Tài liệu Trầm cảm ở sinh viên khoa y tế công cộng: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 120
TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG
Tô Gia Kiên*, Lê Trường Vĩnh Phúc**, Huỳnh Ngọc Vân Anh***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trầm cảm là một vấn đề sức khỏe cộng đồng phổ biến ảnh hưởng đến hơn 350 triệu người trên
thế giới. Theo các nghiên cứu gần đây, tỷ lệ sinh viên các ngành y khoa tại Việt Nam có tình trạng trầm cảm dao
động từ 38,9% đến 47,6%, theo thang đo CES-D. Một nghiên cứu đánh giá rối nhiễu tâm lý ở sinh viên Đại học
Y Dược Tp.HCM năm 2014 cho thấy có khoảng 15% sinh viên có biểu hiện trầm cảm ở mức độ nặng, 9% sinh
viên có biểu hiện trầm cảm rất nặng.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu trầm cảm và các yếu tố liên quan tới trầm cảm ở sinh viên
Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên sinh viên khoa Y tế Công cộng. Tình trạng
trầm cảm được đánh giá bằng thang đo CES-D với điểm cắt xá...
7 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 05/07/2023 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trầm cảm ở sinh viên khoa y tế công cộng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 120
TRẦM CẢM Ở SINH VIÊN KHOA Y TẾ CÔNG CỘNG
Tô Gia Kiên*, Lê Trường Vĩnh Phúc**, Huỳnh Ngọc Vân Anh***
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trầm cảm là một vấn đề sức khỏe cộng đồng phổ biến ảnh hưởng đến hơn 350 triệu người trên
thế giới. Theo các nghiên cứu gần đây, tỷ lệ sinh viên các ngành y khoa tại Việt Nam có tình trạng trầm cảm dao
động từ 38,9% đến 47,6%, theo thang đo CES-D. Một nghiên cứu đánh giá rối nhiễu tâm lý ở sinh viên Đại học
Y Dược Tp.HCM năm 2014 cho thấy có khoảng 15% sinh viên có biểu hiện trầm cảm ở mức độ nặng, 9% sinh
viên có biểu hiện trầm cảm rất nặng.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu trầm cảm và các yếu tố liên quan tới trầm cảm ở sinh viên
Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang thực hiện trên sinh viên khoa Y tế Công cộng. Tình trạng
trầm cảm được đánh giá bằng thang đo CES-D với điểm cắt xác định có dấu hiệu trầm cảm là 16). Các thông tin
khác được thu thập bằng bộ câu hỏi tự soạn.
Kết quả: Có 505/772 sinh viên tham gia nghiên cứu, đạt tỷ lệ 65,4%. Kết quả nghiên cứu cho thấy có
50,3% sinh viên khoa Y tế Công cộng có dấu hiệu trầm cảm. Tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm được ghi nhận cao hơn ở
các nhóm sinh viên: kinh tế gia đình khó khăn, tình trạng sức khỏe ở mức bình thường hoặc không tốt, cảm thấy
người khác không thân thiện, có tình trạng stress trong tuần qua (p<0,05).
Kết luận: Sinh viên tích cực rèn luyện, nâng cao sức khỏe bản thân; quan tâm đến bạn bè xung quanh. Nhà
trường duy trì hoạt động ngoại khóa, quan tâm sinh viên khó khăn về kinh tế, tư vấn học tập đối với sinh viên
năm Nhất và năm Ba. Đẩy mạnh công tác tham vấn tâm lý, qua đó giải tỏa stress, giúp sinh viên hòa nhập đời
sống học tập tại Khoa.
Từ khóa: trầm cảm, yếu tố liên quan, sinh viên
ABSTRACT
DEPRESSION AMONG STUDENTS AT FACULTY OF PUBLIC HEALTH
To Gia Kien, Le Truong Vinh Phuc, Huynh Ngoc Van Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 120-126
Background: Depression is a common public health problem that affects more than 350 million people
worldwide. Recent research in Vietnam found that depression prevalence among medical students was from
38.9% to 47.6%, accessed by CES-D questionnaire. A study on 2014 reported the prevalence of severe and very
severe depression among UMP students were 15% and 9%, respectively.
