng Kênh thấy rõ ở phần lớn các mặt cắt kể cả trong đất liền và trên các đảo. Ở vùng Kinh Môn, tại mặt cắt sườn bắc núi Cúc Tiền (Hình 2.1) và ở vùng Tràng Kênh, tại mặt cắt phía tây nam thị trấn Minh Đức 1,2 km (Hình 2.2) bắt gặp các lớp đá vôi màu xám đen chứa phong phú hoá thạch Lỗ tầng và San hô vách đáy thuộc phức hệ Caliapora battersbyi nằm chỉnh hợp trên cát kết quarzit của hệ tầng Đồ Sơn. Trên các đảo ngoài vịnh Bái Tử Long, quang cảnh đá vôi của hệ tầng Tràng Kênh nằm trên cát kết của hệ tầng Đồ Sơn có thể quan sát được ở hầu hết các mặt cắt (Hình 1.1, 1.3, 1.5). Trên đảo Trà Bản, tại Đồng Danh, xã Bản Sen, hệ tầng tràng Kênh lộ ra ở đây gồm chủ yếu đá vôi màu xám đen, xám sáng, phân lớp trung bình đến dày, chứa phong phú hoá thạch Lỗ tầng thuộc các phức hệ Amphipora ramosa minor và Amphipora laxeperforata nằm sát trên cát kết dạng quarzit chứa phức hệ cá cổ Bothriolepis và thực vật Lepidodendropsis của hệ Đồ Sơn. Ranh giới trên của hệ tầng Tràng Kênh với các trầm tích D3-C1 của các hệ tầng Con Voi và Phố Hàn thường là không rõ.
Tuổi Givet của hệ tầng Tràng Kênh đã được xác định dựa trên các phức hệ Lỗ tầng, San hô bốn tia, San hô vách đáy và Tay cuộn đã được dẫn ra trong nhiều công trình nghiên cứu [1-3, 12, 13, 15, 19]. Tuổi Frasni và Famen của phần trên hệ tầng đã được đề cập trong công bố gần đây của Nguyễn Hữu Hùng và nnk. [12]. Trên cơ sở nghiên cứu Lỗ tầng, San hô, Răng nón sưu tập ở nhiều mặt cắt của hệ tầng Tràng Kênh, các tác giả đã xác lập được các mức cổ sinh đặc trưng sau:
- Phức hệ Caliapora battersbyi: Givet muộn,
- Phức hệ Stachyodes costulata: Frasni sớm,
- Phức hệ Amphipora simplex: Frasni muộn,
- Đới Palmatolepis triangularis: Famen sớm.
III. KẾT LUẬN
Những tài liệu về địa tầng và cổ sinh mới được phát hiện trong những năm gần đây qua nhiều hành trình nghiên cứu trên biển cũng như trong đất liền đã làm sáng tỏ mối tương quan không gian và trật tự địa tầng của các trầm tích Đevon trong đới Quảng Ninh. Trong số các phân vị địa tầng đã được xác lập, những phân vị được coi có hiệu lực gồm các hệ tầng Dưỡng Động (D1-2 dđ), Đồ Sơn (D2gv đs) và Tràng Kênh (D2-3 tk). Đồng thời xác lập mới loạt Ngọc Vừng (D1-2 nv), hệ tầng Vạn Cảnh (D1 vc). Các trầm tích trước đây được mô tả thuộc hệ tầng Si Ka (D1 sk), hệ tầng Sông Cầu (D1 sc) ở đới Quảng Ninh nay được coi thuộc hệ tầng Vạn Cảnh. Hệ tầng Dưỡng Động (D1-2 dđ) hiện tại chỉ bao gồm các trầm tích chứa hoá thạch biển; các tập cuội kết, sạn kết, cát kết quarzit lộ ra ở phần trên của hệ tầng được coi thuộc hệ tầng Đồ Sơn. Hệ tầng Đồ Sơn là nơi đầu tiên phát hiện các hoá thạch cá cổ Bothriolepis và thực vật Lepidodendropsis đặc trưng cho trầm tích Givet ở đới Quảng Ninh. Hệ tầng Lỗ Sơn được coi là đồng nghĩa với hệ tầng Tràng Kênh (D2g-D3fm tk) với thành phần trầm tích gồm chủ yếu là đá vôi, tướng carbonat thềm và có vị trí địa tầng nằm trên hệ tầng Đồ Sơn.
