Tài liệu Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo đường: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 159
TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN
TĂNG HUYẾT ÁP VÀ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Hoàng Thị Tuấn Tình*, Trần Thị Hồng Nhiên*, Nguyễn Ngọc Diệp*, Lê Minh Thuận**
TÓM TẮT
Mở đầu: Trầm cảm là một trong những vấn đề tâm lý phổ biến, ảnh hưởng đến tất cả mọi người thông
qua trải nghiệm của cá nhân. Trầm cảm là một trong những bệnh gây tàn phế cao nhất, và gây ra gánh
nặng cho cả cá nhân, gia đình và xã hội. Những người mắc bệnh mạn tính có nguy cơ đối mặt thường
xuyên với trầm cảm.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo
đường.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tại một thời điểm được tiến hành trên 216
bệnh nhân tăng huyết áp, đái tháo đường đến khám tại khoa khám bệnh Bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ
Chí Minh. Trầm cảm được đánh giá qua thang đo PHQ-9 và điểm ≥ 10 được dùng làm mốc gợi ý có trầm
cảm. Phương...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 03/07/2023 | Lượt xem: 332 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo đường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 159
TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở BỆNH NHÂN
TĂNG HUYẾT ÁP VÀ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
Hoàng Thị Tuấn Tình*, Trần Thị Hồng Nhiên*, Nguyễn Ngọc Diệp*, Lê Minh Thuận**
TÓM TẮT
Mở đầu: Trầm cảm là một trong những vấn đề tâm lý phổ biến, ảnh hưởng đến tất cả mọi người thông
qua trải nghiệm của cá nhân. Trầm cảm là một trong những bệnh gây tàn phế cao nhất, và gây ra gánh
nặng cho cả cá nhân, gia đình và xã hội. Những người mắc bệnh mạn tính có nguy cơ đối mặt thường
xuyên với trầm cảm.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo
đường.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tại một thời điểm được tiến hành trên 216
bệnh nhân tăng huyết áp, đái tháo đường đến khám tại khoa khám bệnh Bệnh viện Quận 2, thành phố Hồ
Chí Minh. Trầm cảm được đánh giá qua thang đo PHQ-9 và điểm ≥ 10 được dùng làm mốc gợi ý có trầm
cảm. Phương pháp phân tích hồi qui logistic đa biến được dùng để xác định các yếu tố liên quan.
Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân bị trầm cảm là 20,4% (KTC 95%: 15,2 - 26,4). Mô hình hồi quy logistic đa
biến cho thấy những người đã li dị/ li thân, sống một mình và không có nguồn thu nhập có nhiều khả năng
bị trầm cảm hơn.
Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân tăng huyết áp và
đái tháo đường khảo sát tại khoa khám bệnh Bệnh viện Quận 2, Tp.HCM ở mức cao (20,4%) so với dân số
chung. Kết quả này ủng hộ việc thực hiện kiểm tra sàng lọc các vấn đề về tâm lý cho bệnh nhân, đặc biệt là
các bệnh nhân bệnh mạn tính để kịp thời phát hiện bệnh và điều trị sớm, trong đó chú trọng các đối tượng
có các đặc điểm góp phần gia tăng trầm cảm mà chúng tôi đã phát hiện được.
Từ khóa: Trầm cảm, bệnh nhân, tăng huyết áp, đái tháo đường.
ABSTRACT
DEPRESSION AND RELATED FACTORS OF DEPRESSION AMONG PATIENTS
WITH HYPERTENSION AND DIABETES
Hoang Thi Tuan Tinh, Tran Thi Hong Nhien, Le Minh Thuan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1 - 2018: 159 - 165
Background: Depression is one of the common psychological problems, affecting everyone through
personal experience. Depression is one of the most destructive diseases, and is a burden for both individuals,
families and society. Persons with chronic disease are at increased risk of having chronic depression.
Objectives: To estimate prevalence of depression and related factors in patients with hypertension and
diabetes.
Methods: The cross-sectional study was conducted at 216 patients with hypertension and diabetes at
the District 2 Clinic, Ho Chi Minh City. Depression was measured using the PHQ-9 scale and a score of
≥10 was used as a marker for depression. Multiple logistic regression was employed to identify correlates of
depression.