Objectives: To determine the prevalence of depression among students at Faculty of Public Health, UMP
and related factors.
Methods: A cross-sectional study, all full-time, regular system students at Faculty of Public Health were
conducted to the study sample. Depression status was assessed by CES-D scale, which cutoff score was 16. Other
subject characteristics and information were collected by a self-prepared questionnaire.
Results: 505/772 (65.4%) students were conducted. The result showed that 50.3% students had depression.
*Bộ môn Tổ chức - Quản lý y tế - Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
**Ban Quản lý Đào tạo - Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
***Bộ môn Thống kê y học và Tin học – Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN Lê Trường Vĩnh Phúc ĐT: 0902 871 884 Email: ltvphucytcc@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 121
The prevalence of depression was higher in students who had: poor family financial status, normal or poor health
status, had feeling of unfriendly from people surrounded; had stress within the pass week (p value < 0.05).
Conclusions: Students should practice exercises regularly to improve health; take care about their
classmates. UMP should maintain outside activities, support students who have financial problems, counsel
academic advices for first year and third year students. Promoting psychological consultation to help student
relive stress and integrate with school life at UMP.
Keywords: depression, related factors, student
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm là một vấn đề sức khỏe cộng đồng
phổ biến, ảnh hưởng đến khả năng làm việc học
tập và cuộc sống hằng ngày; người bị trầm cảm
nặng có thể có hành vi tự tử(11,22). Tại Việt Nam,
tỷ lệ trầm cảm trong dân số chung được báo cáo
dao động từ 17%-47%(7,21). Một nghiên cứu cộng
đồng sử dụng bộ công cụ CESD cho thấy tỷ lệ
trầm cảm ở thanh niênViệt Nam 25-29 tuổi là
22% và tỷ lệ trầm cảm nặng là 6%, năm 2011(3).
Giai đoạn sinh viên là giai đoạn có nhiều
thay đổi về môi trường học tập. Sinh viên y
khoa cũng là đối tượng dễ mắc trầm cảm, lo âu
và stress từ nhiều yếu tố nguy cơ như: chương
trình học, thay đổi môi trường sống, áp lực đạt
được mục tiêu học tập và những khó khăn
trong cuộc sống như: chuyển từ trung học
sang đại học, áp lực hoàn thành chương trình
học để trở thành nhân viên y tế(1,13,14,23). Tại các
trường y khoa công lập, tỷ lệ có dấu hiệu trầm
cảm ở sinh viên dao động trong khoảng 10,4%
đến 43,8%. Một nghiên cứu của Trần Quỳnh
Anh trên sinh viên ngành Y học Dự phòng của
Đại học Y Hà Nội năm 2014 ghi nhận tỷ lệ có
dấu hiệu trầm cảm của đối tượng là 38,9% với
điểm cắt CES-D ≥ 16(17).