Việc xác nhận có một gián đoạn địa tầng trong Đevon giữa thực sự có ý nghĩa, đánh dấu một chu kỳ hoạt động kiến tạo có tính khu vực, cho phép liên hệ được với các gián đoạn địa tầng vào cuối Eifel, đầu Givet ở Việt Bắc và Đông Vân Nam, Trung Quốc.
Các trầm tích Đevon hạ - Đevon trung của loạt Ngọc Vừng và hệ tầng Đồ Sơn chủ yếu gồm các đá vụn lục nguyên chứng tỏ các bồn trũng Đevon trong đới Quảng Ninh cách không xa các lục địa cổ. Theo Sinitsyn V. M. [18] vào thời kỳ này, ở phía đông của bờ biển Việt Nam hiện nay, tồn tại lục địa cổ Cathaysia, còn theo Pan & Dineley 1988, Yang et al. 1981, Lee 1991 và Jones et al 1997 [theo 7] tồn tại một vùng rộng lớn của các thành tạo molas Silur-Đevon ở bờ biển Đông Nam Trung Quốc, trải dài từ vùng Nam Kinh, qua biển Đông tới miền Trung Việt Nam.
Ghi chú: Các hình trích dẫn trong bài xem ở phần đã đăng trong TCĐC số 302/9-10/2007.
Lời cảm ơn
Các tác giả chân thành cảm ơn TS Đặng Trần Huyên, chủ nhiệm đề án "Địa tầng các trầm tích Phanerozoi ở Đông Bắc Bộ", các đồng nghiệp CN Nguyễn Đình Hữu, KS Trần Minh Khang cùng cộng tác trong quá trình khảo sát, thu thập tài liệu địa chất qua các hành trình trên biển cũng như trong đất liền.
Các tác giả xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới GS TSKH Tống Duy Thanh đã đọc và góp nhiều ý kiến quý báu cho bản thảo của bài báo.
VĂN LIỆU
1. Dương Xuân Hảo, Nguyễn Thơm, Nguyễn Đức Khoa, 1975. Tài liệu mới về sinh địa tầng các trầm tích Paleozoi trung (từ năm 1964 đến năm 1973). Tuyển tập CTNCĐT. Nxb Khoa học Kỹ thuật: 66-105, Hà Nội.
2. Dương Xuân Hảo (Chủ biên), 1980. Hoá thạch đặc trưng ở miền Bắc Việt Nam. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, 600 tr, Hà Nội.
3. Đovjikov A.E. (Chủ biên), 1971. Địa chất miền Bắc Việt Nam - Bản thuyết minh cho Bản đồ địa chất miền Bắc Việt Nam. Nxb Khoa học Kỹ thuật, 584 tr, Hà Nội.
4. Janvier P., Bliesk A., Gerrienne P., Tong-Dzuy Thanh, 1987. Faune et flore de la Formation de Sika (Dévonien inférieur) à Do Son (Hai Phong, Viet Nam). Bull. Mus. Natn. Hist. Nat. 9C/3: 291-302. Paris.
5. Janvier P., Tong-Dzuy Thanh, 1988. The Silurian and Đevonian Vertebrates of Viet Nam: A review. J. Geology, B/11-12: 18-28. Hà Nội.
6. Janvier, P., Tong-Dzuy, T., Gerrienne, P. 1989. Les Placodermi, Arthropodes et Lycophytes des grès dévonien de Dô Son (Hai Phong, Việt Nam). Geobios, 22, 625-639.