Results: The prevalence of depression was 20.4% (95% CI: 15.2-2.4). From multiple logistic regression
*Bệnh viện Quận 2 TP.HCM, **Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ĐD Hoàng Thị Tuấn Tình ĐT: 0964096501 Email: tuantinh10@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 160
shows that people who are divorced, single, and without income were more likely to have depression.
Conclusions: The prevalence of depression in patients with hypertension and diabetes at the District 2
Clinic in Ho Chi Minh City was high (20.4%) compared to the general population. This result supports the
screening of psychological problems for patients, especially patients with chronic diseases, for timely
diagnosis and early treatment, taking into account correlates of depression identified in this study.
Key words: depression, patients, hypertension, diabetes.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là một trong những vấn đề tâm
lý phổ biến, ảnh hưởng đến tất cả mọi người
thông qua trải nghiệm của cá nhân. Trong dân
số chung, có khoảng 10-15% người lớn có ít
nhất một giai đoạn trầm cảm trong thời kỳ nào
đó của cuộc sống. Những người mắc bệnh
mạn tính có nguy cơ chính là đối mặt thường
xuyên với trầm cảm(10). Ngược lại, trầm cảm
cũng có thể góp phần làm cho bệnh mạn tính
nặng hơn. Mức độ nặng của bệnh mạn tính và
tần suất tái phát sẽ dễ gây ra trầm cảm. Trầm
cảm cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản
lý các triệu chứng bệnh như bê trễ trong việc
tự chăm sóc, thiếu tuân thủ các chế độ ăn
uống, sinh hoạt. Các hành vi liên quan đến
trầm cảm như ăn uống, sử dụng rượu, hút
thuốc lá, ít hoạt động, quên uống thuốc là
những nguy cơ làm tăng mức độ bệnh mạn
tính(1,5). Tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về
trầm cảm sau sinh, trầm cảm trong sinh viên,
tuy nhiên trầm cảm ở bệnh nhân bệnh mạn
tính, đặc biệt là tăng huyết áp và đái tháo
đường là những bệnh thường gặp nhưng lại
có rất ít nghiên cứu. Chúng tôi chưa tìm thấy
kết quả nghiên cứu nào về các mức độ trầm
cảm, vai trò xã hội, kinh tế, tâm lý ảnh hưởng
đến bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo
đường. Vì những lý do trên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu với mục tiêu xác định tỉ lệ
trầm cảm và các yếu tố liên quan đến trầm
cảm ở bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo
đường. Tiếp cận nghiên cứu dựa trên mô hình
sinh – tâm - xã hội ảnh hưởng đến bệnh tật.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả tại một thời điểm được
tiến hành từ tháng 3/2017 tới tháng 9/2017 trên
216 bệnh nhân bệnh mạn tính được bác sĩ
chuyên khoa khám kết luận bệnh đái tháo
đường, bệnh tăng huyết áp. Lấy mẫu thuận
tiện từ những bệnh nhân tăng huyết áp, đái
tháo đường đến khám tại khoa khám bệnh
Bệnh viện Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tiêu chí đưa vào
Bệnh nhân đái tháo đường hoặc tăng
huyết áp đến khám ở khoa khám bệnh Bệnh
viện Quận 2 trong thời gian nghiên cứu và
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chí loại ra
Bệnh nhân bị rối loạn tâm thần nặng.
Công cụ và kỹ thuật thu thập thông tin
Sau khi được cung cấp thông tin về nghiên
cứu và đồng ý tham gia vào nghiên cứu thì
bệnh nhân trả lời phỏng vấn trong khoảng 45
phút. Phỏng vấn trực tiếp mặt đối mặt bằng
bộ câu hỏi soạn sẵn gồm 66 câu chia thành 3
phần: (1) 12 câu về hành chính, (2) 9 câu thang
đo PHQ-9, (3) đo lường các mặt biểu hiện của
trầm cảm ở bệnh nhân bệnh mạn tính gồm lối
sống (9 câu), nhận thức (10 câu), hành vi (9
câu), sinh lý (9 câu) và cảm xúc (8 câu).
Nghiên cứu sử dụng thang đo PHQ-9 đã
được chuyển ngữ để đánh giá tình trạng trầm
cảm của bệnh nhân. Trầm cảm ở bệnh nhân là
biến nhị giá gồm 2 giá trị có (khi điểm PHQ-9
≥ 10) và không (khi điểm PHQ-9<10)(4).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 161
Xử lý và phân tích
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1; xử
lý thống kê, phân tích bằng Stata 13.1. Tần số
và tỉ lệ phần trăm được dùng để mô tả biến
định tính, trung bình và độ lệch chuẩn để mô
tả biến định lượng có phân phối bình thường.