Khoa Y tế Công cộng được thành lập từ năm
1999 với loại hình đào tạo Cử nhân Y tế Công
cộng. Năm 2008, Khoa đào tạo thêm đối tượng
Bác sĩ Y học Dự phòng. Tương tự các sinh viên
trong nhóm ngành khoa học sức khỏe, áp lực
học tập tại Khoa là tương đối cao. Thời gian qua
đã có một số nghiên cứu ghi nhận tình trạng này
của sinh viên Khoa cũng như tại trường, tuy
nhiên chưa tập trung vào đối tượng sinh viên
chuyên biệt tại khoa Y tế Công cộng, bộ công cụ
sử dụng cũng là khác nhau(4,5). Một nghiên cứu
đánh giá tỷ lệ sinh viên khoa Y tế Công cộng có
rối loạn trầm cảm và các yếu tố ảnh hưởng đến
tỷ lệ trầm cảm là cần thiết trong giai đoạn hiện
nay, khi bối cảnh học tập có nhiều thay đổi và
đặc biệt là có đối tượng đào tạo mới: Bác sỹ Y
học Dự phòng.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên Cử nhân Y tế Công cộng, Bác sỹ Y
học Dự phòng do khoa Y tế Công cộng Đại học
Y Dược Tp. Hồ Chí Minh quản lý, đồng ý tham
gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, một điều tra cắt ngang
được thực hiện vào tháng 04/2016. Đối tượng
được chọn vào nghiên cứu bằng phương pháp
chọn mẫu toàn bộ. Theo số liệu của Ban Quản lý
Đào tạo khoa Y tế Công cộng, tại thời điểm
nghiên cứu. Tổng cộng có 505/772 sinh viên
đồng ý tham gia nghiên cứu. Thông tin được thu
thập bằng bộ câu hỏi tự điền, bao gồm 02 phần:
1) đặc điểm dân số xã hội học, mối quan hệ với
cha mẹ và tình trạng sức khỏe bản thân (14 câu);
2) Bộ công cụ đánh giá trầm cảm CES-D: gồm 20
câu, khảo sát tần suất xảy ra các sự kiện ở sinh
viên trong tuần vừa qua, gồm 04 mức độ: “< 1
ngày”, “1-2 ngày”, “3-4 ngày”, “5-7 ngày” tương
ứng với 04 thang điểm từ 0 đến 4.
CES-D (Center for Epidemiologic Studies
Depression Scale) là thang đo được sử dụng
rộng rãi để đánh giá mức độ trầm cảm trong
cộng đồng, trên nhiều đối tượng và ở nhiều quốc
gia khác nhau(3,7,8,15,19). Tổng điểm của thang đo
CES-D dao động từ 0 đến 60 điểm, điểm càng
cao, trầm cảm càng nặng. Thang đo CES-D
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 122
phiên bản tiếng Việt đã được phát triển và đánh
giá tính giá trị trên cộng đồng người Việt Nam
tại Hoa Kỳ năm 2003(19). Bộ công cụ CES-D Việt
hóa cũng đã được sử dụng trong một số nghiên
cứu cộng đồng trên đối tượng người trưởng
thành cũng như nhiều đối tượng khác(3,7,8,15,19). Có
nhiều điểm cắt xác định tình trạng trầm cảm,
dao động từ 16 (có dấu hiệu trầm cảm, dùng
trong tầm soát tại cộng đồng) đến 21 điểm (xác
định “có trầm cảm”, thường dùng trong lâm
sàng). Từ khuyến nghị của tác giả bộ công cụ và
các nghiên cứu đi trước, trong nghiên cứu này,
chúng tôi chọn điểm cắt là 16 điểm để xác định
đối tượng có dấu hiệu trầm cảm(12,20).
Thống kê mô tả: báo cáo tần số và tỷ lệ phần
trăm đối với các nhóm biến số: đặc điểm dân số
xã hội học, mối quan hệ với cha mẹ và tình trạng
sức khỏe bản thân và tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu
trầm cảm; Báo cáo trung bình và độ lệch chuẩn
đối với tuổi và điểm số CES-D. Thống kê phân
tích: Kiểm định chi bình phương được sử dụng
để xét mối liên quan giữa tỷ lệ sinh viên có dấu
hiệu trầm cảm với đặc điểm dân số xã hội học,
mối quan hệ với cha mẹ và tình trạng sức khỏe
bản thân.
Kiểm định chính xác fisher để xét sự khác
biệt về tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm giữa sinh
viên năm Hai so với sinh viên năm Sáu ngành
Y học Dự phòng. Qua phân tích đơn biến, các
yếu tố có giá trị p < 0,25 được đưa vào mô hình
hồi quy Poisson đa biến để xác định các yếu tố
có liên quan thực sự đến trầm cảm ở sinh viên.
Sự khác biệt được xem là có ý nghĩa khi giá trị
p<0,05. Nghiên cứu sử dụng số đo tỷ số tỷ lệ
hiện mắc PR và khoảng tin cậy 95% để đo
lường mức độ liên quan.
