Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV

Tài liệu Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 285 TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV Phạm Đình Quyết*, Võ Thị Duyên*, Huỳnh Ngọc Vân Anh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Người HIV/AIDS đang điều trị ARV có tỷ lệ mắc trầm cảm cao hơn các đối tượng khác trong dân số và trầm cảm có liên quan đến các vấn đề như: các hành vi nguy cơ lây truyền bệnh, hiệu quả điều trị, chất lượng cuộc sống. Tỷ lệ trầm cảm khác nhau ở từng quốc gia, ở Việt Nam người nhiễm HIV đang điều trị ARV chưa được nghiên cứu đầy đủ về sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú HIV quận Gò Vấp, Tp.HCM. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 381 người đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú HIV quận Gò Vấp, Tp.HCM từ tháng 4 đến thàng 7 năm 20017. Đối tượng hoàn thành bộ câu hỏi tự điền về các đặc ...

pdf8 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 285 TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS ĐANG ĐIỀU TRỊ ARV Phạm Đình Quyết*, Võ Thị Duyên*, Huỳnh Ngọc Vân Anh* TÓM TẮT Đặt vấn đề: Người HIV/AIDS đang điều trị ARV có tỷ lệ mắc trầm cảm cao hơn các đối tượng khác trong dân số và trầm cảm có liên quan đến các vấn đề như: các hành vi nguy cơ lây truyền bệnh, hiệu quả điều trị, chất lượng cuộc sống. Tỷ lệ trầm cảm khác nhau ở từng quốc gia, ở Việt Nam người nhiễm HIV đang điều trị ARV chưa được nghiên cứu đầy đủ về sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú HIV quận Gò Vấp, Tp.HCM. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 381 người đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú HIV quận Gò Vấp, Tp.HCM từ tháng 4 đến thàng 7 năm 20017. Đối tượng hoàn thành bộ câu hỏi tự điền về các đặc điểm dân số - xã hội, giúp đỡ xã hội, triệu chứng HIV, quá trình nhiễm và điều trị, rối loạn lo âu, trầm cảm. Trầm cảm, rối loạn lo âu, giúp đỡ xã hội và triệu chứng liên quan bệnh HIV được đánh giá lần lượt bằng bộ câu hỏi CES-D, HAM-A, MSPSS, HSI. Các yếu tố liên quan được xác định bằng kiểm định 2 và phân tích hồi quy Poisson đa biến với ngưỡng ý nghĩa là 0,05. Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm là 39,2%. Đa số người tham gia nghiên cứu thuộc nhóm 30-49 tuổi, giới nam chiếm đa số, có nghề nghiệp ổn định, sống với người thân. Phân tích đa biến cho thấy tình trạng sống chung, mức độ nhận được giúp đỡ từ xã hội, tiền sử uống thuốc an thần, mức độ rối loạn lo âu, triệu chứng liên quan đến bệnh HIV, có liên quan tới trầm cảm. Kết luận: Người nhiễm HIV đang điều trị ARV cần được quan tâm hơn về sức khỏe tâm thần, nhất là nhóm người có nhiều triệu chứng liên quan đến bệnh HIV, sống với ba mẹ, nhận được giúp đỡ xã hội thấp, có tiền sử sử dụng thuốc chống trầm cảm, lo âu. Từ khóa: Trầm cảm, Rối loạn lo âu, Giúp đỡ xã hội, Triệu chứng HIV, CES-D, HAM-A, MSPSS, HSI. ABSTRACT DEPRESSION AND CORRELATES IN PEOPLE LIVING WITH HIV/AIDS UNDERGOING ARV Pham Dinh Quyet, Vo Thi Duyen, Huynh Ngoc Van Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 285 - 292 Background: the prevalence of depression in patients undergoing the ARV treatment is higher than that in the general population and related to health risk behaviors, efficient treatment, quality of life. The prevalence of depression vary from country to country, in Vietnam, the said statistic has not been entirely described. Objectives: To determine the prevalence of depression, and factors related to it in people living with