Tài liệu Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh năm 2018: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 1
TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 2 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
Lê Ngọc Quỳnh*, Phạm Phương Thảo*, Lê Huỳnh Thị Cẩm Hồng*
TÓM TẮT
Mở đầu: Trầm cảm là rối loạn tâm thần phổ biến hiện đang gia tăng trên thế giới. Đái tháo đường với trầm
cảm sẽ dẫn đến giảm chất lượng cuộc sống, tăng nguy cơ biến chứng, tăng tỷ lệ tử vong và tăng chi phí chăm sóc
sức khỏe.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại
trú tại Bệnh viện Quận 2.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 216 bệnh nhân đái tháo đường
type 2 tại Bệnh viện Quận 2 từ 01/04/2018 đến 30/05/2018. Tỷ lệ và mức độ trầm cảm được đánh giá bằng thang
PHQ-9. Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn mặt đối mặt, kèm tra cứu sổ khám bệnh và kết quả xét nghiệm HbA1c.
Kết...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 07/07/2023 | Lượt xem: 198 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 1
TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN QUẬN 2 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2018
Lê Ngọc Quỳnh*, Phạm Phương Thảo*, Lê Huỳnh Thị Cẩm Hồng*
TÓM TẮT
Mở đầu: Trầm cảm là rối loạn tâm thần phổ biến hiện đang gia tăng trên thế giới. Đái tháo đường với trầm
cảm sẽ dẫn đến giảm chất lượng cuộc sống, tăng nguy cơ biến chứng, tăng tỷ lệ tử vong và tăng chi phí chăm sóc
sức khỏe.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 điều trị ngoại
trú tại Bệnh viện Quận 2.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 216 bệnh nhân đái tháo đường
type 2 tại Bệnh viện Quận 2 từ 01/04/2018 đến 30/05/2018. Tỷ lệ và mức độ trầm cảm được đánh giá bằng thang
PHQ-9. Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn mặt đối mặt, kèm tra cứu sổ khám bệnh và kết quả xét nghiệm HbA1c.
Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân bị trầm cảm là 25% (KTC 95%: 19% - 31%). Trong đó, 24,5% trầm cảm mức độ
trung bình và 0,5% mức độ nặng. Trầm cảm có liên quan với giới nữ, trình độ học vấn thấp, kinh tế gia đình khó
khăn, có mâu thuẫn trong gia đình, mức độ bệnh nặng và những bệnh nhân có biến chứng.
Kết luận: Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 cần được quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe tâm thần, đặc biệt là
những bệnh nhân nữ có trình độ học vấn thấp và xuất hiện biến chứng.
Từ khóa: trầm cảm, đái tháo đường type 2, PHQ-9
ABSTRACT
DEPRESSION AND ASSOCIATED FACTORS AMONG OUT-PATIENTS WITH TYPE 2 DIABETES
MELLITUS AT DISTRICT 2 HOSPITAL, HO CHI MINH CITY, IN 2018
Le Ngoc Quynh, Pham Phuong Thao, Le Huynh Thi Cam Hong
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 01-08
Backgrounds: Depression is a common mental disorder which is increasing around the world. Depression
in patients with type 2 diabetes could lead to decrease the quality of life, increases risks of complications as well as
mortality rate and health care expenditure.
Objectives: To estimate the prevalence of depression and associated factors among out-patients with type 2
diabetes mellitus at District 2 Hospital.
Methods: A cross-sectional study was done of 216 patients at District 2 hospital, from April 1st to May 30th,
2018. The prevalence of depression was measured by the Patient Health Questionnaire -9 scales. The data were
collected from face-to-face interviews, medical records, and HbA1c test results.
Results: The overall prevalence of depression was 25% (95% CI: 1.9-3.1). Of them, 24.5% were moderately
depressed and 0.5% were moderately severely depressed. Depression was associated with female gender, low
education level, poor economic status, family conflicts, disease severity, and complications.
*Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Lê Ngọc Quỳnh ĐT: 0348789015 Email: lengocquynh.yds@gmailcom
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 2
Conclusions: Type 2 diabetic patients should be concerned about their mental health, especially female
patients with low education levels and diabetic complications.