KẾT QUẢ
Thống kê mô tả đặc tính mẫu
Đối tượng tham gia nghiên cứu có độ tuổi
trung bình là 21,6 ± 1,8 tuổi, đa phần là nữ giới
(65,1%), là sinh viên ngành Bác sĩ Y học Dự
phòng (64,4%), sinh viên năm Ba có tỷ lệ tham
gia khảo sát cao nhất (31,3%). Sinh viên có học
lực trung bình khá (41,2%), tự đánh giá sức khỏe
bình thường (60,2%), địa chỉ thường trú ở tỉnh
khác (77,0%), kinh tế gia đình từ khá trở lên
(67,9%), hiện tại sống tại nhà trọ/ký túc xá
(78,2%), ở chung với bạn bè (46,9%) (Bảng 1).
Bảng 1. Đặc tính cá nhân của đối tượng tham gia
nghiên cứu (n = 505)
Đặc tính mẫu Tần số Tỷ lệ (%)
Tuổi (< 22 tuổi) 249 49,3
Giới (Nữ) 329 65,1
Ngành học (Bác sỹ Y học Dự phòng) 325 64,4
Địa chỉ thường trú (TP.HCM) 116 23,0
Lớp
Năm Nhất 115 22,8
Năm Hai 52 10,3
Năm Ba 158 31,3
Năm Tư 95 18,8
Năm Năm 45 8,9
Năm Sáu 40 7,9
Học lực
Trung bình trở xuống 98 19,4
Trung bình khá 208 41,2
Khá – Giỏi 199 39,4
Sức khỏe bản thân
Tốt 164 32,5
Bình thường 304 60,2
Không tốt 37 7,3
Kinh tế gia đình
Khó khăn 162 32,1
Khá – Giàu 343 67,9
Hiện tại sống tại
Nhà riêng 110 21,8
Phòng/Nhà trọ 395 78,2
Người ở chung nhà
Cha/mẹ/Ông/bà 123 24,4
Anh/chị/em ruột 95 18,8
Bạn bè 237 46,9
Một mình 50 9,9
Trong số 505 sinh viên tham gia nghiên cứu
có 5,7% sinh viên mồ côi cha, 2,4% mồ côi mẹ.
Cha mẹ của đối tượng tham gia nghiên cứu
phần lớn có học vấn trên cấp 3 (lần lượt đạt
42,9% ở cha và 33,9% ở mẹ), có mối quan hệ tốt
với con cái (71,9% và 84,8%), có sức khỏe bình
thường theo đánh giá của sinh viên (61,3% và
56,2%) (Bảng 2).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 123
Bảng 2. Đặc điểm liên quan đến cha/mẹ của đối
tượng tham gia nghiên cứu
Đặc tính mẫu
Tần số
(n = 505)
Tỷ lệ (%)
Cha (Còn sống) 476 94,3
Học vấn của cha
Cấp 1 trở xuống 64 13,4
Cấp 2 113 23,7
Cấp 3 95 20,0
Trên cấp 3 204 42,9
Mối quan hệ với cha (Tốt) 342 71,9
Sức khỏe của cha
Tốt 134 28,2
Bình thường 292 61,3
Không tốt 50 10,5
Mẹ (Còn sống) 493 97,6
Học vấn của mẹ
Cấp 1 trở xuống 78 15,8
Cấp 2 146 29,6
Cấp 3 102 20,7
Trên cấp 3 167 33,9
Mối quan hệ với mẹ (Tốt) 418 84,8
Sức khỏe của mẹ (n = 493)
Tốt 156 31,6
Bình thường 277 56,2
Không tốt 60 12,2
Bảng 3. Cảm nhận về stress và sự thân thiện của
người xung quanh
Đặc tính mẫu
Tần số
(n = 505)
Tỷ lệ (%)
Cảm nhận về stress trong tuần qua
Có stress 312 61,8
Không stress 193 38,2
Cảm nhận về người xung quanh
Thân thiện 139 27,5
Bình thường – Không thân thiện 366 72,5
Có 312/505 (61,8%) sinh viên tự đánh giá
mình bị stress trong tuần qua. Chỉ có 27,5% sinh
viên cho rằng những người xung quanh thân
thiện với mình (Bảng 3).