Sử dụng kiểm định chi bình phương hoặc
kiểm định chính xác Fisher’s (nếu trên 20%
tổng số các ô vọng trị <5 hoặc có ô vọng trị nhỏ
hơn 1) để tìm liên quan giữa tình trạng trầm
cảm với các yếu tố. Mối liên quan được ước
lượng bằng tỉ số số chênh OR với KTC 95%.
Mô hình hồi qui logistic đa biến, phân tích các
yếu tố có liên quan ở mức p < 0,2 được chọn từ
phân tích đơn biến.
KẾT QUẢ
Trong tổng số 216 bệnh nhân đưa vào
phân tích, tuổi trung vị là 55 tuổi và khoảng
(25% - 75%) là 50 và 64 tuổi. Với các đặc điểm
như sau:
Bảng 1. Đặc điểm dân số - xã hội
Đặc điểm n Tần số Tỉ lệ %
Giới tính 216
Nam 113 52,3
Nữ 103 47,7
Nhóm tuổi 216
< 60 tuổi 135 62,5
>= 60 tuổi 81 37,5
Tình trạng hôn nhân 216
Kết hôn/có gia đình 193 89,4
Li dị/li thân 14 6,5
Độc thân 6 2,8
Mất vợ/chồng 3 1,4
Tình trạng sống chung 216
Sống với người thân 203 94,0
Sống một mình 13 6,0
Đa số bệnh nhân không theo tôn giáo
(43,5%), trong các tôn giáo, Phật giáo có tỉ lệ
cao nhất là 35,2%. Phần lớn bệnh nhân đều có
nguồn thu nhập. Kinh tế gia đình bệnh nhân
đa số ở mức trung bình (79,6%). (Bảng 2).
Bảng 2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Đặc điểm n Tần số Tỉ lệ %
Tôn giáo 216
Không tôn giáo 94 43,5
Phật giáo 76 35,2
Thiên chúa giáo 17 7,9
Tin lành 17 7,9
Đặc điểm n Tần số Tỉ lệ %
Cao đài/Hòa hảo 12 5,6
Nguồn thu nhập 216
Có 156 72,2
Không 60 27,8
Tình trạng kinh tế gia đình 216
Khá giả 9 4,2
Trung bình 172 79,6
Cận nghèo 32 14,8
Nghèo 3 1,4
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số
bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp
(43,5%), có 21,8% được chẩn đoán đái tháo
đường và 34,7% bệnh nhân có cả hai bệnh
trên. Hầu hết bệnh nhân mắc bệnh từ 5 năm
trở xuống, có 44% bệnh nhân có bệnh ở mức
độ nặng. Qua điều trị, phần lớn bệnh nhân có
dấu hiệu thuyên giảm. Khi phát hiện bệnh,
hầu hết bệnh nhân đều tìm kiếm sự giúp đỡ,
trong đó đến cơ sở y tế khám bệnh là việc mà
phần lớn bệnh nhân làm đầu tiên (92,1%),
nhưng bên cạnh đó vẫn còn 1,9% không điều
trị gì (Bảng 3).
Bảng 3. Tình trạng bệnh của bệnh nhân
Đặc điểm n Tần số Tỉ lệ
Bệnh được chẩn đoán 216
Tăng huyết áp 94 43,5
Đái Tháo đường 47 21,8
Cả hai 75 34,7
Thời gian mắc bệnh (năm) 216 3 (2–4)
a
≤ 5 năm 200 92,6
> 5 năm 16 7,4
Mức độ bệnh (b) 216
Không biết 11 5,1
Rất nặng 1 0,5
Nặng 95 44,0
Nhẹ 7 3,2
Bình thường 102 47,2
Kết quả điều trị 216
Có dấu hiệu thuyên giảm 157 72,7
Kết quả điều trị không thay
đổi nhiều
59 27,3
Việc đầu tiên bệnh nhân
làm khi phát hiện bệnh
216
Đến cơ sở y tế khám bệnh 199 92,1
Tự điều trị 13 6,0
Không điều trị gì 4 1,9
(a) Trung vị (25% –75%) .