Keywords: depression, Type 2 diabetes, PHQ-9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến,
hiện đang gia tăng trên toàn thế giới; trầm cảm
là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tình trạng
khuyết tật về tinh thần và thể chất; và là một
đóng góp chính cho gánh nặng bệnh tật toàn
cầu(18). Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh mãn
tính với tỷ lệ hiện mắc ngày càng gia tăng do sự
thay đổi lối sống, đô thị hóa và gia tăng tuổi
thọ(20). Tại Việt Nam, theo báo cáo gánh nặng
bệnh tật toàn cầu vào năm 2016 nhóm bệnh
không lây là một trong những nguyên nhân gây
tử vong hàng đầu trong đó có đái tháo đường và
trầm cảm(11). Trong những năm gần đây, các
nghiên cứu phân tích gộp đã chỉ ra rằng có mối
liên quan chặt chẽ giữa hai bệnh mãn tính là đái
tháo đường và trầm cảm(6,14). Trầm cảm trên
bệnh nhân đái tháo đường làm tăng nguy cơ tử
vong gấp 1,5 lần so với những người chỉ bị đái
tháo đường(15). Đái tháo đường đi kèm với trầm
cảm sẽ dẫn đến những ảnh hưởng bất lợi đáng
kể về kết cục sức khỏe bao gồm giảm chất lượng
cuộc sống, tăng nguy cơ biến chứng, tăng tỷ lệ tử
vong và tăng chi phí chăm sóc sức khỏe(8). Do đó,
chúng tôi thực hiện đề tài nhằm xác định tỷ lệ
trầm cảm và các yếu tố liên quan của người
bệnh. Từ đó giúp cán bộ y tế có cái nhìn tổng
quát về thực trạng bệnh của bệnh nhân, để đề ra
các biện pháp nhằm chăm sóc sức khỏe toàn
diện hơn cho bệnh nhân.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên
216 bệnh nhân đái tháo đường type 2 đến khám
và điều trị ngoại trú tại phòng khám nội tiết
Bệnh viện Quận 2 trong thời gian nghiên cứu.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện những bệnh nhân
đến khám và được chẩn đoán ĐTĐ type 2 tại
Bệnh viện Quận 2 cho đến khi đạt được cỡ
mẫu cần thiết.
Tiêu chí chọn mẫu
Bệnh nhân ĐTĐ type 2 đến khám và điều trị
ngoại trú tại phòng khám Bệnh viện Quận 2,
đồng ý tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân đã được
chẩn đoán đái tháo đường type 2 và có kết quả
HbA1c trong 3 tháng gần nhất.
Thu thập số liệu
Phỏng vấn trực tiếp và ghi lại thông tin
qua bộ câu hỏi soạn sẵn. Một số thông tin sẽ
thu thập bổ sung từ sổ khám bệnh: chỉ số
HbA1c, các bệnh kèm theo, biến chứng,
phương pháp điều trị.
Xử lí số liệu
Nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1. Phân
tích số liệu bằng phần mềm Stata 13.
Sử dụng phép kiểm Chi bình phương hoặc
phép kiểm chính xác Fisher để xác định mối liên
quan giữa trầm cảm với đặc điểm cá nhân, kinh
tế, xã hội, đặc điểm bệnh lý, yếu tố tâm lý, yếu tố
gia đình. Độ lớn mối liên quan được tính bằng tỷ
số tỷ lệ hiện mắc PR (prevalence ratio) với
khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) với ý nghĩa
thống kê ở mức p < 0,05.
Đánh giá trầm cảm bằng thang đo PHQ-9
(gồm 9 câu).Theo thang điểm PHQ-9 điểm cắt
5,10,15,20 tương ứng với mức độ trầm cảm nhẹ,
trung bình, nặng và rất nặng. Trong nghiên cứu
của chúng tôi sử dụng điểm cắt PHQ-9 ≥10.
Điểm cắt này là khoảng cách cắt tối ưu được
khuyến nghị trên quần thể người trưởng thành
và người mắc bệnh mãn tính, đảm bảo độ nhạy
và độ đặc hiệu trong việc đo lường rối loạn trầm
cảm(13).
KẾT QUẢ
Đa số bệnh nhân đái tháo đường đến khám
tại phòng khám là nữ (63,9%), nam giới chỉ
chiếm 36,1%. Tuổi trung bình là 59 tuổi. Độ tuổi
chiếm tỷ lệ cao nhất là trên 60 tuổi (56,5%). Phần
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 3
lớn người bệnh có trình độ học vấn từ cấp 2 trở
xuống (74,5%).
Nghiên cứu ghi nhận nghề nghiệp của bệnh
nhân đa số là hưu trí (35,7%) và nội trợ (35,7%).