HIV who undergoing ARV at Outpatient clinic of GoVap district in HCM City. Methods: a cross-sectional study was conducted on 381 eligible patient attending HIV clinic of GoVap district in Ho Chi Minh City (Vietnam) from April to July 7, 2017. Participants completed a self-report * Khoa YTCC, Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS. Phạm Đình Quyết ĐT: 0965136846 Email: quyetpham1516@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 286 questionnaire that included demographics, socio- economics status, risk behaviors, social supports, depression and anxiety symptom, CD4 count, virus load. Depression, anxiety, social supports, related HIV symptom were assessed using CES-D, HAM-A, MSPSS, HSI, respectively. Chi squared test and multivariable Poisson analysis were used to explore the association of depression and related factors with p value of 0.05 as statistical significance. Results: The prevalence of depression was 39.2%. Most of the participants were in the 30-49 age group, male, stable occupations, living with relatives, attended high school or above. Multivariable analysis showed that factors such as living with relatives, class of social support, HIV symptoms, grade of anxiety, history of using anti-depression or anti-anxiety were related to depression. Conclusion: People with HIV who undergo ART should be more concerned with their mental health, especially those having low social supports, living with their relatives, HIV symptoms, and history of using anti-depression or anti-anxiety. Keywords: Depression, Anxiety Disorder, Social Support, HIV Symptoms, CES-D, HAM-A, MSPSS. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện tại trên Thế Giới năm 2015 có khoảng 36,7 triệu người mắc bệnh HIV(18). Ước tính số người mới mắc giảm còn 35% so với năm 2000, và 7,8 triệu người được cứu sống là do hiệu quả của điều trị ARV(30). Những người có những rối loạn về tâm thần có khả năng: thất bại điều trị cao hơn(1), tuân thủ điều trị kém hơn(2,3), chất lượng cuộc sống thấp hơn(3,5), kì vọng sống thấp, thay đổi tế bào CD4 (Lympho T CD4+)(1), có các hành vi nguy cơ lây truyền cao hơn so với những người không có vấn đề về sức khỏe tâm thần(19,25). Trong các bệnh về tâm thần kinh ở nhóm người HIV/AIDS thì tỷ lệ mắc cao nhất là trầm cảm, và thay đổi theo từng quốc gia, khoảng từ 20% đến 55%(3,9,10,13,26). Trong khi đó tỷ lệ này ở dân số chung là khoảng 4,4%(31). Hiện tại, đã có một số nghiên cứu tại Việt Nam báo cáo tỷ lệ trầm cảm ở nhóm người HIV/AIDS thay đổi từ 18,7 - 42%(10,14,27). Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa bao quát về các vấn đề người nhiễm HIV gặp phải trong quá trình điều trị ARV. Hiện tại, Phòng khám và điều trị ngoại trú HIV quận Gò Vấp Tp.HCM có khoảng 1.000 bệnh nhân khám và điều trị ARV, chưa có nghiên cứu về trầm cảm tại đây. Vì vậy, nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu là: Xác định tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở những người nhiễm HIV/AIDS đang điều trị ARV tại phòng khám ngoại trú HIV quận Gò Vấp, Tp.HCM năm 2017. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân HIV/AIDS đang điều trị ARV lớn hơn 1 tháng và người lớn hơn 18 tuổi, đồng ý tham gia vào nghiên cứu, và loại ra khỏi nghiên cứu những người không biết chữ, thiểu năng về tâm thần, phụ nữ đang mang thai, đối tượng trong tình trạng cấp cứu, và không tìm được hồ sơ bệnh án. Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện tự tháng 4 đến tháng 7 tại phòng khám HIV/AIDS quận Gò Vấp Tp.HCM. Với kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện trên những bệnh nhân HIV/AIDS đang điều trị ARV, cỡ mẫu tối thiểu là 381 người được tính dựa vào công thức ước lượng một tỷ lệ trong dân số(8), với tỷ lệ trầm cảm dựa theo nghiên cứu của tác giả Huỳnh Ngọc Vân Anh (p=0,42)(14), xác suất sai lầm loại 1 bằng 0,05 và sai số biên cho phép là 0,05. Những người đủ tiêu chí đưa vào sẽ được phỏng vấn thông qua bộ câu hỏi tự điền. Bộ câu hỏi gồm 84 câu, chia làm các nội dung bao gồm đặc điểm dân số xã hội, hành vi nguy cơ, đặc điểm lây nhiễm và điều trị, giúp đỡ xã hội, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 287 triệu chứng liên quan đến bệnh HIV, rối loạn tâm thần. Trầm cảm Đánh giá qua thang đo Center for epidemiologic study depression scale (CES- D)(22), gồm 20 câu thể hiện các mức độ tương ứng với số ngày trải qua trong tuần gần nhất, trong đó 0 điểm là không có hoặc có <1 ngày, 1 điểm tương ứng với đôi khi có từ 1 – 2 ngày, 2 điểm tương ứng với có triệu chứng từ 3 – 4 ngày và 3 điểm khi có biểu hiện từ 5 – 7 ngày. Các câu hỏi có thứ tự số 4, 8, 12 và 16 trong thang đo cần được chuyển ngược điểm trước khi tính tổng điểm của thang đo. Những người có tổng điểm theo thang đo từ 16 điểm trở lên thì được cho rằng có các dấu hiệu rối loạn trầm cảm. Bộ câu hỏi đánh được đánh gia độ giá trị tại Việt Nam cho thấy hệ số Cronbach’s α = 0,81, độ nhạy là 79,8%, độ chuyên biệt là 83%(27). Rối loạn lo âu Đánh giá bằng thang đo Hamilton A(12): gồm 14 câu hỏi thông tin liên quan đến các khía cạnh rối loạn lo âu toàn thể, đánh giá trong một tuần gần nhất. Mỗi câu hỏi được mã hóa từ 1 đến 4 tương ứng với 4 mức độ: không có, nhẹ, trung bình, nặng. Tổng điểm rối loạn lo âu từ 1 đến 17 là “nhẹ”, 18-24 mức độ “trung bình”, và 25 đến 56 là mức độ “nặng”. Triệu chứng bệnh liên quan đến HIV Đánh giá qua thang đo HSI (HIV Symptom Index)(16): gồm 20 câu hỏi nhưng do có 3 câu hỏi “rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, lo âu” trùng với câu hỏi của thang đo trầm cảm, rối loạn lo âu nên còn 17 câu hỏi, đánh giá trong một tháng gần nhất. Mỗi câu hỏi mã hóa từ 1 đến 7 tương ứng với mức độ làm phiền bệnh nhân: từ “không có” cho đến “rất rất làm phiền”, mỗi triệu chứng có xuất hiện và có làm phiền sẽ được tính là một điểm, ngược lại là không điểm, tổng điểm sẽ bằng tổng điểm các câu hỏi. Giúp đỡ xã hội Sử dụng thang đo MSPSS (Mutidimensional scale of perceived social support, MSPSS)(6): gồm 12 câu hỏi, thu thập các dữ kiện liên quan đến giúp đỡ từ gia đình, từ bạn bè và từ người quan trọng khác. Mỗi câu hỏi với 7 mức lựa chọn tương ứng với rất rất không đồng ý cho đến rất rất đồng ý. Sau khi tính trung bình cộng các câu hỏi sẽ được điểm số giúp đỡ xã hội và được chia làm 3 mức độ thấp (<3), trung bình (3-<5), cao (≥5). Phần thu thập từ bệnh án thu thập những dữ liệu liên quan đến quá trình điều trị như CD4 hiện tại, tải lượng vi rút, tác dụng phụ, phác đồ, khoảng thời gian nhiễm bệnh, điều trị, điều trị phòng ngừa. Nghiên cứu thử được tiến hành trên 35 người nhiễm HIV tại phòng khám. Kết quả phân tích thử về chỉ số Cronbach’s alpha (Bảng 1) cho thấy bộ công cụ có độ tin cậy cao và được chọn để sử dụng trong nghiên cứu này. Bảng 1: Chỉ số Cronbach’s α (n=35) Công cụ Cronbach’s α MSPSS 0,94 Gia đình 0,95 Bạn bè 0,85 Người quan trọng khác 0,91 CES-D 0,83 HAM-A 0,83 HSI 0,90 Phân tích thống kê Dữ liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1, phân tích bằng phần mềm Stata 13. Thống kê mô tả dùng tần số và tỷ lệ cho các biến