(b) mức độ bệnh bệnh nhân trả lời dựa trên
bác sĩ chuyên khoa kết luận
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 162
Bảng 4 cho thấy tỉ lệ bệnh nhân bị trầm
cảm là 20,4% trong khoảng tin cậy 95% từ
15,2% đến 26,4%; có tới 2,8% bệnh nhân trầm
cảm ở mức độ nặng.
Bảng 4. Tình trạng trầm cảm của bệnh nhân
Đặc điểm Số trường
hợp
Tỉ lệ KTC 95%
Trầm cảm (có) 44 20,4 15,2–26,4
Mức độ trầm cảm (điểm PHQ-9)
Bình thường (≤ 4) 109 50,5 43,6–57,3
Nhẹ (5 – 9) 63 29,2 23,2–35,7
Trung bình (10 – 14) 38 17,6 12,8–23,3
Nặng (15 – 19) 6 2,8 1,0 – 5,9
Kết quả Bảng 5 cho thấy có sự khác biệt về
lối sống, nhận thức, hành vi, sinh lý và cảm
xúc giữa những người trầm cảm và không
trầm cảm. Những bệnh nhân trầm cảm
thường có những biểu hiện tiêu cực hơn.
Bảng 5. Các mặt biểu hiện của trầm cảm
Đặc điểm Trung vị (25%- 75%) Giá trị p*
Trầm cảm
(n = 44;20,4%)
Không trầm cảm
(n = 172; 79,6%)
Lối sống*** 11,5 (9 – 13,5) 12 (9 – 16) 0,043
Nhận thức 13 (10 – 15) 2 (0 – 6) <0,001
Hành vi 11 (8,5 – 13) 3 (2 – 6) <0,001
Sinh lý 11 (9 – 14) 4 (2 – 5,5) <0,001
Cảm xúc 11 (8 – 12) 3 (0 5) <0,001
*Kiểm định Mann-Whitney
***Điểm lối sống đánh giá biểu hiện mang tính tích cực
Kết quả nghiên cứu cho thấy chưa có mối
liên quan rõ ràng giữa trầm cảm với giới tính
và nhóm tuổi của bệnh nhân (p>0,05). Có mối
liên quan giữa trầm cảm với tôn giáo, tình
trạng hôn nhân, tình trạng sống chung, kinh tế
gia đình, nguồn thu nhập và việc đầu tiên làm
khi phát hiện bệnh của bệnh nhân. Những
bệnh nhân độc thân, sống một mình, kinh tế
gia đình nghèo/cận nghèo, không có nguồn
thu nhập và không điều trị gì khi biết mình bị
bệnh thì có nhiều khả năng trầm cảm hơn.
Bảng 6. Liên quan giữa trầm cảm với các đặc điểm
của bệnh nhân
Đặc điểm
Rối loạn trầm cảm Giá trị
p
OR
(KTC 95%) Có
(n=44)
Không
(n=172)
Giới tính
Nam 24(21,2) 89(78,8) 1
Nữ 20(19,4) 83(80,6) 0,740 0,89
(0,43-1,83)
Đặc điểm
Rối loạn trầm cảm Giá trị
p
OR
(KTC 95%) Có
(n=44)
Không
(n=172)
Nhóm tuổi
< 60 tuổi 24(17,8) 111(82,2) 1
>= 60 tuổi 20(24,7) 61(75,3) 0,222 1,52
(0,73 - 3,12)
Tôn giáo
Phật giáo 28(36,8) 48(63,2) - 1
Thiên chúa
giáo
1 (5,9) 16 (94,1) 0,035 0,11
(0,01 - 0,85)
Tin lành 1 (5,9) 16 (94,1) 0,035 0,11
(0,01 - 0,85)
Cao đài/Hòa
hảo
1 (8,3) 11 (91,7) 0,083 0,16
(0,02 - 1,27)
Không tôn giáo 13(13,8) 81 (86,2) 0,001 0,28
(0,13 - 0,58)
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn/có gia
đình
37(19,2) 156 (80,8) - 1
Độc thân hoặc
mất vợ/chồng
5 (55,6) 4 (44,4) 0,017 5,27
(1,35-20,59)
Li dị/li thân 2 (14,3) 12 (85,7) 0,653 0,70
(0,15-3,28)
Tình trạng sống chung
Sống với người
thân
37(18,2) 166 (81,8) 1
Sống một mình 7 (53,8) 6 (46,3) 0,006** 2,95
(1,65–5,28)
Nguồn thu nhập
Có 12 (7,7) 144 (92,3) 1
Không 32(53,3) 28 (46,7) <0,001 13,71
(5,93-32,53)
Tình trạng kinh tế gia đình
Trung bình/khá
giả
32(17,7) 149 (82,3) 1
Cận
nghèo/nghèo
12(34,3) 23 (65,7) 0,026 2,43
(0,99-5,70)
Việc đầu tiên bệnh nhân làm khi phát hiện bệnh
Đến cơ sở y tế
khám bệnh
37(18,6) 162 (81,4) - 1