Kinh tế gia đình của bệnh nhân đa số ở mức
trung bình (77,8%). Các đối tượng có tình trạng
hôn nhân chủ yếu là đã kết hôn chiếm 68,1%.
Hầu hết bệnh nhân đều sống chung với ít nhất
một người thân trong gia đình (94%) chỉ có 6%
bệnh nhân sống một mình.
Bảng1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu (n=216)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ(%)
Giới
Nam 78 36,1
Nữ 138 63,9
Tuổi
Trung bình ± độ
lệch chuẩn
59±9
Nhóm tuổi
<60 tuồi 94 44,5
≥60 tuổi 122 56,5
Trình độ học
vấn
≤ Cấp1 94 43,5
Cấp 2 67 31
≥Cấp 3 55 25,5
Nghề nghiệp
Nội trợ 77 35,7
Hưu trí 77 35,7
Nghề khác 154 28,6
Kinh tế gia đình
Khá giả 13 6,0
Trung bình 168 77,8
Khó khăn 35 16,2
Tình trạng hôn
nhân
Kết hôn 147 68,1
Góa 39 18,0
Độc thân 19 8,8
Ly thân/li dị 11 5,1
Tình trạng
sống chung
Sống chung 203 94
Sống 1 mình 13 6
Bảng 2: Các yếu tố tâm lý và sự hỗ trợ gia đình
(n=216)
Đặc điểm Tần số Tỷ lệ(%)
Nhận thức về
mức độ bệnh
Không biết 47 21,8
Nhẹ 15 6,9
Bình thường 106 49,1
Nặng 46 21,3
Rất nặng 2 0,9
Mối quan hệ
Hòa thuận, hạnh
phúc
193 90,2
Có mâu thuẫn 23 9,8
Sự quan tâm
Thăm hỏi, động viên 200 92,6
Chăm sóc 198 91,7
Hỗ trợ chi phí 102 47,2
Thờ ơ,bỏ mặc 10 4,7
Đa số bệnh nhân đánh giá tình trạng bệnh
của bản thân là bình thường (49,1%), bên cạnh
đó có 21,8% bệnh nhân không biết mình bị
bệnh mức độ nào; 21,3% bệnh nhân nghĩ là
bệnh mình nặng.
Đa số bệnh nhân đều sống hòa thuận, hạnh
phúc cùng gia đình (90,2%). Bên cạnh đó vẫn
còn 9,8% bệnh nhân có mâu thuẫn trong gia
đình. Phần lớn bệnh nhân nhận được sự hỗ trợ
từ gia đình bằng việc quan tâm chăm sóc (91,7%)
và thăm hỏi, động viên (92,6%) từ người thân,
gia đình và bạn bè. Ngoài ra, có 47,2 % bệnh
nhân còn được hỗ trợ chi phí điều trị trong quá
trình bệnh.
Bảng 3: Đặc điểm bệnh lí (n=216)
Đặc điểm Tần số
Tỷ
lệ(%)
Số năm mắc
bệnh
Trung vị (khoảng tứ phân vị) 6(3-10)
<1 năm 28 13
1-< 5 năm 73 33,8
5- dưới 10 năm 80 37
≥10 năm 35 16,2
Phương pháp
điều trị
Uống thuốc hạ đường huyết 157 72,7
Thuốc uống kết hợp thuốc
tiêm
56 25,9
Thuốc tiêm insulin 3 1,4
Tuân thủ điểu trị
thuốc
Tốt 118 54,6
Trung bình 24 11,1
Kém 74 34,3
Tuân thủ chế độ
dinh dưỡng
Có 154 71,3
Tuân thủ luyện
tập thể dục
Tốt 116 53,7
Trung bình 17 7,9
Kém 83 38,4
Tình trạng kiểm
soát đường
huyết
Đạt(≥ 7%) 53 24,5
Biến chứng Có 40 18,5
Biến chứng
bệnh ĐTĐ
Biến chứng thận 18 8,3
Bệnh võng mạc 18 8,3
Bệnh thần kinh ngoại biên 12 5,6
Bệnh mạch máu ngoại biên 8 3,7
Bệnh tim mạch, đột quỵ 5 2,3
Bệnh mãn tính
kèm theo
Có 208 96,3
Bệnh kèm theo
Tăng huyết áp 179 82,9
Rối loạn Lipid máu 170 78,7
Khác 155 71,7
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 4
Thống kê cho thấy thời gian mắc bệnh trung
vị là 6 năm với khoảng tứ phân vị từ 3 đến 10. Tỷ
lệ bệnh nhân có thời gian mắc bệnh < 5 năm
chiếm tỷ lệ 46,8%. Đa số bệnh nhân tuân thủ chế
độ dinh dưỡng chiếm 71,3%. Dựa vào chỉ số
HbA1c để theo dõi đường huyết của bệnh nhân
trong vòng 3 tháng, đa số bệnh nhân vẫn không
kiểm soát được mức đường huyết của mình
chiếm 75,5%. Phần lớn bệnh nhân vẫn chưa xuất
hiện biến chứng (81,5%). Số lượng bệnh nhân
mắc bệnh kèm theo chiếm tỷ lệ cao (96,3%) chủ
yếu là bệnh tăng huyết áp (82,9%) và rối loạn
lipid máu (78,7%).