Khảo sát trầm cảm theo thang đo CES-D ghi
nhận có 254/505 sinh viên có điểm CES-D ≥ 16,
chiếm 50,3%; tỷ lệ sinh viên có trầm cảm nghiêm
trọng, CES-D ≥ 22 là 28,9%. Điểm CES-D của
sinh viên đạt trung vị 16 điểm với khoảng tứ
phân vị là 3 – 43 điểm, điểm thấp nhất là 0 và
điểm cao nhất là 43 (Bảng 4).
Bảng 4. Tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm ở đối tượng tham
gia nghiên cứu (n = 505)
Dấu hiệu trầm cảm Tần số (n=505) Tỷ lệ (%)
Không có dấu hiệu trầm cảm 251 49,7
Có dấu hiệu trầm cảm, trong đó: 254 50,3
Trầm cảm nặng (CES-D ≥ 22) 73 28,9%
Phân tích các yếu tố liên quan đến trầm cảm
Thực hiện phân tích các yếu tố liên quan đến
trầm cảm trên đối tượng tham gia nghiên cứu
bằng phép kiểm đơn biến, ngoài yếu tố về năm
học theo từng ngành học, xác định được 10 yếu
tố có khả năng ảnh hưởng đến tình trạng trầm
cảm. Sử dụng mô hình hồi quy Poisson đa biến
nhiều lần trên 10 yếu tố này, với phân tích lần
cuối (lần 2) bao gồm gồm các biến số: sức khỏe
bản thân, kinh tế gia đình, mối quan hệ với cha,
có stress trong tuần qua, cảm nhận về người
xung quanh. Kết quả phân tích đơn biến đối với
biến số năm học theo từng ngành học và kết quả
phân tích đa biến lần cuối được trình bày trong
Bảng 6, 7.
Kết quả nghiên cứu ở Bảng 6 tìm thấy mối
liên quan giữa trầm cảm với năm học ở ngành
học Y học Dự phòng. Theo đó, những sinh viên
học năm 1 và năm 3 có dấu hiệu trầm cảm lần
lượt bằng 1,7 lần và 2,0 lần so với sinh viên học
năm 6 với giá trị p lần lượt bằng 0,022 và < 0,001.
Tuy nhiên, sự khác biệt về tỷ lệ sinh viên có dấu
hiệu trầm cảm theo năm học ở ngành học Y tế
Công cộng là không có ý nghĩa thống kê, với giá
trị p > 0,05 (Bảng 6).
Bảng 6. Mối liên quan giữa trầm cảm và các năm học theo từng ngành học
Ngành học
Tổng
n (%)
Trầm cảm
Giá trị p
PR
(KTC 95%) Có Không
YHDP 325 (64,4) 172 (52,9) 153 (47,1)
Năm 1 61 (18,8) 34 (55,7) 27 (44,3) 0,022 1,7 (1,0 – 2,8)
Năm 2 10 (3,1) 4 (40,0) 6 (60,0) 0,461* 1,2 (0,5 – 3,0)
Năm 3 102 (31,4) 67 (65,7) 35 (34,3) < 0,001 2,0 (1,3 – 3,2)
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 124
Ngành học
Tổng
n (%)
Trầm cảm
Giá trị p
PR
(KTC 95%) Có Không
Năm 4 67 (20,6) 33 (49,3) 34 (50,7) 0,090 1,5 (0,9 – 2,5)
Năm 5 45 (13,8) 21 (46,7) 24 (53,3) 0,183 1,4 (0,8 – 2,5)
Năm 6 40 (12,3) 13 (32,5) 27 (67,5) 1
YTCC 180 (35,6) 82 (45,6) 98 (54,4)
Năm 1 54 (30,0) 24 (55,6) 30 (44,4) 0,891 1,0 (0,6 – 1,7)
Năm 2 42 (23,3) 20 (47,6) 22 (52,4) 0,695 1,1 (0,6 – 1,9)
Năm 3 46 (31,1) 26 (46,4) 30 (53,6) 0,756 1,1 (0,6 – 1,8)
Năm 4 28 (15,6) 12 (42,9) 16 (57,1) 1
*Kiểm định chính xác fisher
Những sinh viên có các đặc tính như kinh tế
gia đình khó khăn, tự đánh giá tình trạng sức
khỏe ở mức bình thường hoặc không tốt, cảm
thấy người khác không thân thiện hay bình
thường và có stress trong tuần qua thì đều có tỷ
lệ có dấu hiệu trầm cảm cao hơn so với những
sinh viên không có các đặc tính này (Bảng 7).