định tính, trung bình (độ lệch chuẩn) cho biến định lượng có phân phối chuẩn, trung vị (khoảng tứ phân vị) cho biến định lượng có phân phối lệch. Kiểm định χ² xác định mối liên quan giữa trầm cảm và các yếu tố khác với ngưỡng ý nghĩa là 0,05, và dùng tỉ số tỷ lệ hiện mắc (PR) với khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) lượng giá mức độ liên quan. Phân tích đa biến bằng mô hình hồi quy Poisson với biến số đưa vào có chỉ số p trong phân tích Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 288 đơn biến <0,2, sau đó kiểm tra tính tương tác giữa các biến số, cuối cùng đánh giá độ phù hợp của mô hình. Y đức Nghiên cứu được thông qua hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đại học Y Dược Tp. HCM theo quyết định số 163 ký ngày 10/5/2017. Các đối tượng tham gia nghiên cứu được giải thích rõ về mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu. Những thông tin đối tượng cung cấp chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu và không gây ảnh hưởng đến quá trình điều trị của bệnh nhân. KẾT QUẢ Thực hiện trên 381 bệnh nhân HIV/AIDS đang điều trị ARV. Bảng 2: Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (N=381) Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Giới (Nam) 274 71,9 Nhóm tuổi 19 - 29 30 - 39 40 - 49 ≥ 50 67 209 80 25 17,6 54,8 21,0 6,6 Tình trạng sống chung Sống với vợ/chồng Sống với ba/ mẹ Độc thân 153 136 92 40,2 35,7 24,1 Sử dụng ma túy (có) (một tháng gần nhất) 12 3,2 Sử dụng bao cao su (n= 161) (một tháng gần nhất) Luôn luôn Thỉnh thoảng Không 126 10 25 78,3 6,2 15,5 Mức độ được giúp đỡ xã hội Thấp Trung bình Cao 36 186 159 9,5 48,8 41,7 Đường lây nhiễm Tiêm chích Tình dục Không rõ 123 200 74 32,3 52,5 19,4 Thời gian điều trị ARV (năm) ≤ 1 1 - 5 5 - 10 ≥ 10 26 184 154 17 6,8 48,3 40,4 4,5 Đặc điểm Tần số Tỷ lệ % Tuân thủ điều trị (có) (một tháng gần nhất) 309 81,1 CD4 hiện tại (tb/mm3) (n = 377) < 200 200 - 349 350 - 499 ≥ 500 53 69 77 178 14,1 18,3 20,4 47,2 Triệu chứng bệnh HIV/AIDS (một tháng gần nhất) 1 2 - 4 ≥ 5 210 90 81 55,1 23,6 21,3 Mức độ rối loạn lo âu (n= 317) Nhẹ Trung bình Nặng 278 21 18 87,7 6,6 5,7 Khám Bs tâm thần/tâm lý (có) 33 8,7 Dùng thuốc an thần (có) 24 6,3 Trầm cảm (có) (một tuần gần nhất) 112 29,4 Có 381 người tham gia vào nghiên cứu, nhóm tuổi từ 30-49 chiếm 75%, đa số họ sống chung với gia đình hoặc người thân (75,9%), có trình độ học vấn cấp 3 và lớn hơn cấp 3 chiếm 52,2%. Điểm số trung bình nhận được giúp đỡ xã hội là 4,8 ± 1,28 điểm, chủ yếu ở mức trung bình và mức cao (90,5%). Trong tháng qua có 48% người tham gia hút thuốc lá, 40,9% sử dụng rượu bia, 3,2% sử dụng ma túy, 7,9% điều trị Methadone và ở những người có quan hệ tình dục thì chỉ có 78,3% người luôn luôn sử dụng bao cao su. Thời gian trung vị (khoảng tứ phân vị) mắc bệnh HIV và thời gian điều trị ARV lần lượt là 5,8 (2,5-8,7), 4,3 (1,7-7,3) năm, đa số ở giai đoạn lâm sàng 1 của bệnh (96,1%) và 84% có ngưỡng tải lượng vi rút dưới ngưỡng phát hiện (<20cps/ml). Trung vị (khoảng tứ phân vị) của triệu chứng liên quan đến bệnh HIV là 1 (0-4). Có 81,1% đang tuân thủ điều trị tốt. Có 29,4% có trầm cảm, 82% có rối loạn lo âu trong đó mức độ nhẹ chiếm 87,7% và chỉ có 6,3 là đã từng uống thuốc tâm thần và 8,7% khám bác sĩ tâm lý, tâm thần. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 289 Bảng 3: Mối liên quan trầm cảm và các yếu tố liên quan bằng mô hình Possion đa biến Đặc điểm Giá trị Pthô PR thô (KTCthô 95%) Giá trị Phc PR hc (KTChc 95%) Sống chung Vợ/chồng, bạn tình Ba/mẹ Độc thân 0,002 0,852 1 1,76 (1,23–2,52) 1,04 (0,65–1,66) 0,001 0,595 1 1,67 (1,22–2,28) 0,66 (0,75–1,64) Mức độ giúp đỡ xã hội Thấp Trung bình Cao 0,029 0,765 1,64 (1,05–2,56) 1,05 (0,74–1,48) 1 0,002 0,676 1,93 (1,26–2,96) 1,06 (0,79–1,42) 1 Triệu chứng bệnh* 1 2 - 4 5 0,001 1 2,90 (1,53-2,36) 3,63 (2,35-5,60) 0,005 1 1,30 (1,08-1,56) 1,70 (1,15-2,49) Sử dụng thuốc an thần Có Không <0,001 2,66 (1,95-3,36) <0,001 2,18 (1,57-3,04) Mức độ rối loạn lo âu* Nhẹ Trung bình Nặng <0,001 1 1,99 (1,57 - 2,53) 3,97 (2,46 - 6,40) <0,001 1 1,72 (1,49-1,99) 2,97 (2,22-23,96) PRhc: PR hiệu chỉnh, KTChc: KTC hiệu chỉnh, * Có tính khuynh hướng Sau khi phân tích đa biến cho thấy những người sống với gia đình (PR=1,67, p=0,001), nhận được giúp đỡ xã hội thấp (PR=1,93, p=0,002), có tiền căn sử dụng thuốc chống trầm cảm, lo âu (PR=2,18, p<0,001), có nhiều triệu chứng liên quan đến bệnh HIV (PR=1,3, p=0,005), có mức độ rối loạn lo âu càng cao (PR=1,72, p<0,001) thì có tỷ lệ trầm cảm cao hơn nhóm không có đặc điểm trên. BÀN LUẬN Có 391 bộ câu hỏi trả lời đầy đủ các bộ câu hỏi thành phần, rối loạn trầm cảm, lo âu, giúp đỡ xã hội và triệu chứng liên quan đến bệnh HIV nhưng do không tìm được bệnh án. Còn lại 381 bộ câu hỏi được đưa vào phân tích, với tỷ lệ mất mẫu là 2,62%. Dân số nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 36,1 7,8 tuổi, tập trung chủ yếu ở nhóm 20 đến 39 tuổi (72,5%), nam giới chiếm 71,9% điều này phù hợp với báo cáo của khu vực phía Nam năm 2016 (70,3% giới Nam và nhóm tuổi từ 20 đến 39 tuổi chiếm 77,8%(28). Đối với vấn đề sống chung, có 24,2% người tham gia nghiên cứu sống một mình, điều này có sự khác biệt với nghiên cứu như Đặng Thị Thanh Thảo 9,1%(7). Có thể do ảnh hưởng bởi nhóm có quan hệ đồng giới cao trong nghiên cứu (19,2%) bởi nhóm này có đến 40% trong số họ đang sống một mình. Có 52,5% số người tham gia lây nhiễm HIV qua đường tình dục, 32% lây nhiễm qua đường tiêm chích, thấp hơn báo cáo của Viện Pasteur Tp. HCM về đường lây truyền ở khu vực Đông Nam Bộ (60% , 27,2%) nhưng cao hơn ở nhóm không rõ đường lây truyền (19,4% so với 10,8%)(28). Điều này có thể do đặc điểm riêng của địa điểm nghiên cứu, nhưng cũng có thể do người tham gia có xu hướng lựa chọn không rõ đường lây truyền vì sợ rằng sẽ bị kì thị bởi những người xung quanh và nghiên cứu viên khi hoàn thành bộ câu hỏi nếu họ đọc được. Đối với sử dụng rượu, hành vi nguy cơ thì nghiên cứu của chúng tôi cũng có khác biệt so với các nghiên cứu trong nước, như kết quả của tác giả Thái Thanh Trúc(26) sự khác biệt này có thể do hai nghiên cứu thực hiện ở hai vị trí và thời điểm khác nhau, hơn nữa nghiên cứu của chúng tôi có 71% số người có giới tính là nam so với 64% trong nghiên cứu của tác giả Thái Thanh Trúc, và có đến 32% người tham gia bị lây nhiễm HIV qua đường tiêm chích vì vậy làm cho tỷ lệ cao hơn. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 290 Điểm số giúp đỡ xã hội trung bình của người tham gia nghiên cứu là 4,8 1,26 điểm, hầu hết thuộc vào nhóm trung bình và cao (90%). So với một vài nghiên cứu khác thì nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả tốt hơn, nghiên cứu của tác giả Petersen. I (3,5 1,14)(24). Eugene Kinyanda (70%) và Caroline Kingori 47% người tham gia thuộc nhóm trung bình và cao(20,21). Điều này có thể do đặc điểm văn hóa của các đối tượng khác nhau, và có thể do đa số người tham gia nghiên cứu của chúng tôi họ cho người nhà hoặc bạn bè biết về tình trạng bệnh của họ (84%) và đa số họ sống với ba mẹ hoặc vợ chồng, con cái. Một nửa số người tham gia có số triệu chứng liên quan đến bệnh HIV mà họ cảm thấy làm phiền ở một triệu chứng hoặc không có triệu chứng, điều này hoàn toàn phù hợp vì có khoảng 90% dân số khảo sát ở giai đoạn 1 lâm sàng. So với nghiên cứu của tác giả Peter A. Vanable cũng cho thấy triệu chứng trung bình là 1,4 0,79 triệu chứng(29), Michael S Yi 3,1 3,2 triệu chứng trong tháng qua(32). Nghiên cứu cho kết quả 82% người tham gia có rối loạn lo âu và chủ yếu tập trung ở nhóm có mức độ nhẹ (73%). Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Đặng Thị Thanh Thảo (54%)(7). Theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ trầm cảm là 29,4%, tỷ lệ này thấp hơn so với các nghiên cứu của các tác giả ở Việt Nam, Huỳnh Ngọc Vân Anh 42%(3), Thái Thanh Trúc 36,5%(26), và so với các nghiên cứu ở một số tác giả trên thế giới thì tỷ lệ của chúng tôi cũng thấp hơn: Ashraf Kagee (52,9%)(17), Wen-Li Hou (41%)(13), Gibbie T (34,8%)(11), Celesia B M (47%)(4), Brian Wells Pence (39%)(23), Và tương đương với tác giả Fiona Judd(15) (27%), Catherine O. Egbe (28,2%)(9). Chúng tôi nghĩ rằng một số sự khác biệt này có thể do sự khác biệt về sử dụng thang công cụ khác nhau, hay do đặc điểm dân số nghiên cứu khác nhau. Mặc dù có tỷ lệ trầm cảm và rối loạn lo âu rất cao nhưng trong dân số nghiên cứu chỉ có 8,7% và 6,3% người tham gia là đã từng đến khám, tham vấn ở bác sĩ tâm lý hoặc tâm thần, đã từng sử dụng thuốc an thần, thuốc ngủ hoặc thuốc chống trầm cảm hoặc lo âu (Bảng 1). Kết quả cũng tương đồng với tác giả Lorenza Nogueira Campos (Brazil) với 10,6% và 6,5% là đã từng đến khám, tham vấn ở bác sĩ tâm lý hoặc tâm thần, và có sử dụng thuốc an thần, thuốc ngủ hoặc thuốc chống trầm cảm hoặc lo âu(3). Điều này phù hợp với thực trạng trên thế giới cũng như của Việt Nam khi những vấn đề về tâm thần chưa được quan tâm đúng mức và đặc biệt ở nhóm người nhiễm HIV. Kết quả cho thấy mối liên quan giữa trầm cảm và tình trạng sống chung (Bảng 3), Điều này có thể lý giải rằng: khi họ sống với vợ chồng thì họ có thể chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống do đó tỷ lệ trầm cảm ở nhóm này thấp hơn nhóm sống với ba mẹ. Hơn nữa, đôi khi sống với ba mẹ thì có thể khó tâm sự hơn và khó nói cho họ biết về tình trạng bệnh của họ vì sợ rằng ba mẹ họ lo lắng cho họ. Và khi họ sống với vợ hoặc chồng thì có sự giúp đỡ về tài chính lẫn nhau. Điều này còn thấy rõ hơn khi chúng tôi tìm thấy mối liên quan giữa trầm cảm và mức độ nhận được giúp đỡ xã hội (Bảng 3). Những người nhận được giúp đỡ xã hội cao thì có tỷ lệ trầm cảm ít hơn những người có mức độ giúp đỡ xã hội thấp. Những người đã từng sử dụng thuốc chống trầm cảm hoặc lo âu thì có tỷ lệ trầm cảm cao hơn (Bảng 3), có thể do họ có bất thường trước đó, vậy nên bây giờ sẽ dễ tái phát hơn những người chưa từng có bất thường. Đối với mối liên quan với mức độ rối loạn lo âu (Bảng 3) do hai nhóm triệu chứng này đôi khi cũng không thể phân biệt được rõ ràng. Chúng tôi chưa tìm thấy liên quan giữa trầm cảm và các đặc điểm của quá trình lây nhiễm và điều trị của bệnh nhân như: nguồn lây nhiễm, khoảng thời gian phát hiện, điều trị, bệnh kèm theo, mắc bệnh nhiễm trùng cơ hội, phác đồ hiện tại, tác dụng phụ, CD4 hiện tại, điều trị phòng ngừa, giai đoạn lâm sàng, Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học Y tế Công cộng 291 tuân thủ điều trị, tiền sử khám bác sĩ tâm lý hoặc tâm thần. Điểm mạnh - hạn chế Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi CES-D đã được đánh giá tính giá trị và cho kết quả phù hợp với