Bảng 4: Tỷ lệ và mức độ trầm cảm (n=216)
Tỷ lệ và mức độ trầm cảm Tần số Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ trầm cảm 54 25
Mức độ trầm Nhẹ 64 29,6
cảm Trung bình 53 24,5
Nặng 1 0,5
Rất nặng 0 0
Tỷ lệ trầm cảm theo điểm cắt PHQ-9 ≥ 10
điểm là 25%. Phân mức độ theo thang điểm
PHQ-9, bệnh nhân có trầm cảm mức độ nhẹ là
29,6%; trầm cảm mức độ trung bình là 24,5% chỉ
có 1 bệnh nhân có mức độ trầm cảm nặng và
không có ai ở mức độ trầm cảm rất nặng.
Mối liên quan giữa trầm cảm với các yếu tố
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ trầm cảm và giới tính của bệnh nhân. Theo đó,
bệnh nhân nam có tỷ lệ trầm cảm giảm 69% so
với bệnh nhân nữ với p< 0,001, KTC 95% (0,15-
0,62) (Bảng 5).
Bảng 5: Mối liên quan giữa trầm cảm với các đặc tính mẫu (n=216)
Đặc tính mẫu
Trầm cảm
p PR (KTC 95%)
Có (%) Không (%)
Giới tính: Nữ
Nam
46(33,3)
8(10,3)
92(66,7)
70(89,7) <0,001
1
0,31(0,15-0,62)
Trình độ học vấn: ≤ Cấp 1
Cấp 2
≥ Cấp 3
32(34,04)
11(16,42)
11(20,0)
62(65,96)
56(83,58)
44(80,0)
-
0,019
0,082
1
0,48(0,26-0,89)
0,58(0,32-1,07)
Kinh tế: Khá giả
Trung bình
Khó khăn
2(15,4)
36(21,4)
16(45,7)
11(84,6)
132(78,6)
19(54,3)
-
0,003*
0,003*
1
1,99(1,27-3,14)
3,99(1,61-9,89)
*Kiểm định chi bình phương khuynh hướng
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ trầm cảm và trình độ học vấn của bệnh nhân.
Ở những bệnh nhân có trình độ học vấn cấp 2 thì
tỷ lệ trầm cảm bằng 0,48 lần so với bệnh nhân có
trình độ học vấn từ cấp 1 trở xuống với p = 0,019,
KTC95%(0,26-0,89).
Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan
giữa tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố: nhóm tuổi, tôn
giáo của bệnh nhân (p>0,05).
Có mối liên quan có tính chất khuynh hướng
giữa tỷ lệ trầm cảm và tình trạng kinh tế của
bệnh nhân với p= 0,003. Cụ thể, tình trạng kinh
tế ở mức trung bình thì tỷ lệ trầm cảm cao gấp
1,99 lần so với tình trạng kinh tế ở mức khả giả,
KTC95% (1,27-3,14). Bệnh nhân có tình trạng
kinh tế khó khăn thì tỷ lệ trầm cảm cao gấp 3,99
lần so với bệnh nhân có tình trạng kinh tế ở mức
khả giả, KTC95%: 1,61-9,89.
Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan
giữa tỷ lệ trầm cảm với các yếu tố: nghề nghiệp,
tình trạng hôn nhân và tình trạng sống
chung(p>0,05).