Bảng 7. Phân tích yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng
trầm cảm bằng mô hình hồi quy Poisson đa biến
Đặc tính PRhc KTChc Giá trị phc
Sức khỏe hiện tại
Tốt 1
Bình thường 1,56 1,13 – 2,16 0,007
Không tốt 1,79 1,09 – 2,92 0,020
Kinh tế gia đình
Không khó khăn 1
Khó khăn 1,37 1,06 – 1,78 0,018
Quan hệ với cha
Tốt 1
Bình thường 1,21 0,92 – 1,61 0,174
Không tốt 1,22 0,64 – 2,33 0,544
Cảm nhận về người khác
Thân thiện 1
Bình thường 1,57 1,12 – 2,19 0,009
Không thân thiện 2,37 1,24 – 4,53 0,009
Stress trong tuần qua
Không có stress 1
Có stress 2,04 1,49 – 2,79 < 0,001
Giá trị p của mô hình hồi quy < 0,001
BÀN LUẬN
Tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm ở sinh viên
Nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi CES-D để
đánh giá tình trạng trầm cảm trên 505 sinh viên
khoa Y tế Công cộng cho thấy: tỷ lệ sinh viên có
dấu hiệu trầm cảm là 50,3%. Tỷ lệ có dấu hiệu
trầm cảm ở sinh viên ngành Y tế Công cộng và
ngành Y học Dự phòng lần lượt là 45,6% và
52,9%. Tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu trầm cảm
trong nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn so với
các nghiên cứu thực hiện trên cùng đối tượng, sử
dụng cùng bộ công cụ đo lường(2,9,10,16,17). Sự khác
biệt về tỷ lệ trầm cảm qua các nghiên cứu có thể
do các nguyên nhân: a) sử dụng điểm cắt xác
định dấu hiệu trầm cảm khác nhau của bộ công
cụ CES-D (điểm cắt 16 sẽ ghi nhận tỷ lệ dấu hiệu
trầm cảm cao hơn so với điểm cắt 22)(2); b) kết
quả khảo sát toàn bộ sinh viên các năm học sẽ có
khác biệt so với chỉ khảo sát một vài lớp nhất
định(6,8); c) sự khác biệt về đặc điểm đầu vào của
các ngành học(3,16); d) sự khác biệt về chương
trình học giữa các trường Đại học(17); e) tính
chuẩn hóa của bộ công cụ CES-D sử dụng cho
nghiên cứu(20).
Mối liên quan giữa trầm cảm và các yếu tố
Sinh viên có sức khỏe càng kém, nguy cơ có
dấu hiệu trầm cảm càng cao. Chương trình đào
tạo y khoa là nặng hơn so với các lĩnh vực khác,
sinh viên phải học tập với cường độ cao, cũng
như thực tập thường xuyên tại các đơn vị y tế,
do vậy nếu tình trạng sức khỏe không tốt sẽ ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả học tập, gián tiếp dẫn
đến tình trạng mệt mỏi, lo âu, trầm cảm. Mối liên
quan giữa tình trạng sức khỏe thể chất và trầm
cảm cũng được tìm thấy trong một số nghiên
cứu đi trước(9,17).