Tự điều trị 4 (30,8) 9 (69,2) 0,339 1,65
(0,59–4,64)
Không điều trị
gì
3 (75,0) 1 (25,0) 0,020 4,03
(1,24–13,08)
**Kiểm định chính xác Fisher’s
Bảng 7 thể hiện mối liên hệ giữa tình trạng
bệnh mạn tính và trầm cảm. Kết quả cho thấy
những bệnh nhân mắc đồng thời cả hai bệnh
tăng huyết áp và đái tháo đường có nhiều khả
năng trầm cảm hơn so với những người chỉ
mắc một trong hai bệnh nói trên. Tuy nhiên,
trầm cảm không có liên quan với thời gian
mắc bệnh, mức độ bệnh và kết quả điều trị.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 163
Bảng 7. Liên quan giữa trầm cảm với tình trạng
bệnh mạn tính
Đặc điểm
Rối loạn trầm cảm Giá trị
p
OR
(KTC 95%) Có
(n=44)
Không
(n=172)
Bệnh được chẩn đoán
Tăng huyết áp 10 (10,6) 84 (89,4) - 1
Đái Tháo
đường
5 (10,6) 42 (89,4) 1,000 1
(0,32-3,11)
Cả hai 29 (38,7) 46 (61,3) <0,001 5,29
(2,37-11,83)
Thời gian mắc bệnh
≤ 5 năm 41 (20,5) 159 (79,5) 1
> 5 năm 3 (18,7) 13 (81,3) 1,000 0,89
(0,24 - 3,29)
Mức độ bệnh
Không biết 2 (18,2) 9 (81,8) - 1
Nặng/Rất nặng 18 (18,8) 78 (81,3) 0,963 1,04
(0,21-5,22)
Nhẹ/Bình
thường
24 (22,0) 85 (78,0) 0,769 1,27
(0,26-6,28)
Kết quả điều trị
Có dấu hiệu
thuyên giảm
27(17,2) 130 (82,8) 1
Không thay đổi
nhiều
17 (28,8) 42 (71,2) 0,059 1,95
(0,90-4,13)
Bảng 8 thể hiện kết quả phân tích đa biến
của các yếu tố có liên quan ở mức p < 0,200 từ
Bảng 6, 7 bên trên. Kết quả phân tích đa biến
cho thấy, những người đã li dị/li thân, sống
một mình và không có nguồn thu nhập nhiều
khả năng có trầm cảm hơn.
Bảng 8. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở bệnh
nhân: Phân tích đa biến
Đặc điểm OR KTC 95% Giá trị
p
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn/có gia đình 1 - -
Độc thân hoặc mất
vợ/chồng
0,04 0,00–1,34 0,072
Li dị/li thân 0,05 0,00–0,87 0,040
Tình trạng sống chung
Sống với người thân 1
Sống một mình 17,64 1,11–280,81 0,042
Nguồn thu nhập
Có 1
Không 12,89 4,10–40,50 <0,001
BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi sử dụng
thang đo PHQ-9 cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở
bệnh nhân là 20,4% trong khoảng tin cậy 95%
từ 15,2% đến 26,4%. Kết quả này thấp hơn so
với một số nghiên cứu khác trong nước và trên
thế giới, báo cáo tỉ lệ trầm cảm trên bệnh nhân
tăng huyết áp là 26,5%, tỉ lệ trầm cảm trên
bệnh nhân nhồi máu cơ tim là 24,5%, ở bệnh
nhân bị tăng huyết áp và bị đái tháo đường thì
tỉ lệ trầm cảm lần lượt là 34,9% và 40%(2,3,6,7). Sự
khác biệt của các nghiên cứu có thể là do tình
trạng trầm cảm của bệnh nhân được đánh giá
dựa trên các thang đo khác nhau hay cũng có
thể là do đặc tính mẫu, thời gian nghiên cứu
và nơi thực hiện của các nghiên cứu khác
nhau. Tuy nhiên, khi so sánh với tỉ lệ trầm
cảm chung trong dân số vào khoảng 10 -15%
thì kết quả nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ
việc thực hiện kiểm tra sàng lọc các vấn đề về
tâm lý cho bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh
nhân bệnh mạn tính để kịp thời phát hiện
bệnh và điều trị sớm.
Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện một số
yếu tố liên quan đến trầm cảm ở bệnh nhân.
Chúng tôi tìm thấy sự khác biệt về tỉ lệ trầm
cảm giữa những người theo các nhóm tôn giáo
khác nhau. Cụ thể, những bệnh nhân theo tôn
giáo Thiên chúa giáo và Tin lành thì có ít khả
năng trầm cảm hơn. Mặc dù không có một
nghiên cứu cụ thể nào về niềm tin tôn giáo
ảnh hưởng đến tình trạng trầm cảm. Tuy
nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng niềm tin
vào một tín ngưỡng hay một tôn giáo có thể
giúp cho bệnh nhân vượt qua bệnh tật, nhưng
vấn đề nào cũng có thể làm giảm hoặc làm
tăng tình trạng trầm cảm của bệnh nhân.
Những bệnh nhân mắc đồng thời cả hai bệnh
có nguy cơ trầm cảm cao hơn 5,3 lần so với
những người chỉ có một bệnh tăng huyết áp
hoặc đái tháo đường. Kết quả này phù hợp với
một số nghiên cứu khác trong nước và trên thế
giới, bệnh nhân mắc đồng thời nhiều bệnh lý
khác nhau sẽ có nhiều khả năng trầm cảm hơn
và tình trạng trầm cảm nặng hơn(2,3,9). Điều này
cho thấy, việc mắc đồng thời nhiều bệnh cùng
lúc tạo cho bệnh nhân rất nhiều áp lực về mặt
tinh thần. Ngoài ra, việc mắc nhiều bệnh còn
làm giảm tình trạng sức khỏe và việc điều trị
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Y tế Công cộng - Khoa học Cơ bản 164
tiêu tốn nhiều kinh phí trong gia đình. Chính
vì những lý do này có thể làm tình trạng trầm
cảm của bệnh nhân ngày càng nặng hơn. Kết
quả phân tích đa biến cho thấy, những người
đã li dị/li thân, sống một mình và không có
nguồn thu nhập có nhiều khả năng có trầm
cảm hơn. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu
Mark Peyrot ở Mỹ (1997)(4) những bệnh nhân
không kết hôn có tỉ lệ trầm cảm cao gấp 1,63
lần so với những bệnh nhân đã kết hôn (KTC
95%: 1,17 - 2,28). Tuy nhiên, các nghiên cứu
khác chưa tìm thấy mối liên quan giữa trầm
cảm và tình trạng hôn nhân của bệnh(2,3,6,8).
Những người sống chung với người thân, có
sự hỗ trợ từ xã hội, cụ thể là sự quan tâm
chăm sóc hỗ trợ từ phía bạn bè, người thân,
đồng nghiệp sẽ có tỉ lệ trầm cảm thấp hơn
những người chỉ sống một mình, không có
người hỗ trợ. Bên cạnh đó, các áp lực về kinh
tế, công việc cũng ảnh hưởng không ít đến
tình trạng trầm cảm của bệnh nhân. Cụ thể,
những bệnh nhân không có nguồn thu nhập
có nhiều khả năng trầm cảm hơn so với người
có thu nhập (p<0,001). Những bệnh nhân có
kinh tế gia đình cận nghèo/nghèo nguy cơ
trầm cảm cao hơn 2,43 lần so với những người
có kinh tế gia đình trung bình/khá giả (p =
0,026). Kết quả này phù hợp với một số nghiên
cứu khác, chỉ ra rằng những bệnh nhân có thu
nhập cao sẽ có tỉ lệ trầm cảm thấp hơn, những
bệnh nhân thất nghiệp sẽ có tỉ lệ trầm cảm cao
so với những bệnh nhân có việc làm ổn
định(3,8). Như vậy, ta thấy những người cao
tuổi đã nghỉ hưu nếu như không có một công
việc khác hay một nguồn thu nhập khác sau
khi nghỉ hưu có thể làm tăng thêm tình trạng
trầm cảm của họ. Điều này có thể là do phải
sống nhờ vào kinh tế của con cháu, dần dần
khiến họ cảm thấy tự ti vào bản thân mình và
việc ở nhà ít tiếp xúc với mọi người xung
quanh, nhất là ở thành phố, điều này có thể là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trầm cảm của bệnh nhân. Còn đối với
những người có tình trạng kinh tế cận nghèo
hoặc nghèo thì tình trạng kinh tế gia đình của
họ bình thường đã không tốt, bản thân họ thì
không làm ra được tiền mà lại còn mắc thêm
các bệnh khác cần nhiều chi phí điều trị làm
cho kinh tế gia đình ngày càng khó khăn hơn.