Kết quả cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa
thống kê giữa tỷ lệ trầm cảm và nhận thức về
mức độ bệnh của bệnh nhân với p= 0,007. Ở
những bệnh nhân có nhận thức bệnh đang ở
mức độ nặng có tỷ lệ trầm cảm cao cấp 2,14 lần
so với những bệnh nhân nghĩ rằng bệnh không
nặng với KTC 95% là 1,23-3,73 (Bảng 6).
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ trầm cảm và mối quan hệ trong gia đình bệnh
nhân với p=0,001. Những bệnh nhân sống trong
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 5
gia đình có mâu thuẫn có tỷ lệ trầm cảm cao gấp
2,35 lần so với những bệnh nhân sống trong gia
đình hoà thuận hạnh phúc, KTC95%: 1,45-3,82.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ trầm cảm và sự hỗ trợ từ gia đình. Ở những
bệnh nhân được quan tâm chăm sóc sẽ giảm tỷ
lệ trầm cảm 48% so với những những bệnh nhân
không được gia đình quan tâm chăm sóc với
p=0,047, KTC95%: 0,29-0,92. Ở những bệnh nhân
được thăm hỏi, động viên từ người thân và bạn
bè có tỷ lệ trầm cảm giảm 54% so với những
bệnh nhân không được thăm hỏi với p=0,016,
KTC95%: 0,26-0,79. Ở những bệnh nhân bị người
thân thờ ơ, bỏ mặc có tỷ lệ trầm cảm cao gấp 2,56
lần so với bệnh nhân không bị thờ ơ, bỏ mặc với
p= 0,009, KTC95%: 1,46-4,50.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tỷ
lệ trầm cảm và biến chứng võng mạc, biến
chứng thận, biến chứng mạch máu lớn với
p<0,05. Những bệnh nhân bị biến chứng võng
mạc có tỷ lệ trầm cảm cao gấp 2,81 lần so với
những bệnh nhân chưa biến chứng, KTC95%:
1,79-4,42. Những bệnh nhân bị biến chứng thận
có tỷ lệ trầm cảm cao gấp 2,5 lần so với những
bệnh nhân chưa biến chứng KTC95%: 1,53-4,07.
Những bệnh nhân có biến chứng biến chứng
mạch máu lớn có tỷ lệ trầm cảm cao hơn gấp
3,85 lần so với những bệnh nhân chưa biến
chứng KTC95%: 2,4-5,4 (Bảng 7).
Nghiên cứu chưa tìm thấy mối liên quan
giữa tỷ lệ trầm cảm ở bệnh nhân ĐTĐ với các
yếu tố: thời gian mắc bệnh, phương pháp điều
trị, tuân thủ dùng thuốc, tuân thủ chế độ dinh
dưỡng, tuân thủ tập luyện thể dục, tình trạng
kiểm soát đường huyết và bệnh kèm theo của
bệnh nhân (p>0,05).
Bảng 6: Mối liên quan giữa trầm cảm với các đặc điểm tâm lí và sự hỗ trợ gia đình(n=216)
Đặc tính mẫu
Trầm cảm
p PR(KTC 95%)
Có (%) Không (%)
Nhận thức về mức độ bệnh: Không nặng
Nặng
20(16,5)
17(35,4)
101(83,5)
31(64,6)
-
0,007
1
2,14(1,23-3,73)
Mối quan hệ:
Hòa thuận, hạnh phúc
Có mâu thuẫn
43(22,3)
11(52,38)
150(77,7)
10(47,62)
-
0,001
1
2,35(1,45-3,82)
Chăm sóc: Không
Có
8(44,4)
46(23,2)
10(55,6)
152(76,8)
-
0,047
1
0,52(0,29-0,92)
Thăm hỏi, động viên: Không
Có
8(50)
46(23)
8(50)
154(77,0)
-
0,016
1
0,46(0,26-0,79)
Thờ ơ/ bỏ mặc: Không
Có
48(23,4)
6(60)
157(76,7)
4(40)
-
0,009**
1
2,56(1,46-4,50)
**Kiểm định chính xác Fisher
Bảng 7: Mối liên quan giữa trầm cảm với các đặc điểm bệnh lí (n=216)
Đặc tính mẫu
Trầm cảm
p PR (KTC 95%)
Có (%) Không (%)
Bệnh võng mạc: Có
Không
11(61,1)
43(21,7)
7(38,9)
155(78,3)
<0,001 2,81(1,79-4,42)
Biến chứng thận: Có
Không
10(55,6)
44(22,2)
8(44,4)
154(77,8)
0,002 2,5(1,53-4,07)
Biến chứng mạch máu lớn: Có
Không
8(80)
46(22,3)
2(20)
160(77,7)
<0,001* 3,58(2,4-5,4)
*Kiểm định chính xác Fisher
BÀN LUẬN
Đặc tính mẫu nghiên cứu
Các đặc điểm về dân số - xã hội từ nghiên cứu
cho thấy những bệnh nhân bị đái tháo đường típ
2 đang điều trị có những đặc điểm nổi bật như: đa
số là nữ, học vấn thấp, đa số bệnh nhân từ 60 tuổi
trở lên đã về hưu và công việc là nội trợ. Kết quả
này tương đồng với báo cáo mới nhất của Hiệp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 6
hội Đái tháo đường Thế giới năm 2015 khi ghi
nhận nhóm tuổi có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là từ
60 tuổi trở lên(12). Trình độ học vấn thấp sẽ hạn chế
bệnh nhân tiếp cận với những thông tin sức khỏe
dẫn đến việc bệnh nhân dễ có những hành vi
nguy cơ cao, bệnh nhân không kiểm soát đường
huyết tốt làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh(3).