Sinh viên học năm thứ Nhất và năm thứ Ba
nhìn chung có tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm cao
hơn so với sinh viên năm thứ Sáu. Sinh viên
ngành Y học Dự phòng năm thứ Ba có khối
lượng học tập nặng nhất, bao gồm cả học lý
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 125
thuyết và tham gia thực tập tại các bệnh viện và
thực tập tại cơ sở y tế địa phương, dễ dẫn đến
tình trạng căng thẳng về tâm lý, thiếu ngủ cũng
như trầm cảm. Ngoài ra, sinh viên năm cuối có
thể đã quen với cường độ học tập tại Khoa. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi là tương đồng với
nhận định từ các nghiên cứu về sức khỏe tâm
thần thực hiện tại cùng địa điểm, năm 2010 và
2011(4,6,5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi: sinh viên
có kinh tế gia đình khá trở lên ít có dấu hiệu
trầm cảm hơn so với sinh viên có kinh tế khó
khăn. Kinh tế gia đình đã được ghi nhận là
một yếu tố ảnh hưởng mạnh đến tỷ lệ trầm
cảm ở sinh viên trong các nghiên cứu đi
trước(16,17). Việc sống xa gia đình và phần nào
phải tự chủ về tài chính cũng tạo ra áp lực cho
sinh viên trong bối cảnh phải đảm bảo chất
lượng học tập. Những áp lực đó có thể dẫn
đến tình trạng trầm cảm của sinh viên.
Có mối tương quan chặt chẽ giữa stress với
trầm cảm, stress với lo âu và lo âu với trầm
cảm(5). Sinh viên là đối tượng thường sống xa
nhà, học tập tại môi trường mới, dễ cảm thấy bị
cô lập nếu mối quan hệ với bạn bè, người xung
quanh không tốt. Ngoài ra, môi trường học tập
tại các trường Đại học Y khoa được ghi nhận là
có nhiều áp lực gây hệ quả tiêu cực đến kết quả
học tập, sức khỏe thể chất, trạng thái thoải mái
về tâm lý, trong đó có trầm cảm(1). Kết quả tìm
được trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cho
thấy: Sinh viên tự đánh giá bản thân có stress
trong tuần qua thì có tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm
cao hơn so với sinh viên không có. Cảm nhận về
sự thân thiện của những người xung quanh
cũng ảnh hưởng nhiều đến tình trạng trầm cảm
của sinh viên.
Thông qua bộ công cụ đánh giá trầm cảm
CES-D tiếng Việt đã được chuẩn hóa, có tính tin
cậy và giá trị tốt, cùng với việc sử dụng điểm cắt
là 16 điểm, kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã
xác định được tỷ lệ sinh viên khoa Y tế Công
cộng có dấu hiệu trầm cảm. Nghiên cứu cũng
xác định được một số yếu tố nguy cơ ảnh hưởng
đến tình trạng trầm cảm ở sinh viên khoa Y tế
Công cộng, góp phần làm đa dạng hơn nguồn số
liệu tham khảo về vấn đề sức khỏe tâm thần của
sinh viên tại Khoa. Bên cạnh những kết quả ghi
nhận được, nghiên cứu của chúng tôi còn nhiều
hạn chế. Tỷ lệ sinh viên tham gia nghiên cứu
trên tổng số sinh viên còn thấp, 65,4%, kết quả
nghiên cứu có thể chưa phản ánh chính xác tỷ lệ
có dấu hiệu trầm cảm trên dân số nghiên cứu.
Một số thông tin thu thập như tình trạng stress,
cảm nhận về sức khỏe của bản thân cũng như
cảm nhận về sự thân thiện của mọi người xung
quanh được chúng tôi thu thập dựa vào đánh
giá chủ quan của sinh viên, chưa sử dụng thang
đo chuẩn để ước lượng. Các nghiên cứu về sau,
sử dụng bộ công cụ đánh giá khoa học hơn là
cần thiết để lượng hóa chính xác các yếu tố nguy
cơ.
KẾT LUẬN
Tình trạng trầm cảm ở sinh viên khoa Y tế
Công cộng bị chi phối bởi sức khỏe cá nhân, năm
học theo ngành học, kinh tế gia đình cũng như
cảm nhận của bản thân sinh viên về stress và về
mức độ thân thiện của những người xung
quanh. Về phía sinh viên, cần tích cực rèn luyện,
nâng cao sức khỏe bản thân để giảm tỷ lệ trầm
cảm; thân thiện, quan tâm đến bạn bè, qua đó
kịp thời giúp đỡ sinh viên có dấu hiệu trầm cảm.