Ngoài ra, sự quan tâm chăm sóc của người
thân trong gia đình cũng là một trong những
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tình trạng
bệnh của bệnh nhân. Chính những điều này
tạo cho họ cảm giác tự ti, chán nản vì thế làm
nặng nề hơn tình trạng trầm cảm của bệnh
nhân.
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy tỉ lệ trầm cảm ở bệnh nhân tăng huyết áp
và đái tháo đường khảo sát tại khoa khám
bệnh Bệnh viện Quận 2, Tp. HCM ở mức cao
(20,4%) so với dân số chung. Kết quả này ủng
hộ việc thực hiện kiểm tra sàng lọc các vấn đề
về tâm lý cho bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh
nhân bệnh mạn tính để kịp thời phát hiện
bệnh và điều trị sớm, trong đó chú trọng các
đối tượng có các đặc điểm góp phần gia tăng
trầm cảm mà chúng tôi đã phát hiện được. Khi
nhận được thông tin bản thân bị bệnh, bệnh
nhân nên đến gặp chuyên gia tham vấn tâm lý
để được giúp đỡ về mặt tâm lí. Bệnh nhân nên
tìm kiếm nguồn lực hỗ trợ xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chapman DP, Perry GS and Strine TW (2005). The Vital
Link Between Chronic Disease and Depressive Disorders.
Preventing Chronic Disease, 2 (1): A14.
2. Khuwaja AK, Lalani S, Dhanani R, Azam IS, Rafique G
and White F (2010). Anxiety and depression among
outpatients with type 2 diabetes: A multi-centre study of
prevalence and associated factors. Diabetology & metabolic
syndrome, 2 (1): 72.
3. Lý Thị Phương Hoa, Võ Tấn Sơn and Berbiglia V (2010).
Tỷ lệ trầm cảm ở người bệnh tăng huyết áp điều trị ngoại
trú tại Bệnh Viện Nguyễn Tri Phương. Tạp chí y học thành
phố Hồ Chí Minh, 14 (4): 1 - 9.
4. Manea L, Gilbody S and McMillan D (2012). Optimal cut-
off score for diagnosing depression with the Patient
Health Questionnaire (PHQ-9): a meta-analysis. CMAJ,
184 (3): 191-196.
5. Moussavi S, Chatterji S, Verdes E, Tandon A, Patel V and
Ustun B (2007). Depression, chronic diseases, and
decrements in health: results from the World Health
Surveys. The Lancet, 370 (9590): 851-858.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Y tế Công cộng 165
6. Peyrot M and Rubin RR (1997). Levels and risks of
depression and anxiety symptomatology among diabetic
adults. Diabetes Care, 20 (4): 585-590.
7. Phan Thế Sang and Trần Kim Trang (2012). Trầm cảm
sau nhồi máu cơ tim. Tạp chí y học thành phố Hồ Chí Minh,
16: 365 - 375.
8. Trần Thị Thanh Hương và Nguyễn Thị Quỳnh Vân
(2016). Một số yếu tố liên quan tới lo âu, trầm cảm ở
bệnh nhân suy thận mạn lọc máu chu kỳ tại khoa thận
nhân tạo Bệnh Viện Bạch Mai năm 2015. Tạp chí nghiên
cứu y học, 104 (4): 17 - 25.
9. Wells KB, Rogers W, Burnam MA and Camp P (1993).
Course of depression in patients with hypertension,
myocardial infarction, or insulin-dependent diabetes.
American Journal of Psychiatry, 150: 632-632.
10. WHO (2008). National Institute of Mental Health.
Medicine on the Net, 14 (1): 15-16.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/11/2017
Ngày bài báo được đăng: 15/03/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tram_cam_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_benh_nhan_tang_huyet_ap_v.pdf