Có thể thấy rằng trong nghiên cứu của chúng tôi,
đa số bệnh nhân là nữ có độ tuổi trên 60 tuổi,
công việc chủ yếu là nội trợ. Đối tượng này có
nguy cơ mắc rối loạn trầm cảm cao hơn những
đối tượng khác(2).
Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn đối
tượng nghiên cứu phát hiện mình mắc bệnh
trong khoảng thời gian dưới 5 năm (46,8%) và
bệnh nhân chủ yếu điều trị bằng thuốc uống
(72,7%). Kết quả này tương đồng với kết quả của
tác giả Đỗ Trung Quân (2015) nghiên cứu về
trầm cảm trên bệnh nhân đái tháo đường với ghi
nhận tỷ lệ là 68,8%(10). Trong nghiên cứu của
chúng tôi có 75,5% bệnh nhân không đạt được
mức kiểm soát đường huyết chung
(HbA1C≥7%). Khi chỉ số này tăng đồng nghĩa
với việc đường huyết trong máu không có được
mức ổn định cần thiết và từ đó gia tăng khả
năng xuất hiện các biến chứng gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới quá trình điều trị bệnh(4).
Nghiên cứu trên thế giới cho thấy tâm lý của
bệnh nhân ĐTĐ típ 2 bị ảnh hưởng tiêu cực nếu
bệnh nhân mắc kèm theo các bệnh mãn tính
khác(19). Tỷ lệ bệnh nhân mắc các bệnh kèm theo
trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao (96,3%),
các bệnh mãn tính thường gặp ở trên bệnh nhân
đái tháo đường là tăng huyết áp (82,9%) và rối
loạn lipid máu (87,7%). Điều lo ngại đối với bệnh
nhân đái tháo đường chính là việc xuất hiện
những biến chứng, điều này chứng tỏ bệnh của
bệnh nhân nặng lên. Tỷ lệ bệnh nhân mắc biến
chứng thận trong nghiên cứu của chúng tôi là
8,3% tương đồng với một số nghiên cứu khác
cũng ghi nhận tỷ lệ mắc biến chứng thận trên
8%(19). Tuy nhiên tỷ lệ mắc biến chứng võng mạc
lại có sự khác biệt lớn giữa nghiên cứu của
chúng tôi và các nghiên cứu khác. Tỷ lệ mắc
bệnh võng mạc trong nghiên cứu của chúng tôi
là 8,3%, trong khi đó nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ
(2016) lại cho thấy tỉ lệ này là 24,1%(19).
Tỷ lệ và mức độ trầm cảm
Nghiên cứu được thực hiện trên đối tượng
bệnh nhân bị đái tháo đường típ 2, đa số bệnh
nhân đã lớn tuổi nên chúng tôi sử dụng điểm cắt
≥10 để xác định tỷ lệ rối loạn trầm cảm. Tỷ lệ
bệnh nhân bị rối loạn trầm cảm trong nghiên
cứu là 25% trong đó có 53 người (24,5%) bị trầm
cảm mức trung bình và 1 người (0,5%) bị trầm
cảm mức độ nặng.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so
với nghiên cứu được thực hiện tại Canada năm
2016 trên 148 bệnh nhân ghi nhận tỷ lệ chỉ là
12%(17) và cao hơn so với nghiên cứu của Đỗ
Trung Quân (2015) trên cùng đối tượng ghi nhận
tỷ lệ trầm cảm là 16,9%(10). Kết quả của nghiên
cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu tại
Ả Rập Xê Út năm 2017 trên 385 bệnh nhân ghi
nhận tỷ lệ trầm cảm là 37,6%(1). Sự khác biệt có
thể do nghiên cứu tại Ả Rập Xê Út thực hiện tại 7
trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu, lấy mẫu
ngẫu nhiên hệ thống. Còn nghiên cứu của chúng
tôi thực hiện bằng phương pháp cắt ngang mô tả
tại một phòng khám nội tiết và sử dụng phương
pháp chọn mẫu thuận tiện.