7. Janvier P., Racheboeuf, Hung Nguyen Huu, Truơng Doan Nhat, 2003. Devonian fishes (Placodermi, Antiarcha) from Tra Ban Island (Bai Tu Long Bay, Quang Ninh Province, Vietnam) and the question of the age of the Do Son Formation. J. of Asian Earth Sciences, 21 : 795-801.
8. Lantenois H. 1907. Note sur la géologie de l’Indochine. Mém. de la Soc. Geol. de France, 4 : 1-56. Paris.
9. Long J.A., Burret C., Phạm Kim Ngan, Janvier P., 1990. A new bothriolepid antiarch (Pisces, Placodermi) from the Devonian of Dô Son peninsula, northern Viet Nam. Alcheringa, 14 : 181-194.
10. Ngô Quang Toàn 1994. Địa chất và khoáng sản thành phố Hải Phòng. Bản đồ ĐC, Sô đặc biệt chào mừng 35 năm chuyên ngành BĐĐC (1959-1994): 55-66. Liên đoàn BĐĐC, Hà Nội.
11. Nguyễn Công Lượng (Chủ biên), 2001. Địa chất và khoáng sản tờ Hạ Long - Móng Cái (F-48-XXX; F-48-XXIV) tỉ lệ 1:200.000. Cục Địa chất và Khoáng sản, Hà Nội.
12. Nguyễn Hữu Hùng, Tạ Hoà Phương, P. Janvier, 2004. Tài liệu mới về địa tầng Đevon ở vùng Duyên Hải Đông Bắc Bộ. Địa chất, A/281: 1-10, Hà Nội.
13. Nguyễn Quang Hạp, 1967. Các trầm tích vùng rìa đồng bằng miền trũng Hà Nội và dự đoán sự phát triển của chúng vào miền trũng. Địa chất, 69 – 70 : 9-21, Hà Nội.
14. Patte E. 1927. Etudes géologiques de l' Est du Tonkin. Bull. SGI, XVI/1: 314 p. Hanoi.
15. Phạm Văn Quang, 1971. Kiến tạo bể than Đông Bắc Bắc Bộ. Địa chất, 97 : 1-15, Hà Nội.
16. Saurin E. 1956. Lexiques stratigraphique international. Vol. III. Asie. Fasc. 6a. Indochine. CNRS. Paris.
17. Saurin E. 1958. Le Dévonien en Indochine: Stratigraphie et corrélation. Ann. Fac. Sci.: 193-221. Saigon.
18. Sinitsyn V. M., 1962. Cổ địa lý châu Á. Nxb. ANSSSR (tiếng Nga).
19. Tạ Hoà Phương, Nguyễn Văn Hoàn, Phạm Nguyên Phương, 2004. Hệ tầng Dưỡng Động trong mối tương quan không gian với các hệ tầng tuổi Paleozoi vùng Duyên Hải Đông Bắc Bắc Bộ. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, KHTN & CN, XX/4 : 61-67. Hà Nội.
20. Tống Duy Thanh (Chủ biên), 1986. Hệ Đevon ở Việt Nam. Nxb KH & KT, 141 tr, Hà Nội.
21. Tong-Dzuy Thanh, Cai Chong-yang, 1995. Đevonian flora of Viet Nam. J. Geology, B/5-6: 105-113, Hà Nội.
22. Tống Duy Thanh, Vũ Khúc (Đồng chủ biên), 2005. Các phân vị địa tầng Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 506 tr, Hà Nội.
23. Trần Văn Trị, Nguyễn Đình Uy, 1975. Trầm tích Silur - Đevon ở rìa tây bắc vịnh Bắc Bộ và điều kiện thành tạo của chúng. Tt các công trình nghiên cứu về địa tầng, tr.55-65. NXBKHKT, Hà Nội.
24. Trần Văn Trị (Chủ biên), 1977. Địa chất Việt Nam, phần miền Bắc. Nxb KHKT, 356 tr, Hà Nội.
25. Vũ Khúc, Bùi Phú Mỹ (Đồng chủ biên), 1989. Địa chất Việt Nam. Tập I- Địa tầng. Tổng cục Mỏ và Địa chất. Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dc3.doc