đặc điểm của người Việt Nam. Hơn nữa, trước khi nghiên cứu đã thực hiện nghiên cứu thử để điều chỉnh phù hợp với đăc điểm dân số nơi nghiên cứu và tính độ tin cậy của bộ câu hỏi. Nghiên cứu dùng nhiều thang đo chuẩn đánh giá các vấn đề khác nhau, do đó sẽ có cái nhìn bao quát hơn về người nhiễm HIV. Tuy nhiên, đây là một nghiên cứu cắt ngang do đó phần nào làm hạn chế khả năng suy diễn các nguyên nhân giữa các biến số quan trọng. KẾT LUẬN Người tham gia nghiên cứu có đa số là nam, đa số có tuổi từ 30-49 tuổi, nhận được giúp đỡ xã hội ở mức trung bình và cao. Tỷ lệ trầm cảm là 29,4%. Những người sống chung với gia đình nhận được giúp đỡ xã hội thấp, tiền sử sử dụng thuốc an thần, chống trầm cảm, chống lo âu, người có triệu chứng bệnh liên quan đến bệnh HIV, có mức độ rối loạn lo âu cao thì có tỷ lệ trầm cảm cao hơn những người không có các đặc điểm trên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alciati A, Gallo L, Monforte AD, Brambilla F, Mellad C (2007). "Major depression-related immunological changes and combination antiretroviral therapy in HIV- seropositive patients". Hum Psychopharmacol, 22 (1): 33-40. 2. Belenky NM, Cole SR, Pence BW, Itemba D, Marm V, Whetten K (2014) "Depressive symptoms, HIV medication adherence, and HIV clinical outcomes in Tanzania: a prospective, observational study". PLoS One, 9 (5): e95469. 3. Campos LN, Guimaraes MD, Remien RH (2010) "Anxiety and depression symptoms as risk factors for non- adherence to antiretroviral therapy in Brazil". AIDS Behav, 14 (2): 289-99. 4. Celesia BM, et al. (2013) "High prevalence of undiagnosed anxiety symptoms among HIV-positive individuals on cART: a cross-sectional study". Eur Rev Med Pharmacol Sci, 17 (15): 2040-6. 5. Charles B, Jeyaseelan L, Pandian AK, Sam AE, Thenmozhz M, Jayaseelan V (2012). "Association between stigma, depression and quality of life of people living with HIV/AIDS (PLHA) in South India - a community based cross sectional study". BMC Public Health, 12: 463. 6. Dahlem NW, Zimet GD, Walker RR (1991). "The Multidimensional Scale of Perceived Social Support: a confirmation study". J Clin Psychol, 47 (6): 756-61. 7. Đặng Thi Thanh Thảo, Huỳnh Ngọc Vân Anh, Cao Ngọc Nga (2015), Rối Loạn Lo Âu Và Các Yếu Tố Liên Quan Trên Bệnh Nhân HIV Đang Điều Trị ARV Tại Bệnh Viện Nhiệt Đới Năm 2015, khóa luận tốt nghiệp bác sĩ Y học dự phòng, khoa Y Tế Công Cộng đại học Y Dược Tp.HCM, trang 43. 8. Đỗ Văn Dũng (2012), Phương pháp nghiên cứu khoa học với phần mềm stata, tái bản lần thứ 1, trang: 41, Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 9. Egbe CO, Dakum PS, Ekong E, Kohrt BA, Minto JG, Ticao CJ (2017). "Depression, suicidality, and alcohol use disorder among people living with HIV/AIDS in Nigeria". BMC Public Health, 17 (1): 542. 10. Esposito CA, Steel Z, Gioi TM, Huyen TT, Tarantola D (2009). "The prevalence of depression among men living with HIV infection in Vietnam". Am J Public Health, 99 Suppl 2: S439-44. 11. Gibbie T, et al. (2006) "Depression and neurocognitive performance in individuals with HIV/AIDS: 2-year follow-up". HIV Med, 7 (2): 112-21. 12. Hamilton M (1959) "The assessment of anxiety states by rating". Br J Med Psychol, 32 (1): 50-5. 13. Hou WL, et al. (2014) "Mediating effects of social support on depression and quality of life among patients with HIV infection in Taiwan". AIDS Care, 26 (8): 996-1003. 14. Huỳnh Ngọc Vân Anh, Tô Gia Kiên, Dương Bá Vũ, Nguyễn Thị Phương Thảo (2016) "trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người nhiễm hiv đang điều trị ARV". Tạp chí y học Tp. HCM, 23 (1): 252. 