Các yếu tố liên quan đến trầm cảm trên bệnh
nhân đái tháo đường típ 2
Nghiên cứu ghi nhận nữ giới có tỷ lệ rối loạn
trầm cảm cao hơn gấp 3 lần so với nam giới.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng nữ
giới có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm cao hơn nam
giới trong dân số chung(5) cũng như ở trên bệnh
nhân ĐTĐ típ 2(16). Những phân tích gộp trên
bệnh nhân đái tháo đường típ 2 cũng cho thấy
rằng tỷ lệ trầm cảm ở nữ cao hơn nam(9). Chúng
tôi cũng nhận thấy ở những bệnh nhân có kinh
tế càng khó khăn thì có tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm
càng cao. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy ở
những bệnh nhân thu nhập thấp thì nguy cơ bị
trầm cảm cao hơn(1). Nghiên cứu của chúng tôi
chỉ ra có mối liên quan giữa trầm cảm và mức độ
bệnh. Bệnh nhân nghĩ rằng mình bị bệnh nặng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 7
thì có tỷ lệ trầm cảm cao hơn. Tình trạng bệnh
càng nặng có thể gây cho bệnh nhân tâm lý bất
ổn, lo lắng và nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng
nhận thức bệnh tật liên quan đến niềm tin cá
nhân về bệnh tật của bệnh nhân và có thể ảnh
hưởng đáng kể đến hành vi sức khỏe(7).
Chúng tôi nhận thấy rằng có mối liên quan
giữa biến chứng của bệnh và tỷ lệ trầm cảm, ở
những người bị biến chứng thì sẽ có nguy cơ
mắc trầm cảm cao hơn. Điều này có thể là do
khó khăn trong việc tuân thủ chế độ ăn uống,
tập thể dục và tuân thủ kém trong việc sử dụng
thuốc của bệnh nhân cùng với việc tỷ lệ kiểm
soát đường huyết kém (>75%), mà sẽ dẫn đến sự
phát triển và tiến triển của cả hai biến chứng
mạch máu lớn (mạch vành, đột quị, mạch máu
nhỏ ngoại vi) và mạch máu nhỏ(4).
KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trầm cảm là 25%
(KTC 95%: 19-31%). Trong đó 24,5% bệnh nhân
có mức độ trầm cảm trung bình, 0,5% có mức độ
nặng. Đồng thời, nghiên cứu tìm thấy mối liên
quan đến tỷ lệ trầm cảm của bệnh nhân: bệnh
nhân nữ, trình độ học vấn thấp, tình trạng kinh
tế khó khăn, có mâu thuẫn trong gia đình, mức
độ bệnh nặng và bệnh nhân bị biến chứng đái
tháo đường.
KIẾN NGHỊ
Từ kết quả nghiên cứu, vấn đề trầm cảm cần
được quan tâm nhiều hơn trên bệnh nhân đái
tháo đường đặc biệt là những bệnh nhân nữ, có
trình độ học vấn thấp và xuất hiện biến chứng
của bệnh đái tháo đường. Đối với những bệnh
nhân lớn tuổi, trình độ học vấn thấp cần giải
thích rõ tình trạng bệnh lý, giải thích những thắc
mắc của bệnh nhân trong quá trình điều trị
bệnh, dùng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu đối với
bệnh nhân. Nên đưa việc khám sàng lọc trầm
cảm vào công tác khám, chăm sóc và điều trị
bệnh để nâng cao hiệu quả điều trị góp phần cải
thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Albasheer O, Mahfouz M, Solan Y, Khan D, Muqri M, Almutairi
H et al (2017). “Depression and related risk factors among
patients with type 2 diabetes mellitus, Jazan area, KSA: A cross-
sectional study”. Diabetes Metab Syndr, 12(2):117-121.
2. Altinok A, Marakoglu K, Kargin NC (2016). “Evaluation of
quality of life and depression levels in individuals with Type 2
diabetes”. J Family Med Prim Care, 5 (2): 302-308.
3. Arshad A, Alvi K (2016). “Frequency of depression in type 2
diabetes mellitus and an analysis of predictive factors”. J Pak
Med Assoc, 66 (4): 425-429.
4. Bộ Y tế (2015). Bệnh đái tháo đường. In: Nguyễn Thị Xuyên.
Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nội tiết–chuyển hóa. Nhà
Xuất Bản Y học, Hà Nội, tr 174-237.
5. Bromberger J, Kravitz H (2011). “Mood and Menopause:
Findings from the Study of Women’s Health Across the Nation
(SWAN) over ten years”. Obstetrics and gynecology clinics of North
America, 38 (3): 609-625.
6. Chen P, Chan Y, Chen H, Ko M, Li C (2013). “Population-based
cohort analyses of the bidirectional relationship between type 2
diabetes and depression”. Diabetes care, 36(2): 376-82.
7. Chew B, Vos C, Heijmans M, Shariff-Ghazali S, Fernandez A,
Rutten G (2017). “Validity and reliability of a Malay version of
the brief illness perception questionnaire for patients with type 2
diabetes mellitus”. BMC Medical Research Methodology, 17: 118-128.
8. Coleman S, Katon W, Lin E, Von Korff M (2013). “Depression
and Death in Diabetes; 10-year follow up of all cause and cause
specific mortality in a diabetic cohort”. Psychosomatics, 54 (5):
428-436.
9. Demmer RT, Gelb S, Suglia SF et al (2015). “Sex differences in
the association between depression, anxiety, and type 2 diabetes
mellitus”. Psychosomatic medicine, 77 (4): 467-477.
10. Đỗ Trung Quân (2015). “Nhận xét thực trạng trầm cảm của
bệnh nhân đái tháo đường typ 2 bằng bộ câu hỏi PHQ-9”, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Bệnh viện Bạch Mai, tr 64.
11. Global Burden of Disease Compare (2016).
https://vizhub.healthdata.org/gbd-compare/, truy cập ngày
16/04/2018.
12. International Diabetes Federation (2015). IDF Diabetes Atlas
seventh, p.37-53.
13. Moriarty A, Gilbody S, McMillan D, Manea L (2015). “Screening
and case finding for major depressive disorder using the Patient
Health Questionnaire (PHQ-9): a meta-analysis”. Gen Hosp
Psychiatry, 37(6): 567-576.
14. Naskar S, Victor R, Nath K (2017). “Depression in diabetes
mellitus-A comprehensive systematic review of literature from
an Indian perspective”. Asian J Psychiatr, 27: 85-100.
15. Park M, Katon. W, Wolf F (2013). “Depression and Risk of
Mortality in Individuals with Diabetes: A Meta-Analysis and
Systematic Review”. General hospital psychiatry, 35 (3): 217-225.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 8
16. Sweileh WM, Abu-Hadeed HM, Al-Jabi SW, Zyoud SH (2014).
“Prevalence of depression among people with type 2 diabetes
mellitus: a cross sectional study in Palestine”. BMC Public
Health, 14: 163-174.
17. Wong EM, Afshar R, Qian H, Zhang M, Elliott TG, Tang TS
(2017). “Diabetes Distress, Depression and Glycemic Control in
a Canadian-Based Specialty Care Setting”. Can J Diabetes, 41 (4):
pp.362-365.
18. World Health Organiation (2018). “Depression”.
https://www.who.int/en/news-room/fact-
sheets/detail/depression, truy cập ngày 22/01/2018.
19. Yu S, Yang H, Guo X, Zheng L, Sun Y (2016). “Prevalence of
Depression among Rural Residents with Diabetes Mellitus: A
Cross-Sectional Study from Northeast China”. Int J Environ Res
Public Health, 13 (6): 542-550.
20. Zhang D, Zhang W, Jin S, Wang W, Guo D, Wang L (2018).
“Elevated Serum Total Bilirubin Concentrations Are Negatively
Associated with Diabetic Retinopathy among the Chinese
Northeastern Population”. International Journal of Endocrinology,
p.6539385.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tram_cam_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_benh_nhan_dai_thao_duong.pdf