15. Judd F, et al. (2005) "Nature of depression in patients with HIV/AIDS". Aust N Z J Psychiatry, 39 (9): 826-32. 16. Justice AC, et al. (2001) "Development and validation of a self-completed HIV symptom index". J Clin Epidemiol, 54 Suppl 1: S77-90. 17. Kagee A, Martin L (2010) "Symptoms of depression and anxiety among a sample of South African patients living with HIV". AIDS Care, 22 (2): 159-65. 18. Kaiser Family Foundation (2016), The Global HIV/AIDS Epidemic, The Henry J.Kaiser Family Foundation, hivaids-epidemic/, accessed on 4/22/2017. 19. Khan MR, et al (2009), "Depression, sexually transmitted infection, and sexual risk behavior among young adults in the United States". Arch Pediatr Adolesc Med, 163 (7): 644- 52. 20. Kingori C, Haile ZT, Ngatia P (2015). "Depression symptoms, social support and overall health among HIV- positive individuals in Kenya". Int J STD AIDS, 26 (3): 165-72. 21. Kinyanda E, Hoskins S, Nakku J, Nawaz S, Patel V (2011), "Prevalence and risk factors of major depressive disorder in HIV/AIDS as seen in semi-urban Entebbe district, Uganda". BMC Psychiatry, 11:205. 22. Lenore Sawyer Radloff (1977) "The CES-D Scale: A Self- Report Depression Scale for Research in the General Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Chuyên Đề Y tế Công cộng – Khoa học Cơ bản 292 Population". Center for Epidemiologic Studies National Institute of Mental Health, 1 (3): 385-401. 23. Pence BW, Miller WC, Whetten K, Eron JJ, Gaynes BN (2006). "Prevalence of DSM-IV-defined mood, anxiety, and substance use disorders in an HIV clinic in the Southeastern United States". J Acquir Immune Defic Syndr, 42 (3):298-306. 24. Petersen I, Hanass Hancock J, Bhana A, Govender K (2014) "A group-based counselling intervention for depression comorbid with HIV/AIDS using a task shifting approach in South Africa: a randomized controlled pilot study". J Affect Disord, 158: 78-84. 25. Sikkema KJ, Watt MH, Drabkin AS, Meade CS, Hansen NB, Pence BW(2010). "Mental health treatment to reduce HIV transmission risk behavior: a positive prevention model". AIDS Behav, 14 (2): 252-62. 26. Thai TT, Jones MK, Harris LM, Heard RC (2017). "The association between symptoms of mental disorders and health risk behaviours in Vietnamese HIV positive outpatients: a cross-sectional study". BMC Public Health, 17 (1): 250. 27. Thai TT, Jones MK, Harrih LM, Heard RC (2016). "Screening value of the Center for epidemiologic studies - depression scale among people living with HIV/AIDS in Ho Chi Minh City, Vietnam: a validation study". BMC Psychiatry, 16:145. 28. Tổ HIV/AIDS viện Pasteur Tp.HCM (2016) Báo Cáo Tình Hình Dịch Tại Khu Vực Phí Nam 2016, Tp.HCM, trang: 01. 29. Vanable PA, Carey MP, Blair DC, Littlewood RA (2006). "Impact of HIV-related stigma on health behaviors and psychological adjustment among HIV-positive men and women". AIDS Behav, 10 (5): 473-82. 30. WHO (2016) HIV/AIDS Fact Sheets, WHO, accessed on 4/21/2017. 31. WHO (2017) Depression and Other Common Mental Disorders, Geneva, Switzerland, pp. 7,14. 32. Yi MS, et al. (2006) "Religion, spirituality, and depressive symptoms in patients with HIV/AIDS". J Gen Intern Med, 21 Suppl 5:S21-7. Ngày nhận bài báo: 02/11/2017 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/11/2017 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftram_cam_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_nhiem_hivaids_dang.pdf
Tài liệu liên quan