Về phía nhà trường, cần duy trì các hoạt động
thể dục thể thao ngoại khóa, khuyến khích sinh
viên tham gia; quan tâm hỗ trợ sinh viên có hoàn
cảnh khó khăn về kinh tế; tư vấn học tập đối với
sinh viên năm Nhất và năm Ba, qua đó giảm áp
lực học tập cho sinh viên. Đẩy mạnh hơn công
tác tham vấn tâm lý đã có tại Khoa nhằm giải tỏa
stress và giúp đỡ sinh viên hòa nhập đời sống
học tập tại Khoa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bayram N, Bilgel N (2008). "The prevalence and socio-
demographic correlations of depression, anxiety and stress
among a group of university students". Social Psychiatry and
Psychiatric Epidemiology, 43 (8), pp. 667-72.
2. Dinh DQ (2007). "Depression and stress among the first year
medical students in University of medicine and pharmacy
Hochiminh city, Vietnam". Thesis, Degree of Master of Public
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 126
Health Program in Health System Development, College of Public
Sciences, Chulalongkorn University, PH:072464, 95 pp.
3. Doan VDK (2011). "What explains the association between
socioeconomic status and depression among Vietnamese
adults?". Brisbane: Queensland University of Technology, Deposited
on: 30 Apr 2012, Last Modified: 21 Jun 2017. ID code: 50010.
4. Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh, Dunne M (2010). "Sức khỏe tâm thần
của sinh viên Y tế Công cộng và sinh viên Điều dưỡng tại Đại
học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh năm 2009". Tạp chí Y học
TP. Hồ Chí Minh, 14 (1).
5. Lê Minh Thuận (2011). "Một số rối nhiễu tâm lý của sinh viên
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh". Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học,
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, Mã số: 603180, 89 trang.
6. Lê Minh Thuận (2011). "Sức khỏe tâm lý sinh viên: nghiên cứu
cắt ngang". Tạp chí Y học Thực hành, 7 (774), tr. 71-4.
7. Leggett A, Zarit SH, Nguyen NH, Hoang CN, Nguyen HT
(2012). "The influence of social factors and health on depressive
symptoms and worry: a study of older Vietnamese adults".
Aging Ment Health, 16 (6), pp. 780-86.
8. Nguyen HT (2006). "Child maltreatment in Vietnam: Prevalence
and associated mental and physical health problems". Brisbane:
Queensland University of Technology, Deposited on: 03 Dec 2008,
Last Modified: 23 Jun 2017. ID code: 16331.
9. Nguyễn Thị Bích Liên. (2011). "Nguy cơ trầm cảm ở một số khối
sinh viên đa khoa trường Đại học Y Hà Nội năm học 2010-2011
và một số yếu tố liên quan". Khóa luận tốt nghiệp Bác sĩ đa khoa,
Đại học Y Hà Nội, 30/5/2012, 60 trang.
10. Nguyễn Thị Hưởng, Nguyễn Hữu Hiếu, Trần Thị Thanh
Hương. (2014). "Thực trạng hành vi sức khỏe và nguy cơ trầm
cảm của sinh viên năm thứ Hai Đại học Thương Mại". Tạp chí Y
học Thực hành, 914 (4), tr. 101-5.
11. Onyishi M, Talukdar D, Sanchez R, Olaleye AO, Medavarapu S,
et al (2016). "Prevalence of Clinical Depression among Medical
Students and Medical Professionals: A Systematic Review
Study". Arch Med, 8 (6).
12. Radloff LS (1977). "The CES-D Scale: A Self-Report Depression
Scale for Research in the General Population". Applied
Psychological Measurement, 1, pp. 385-401.
13. Sherina MS, Rampal L, Kaneson N (2004). "Psychological stress
among undergraduate medical students". Medical Journal of
Malaysia, 59 (2), pp. 207-11.
14. Tjia J, Givens JL, Shea JA (2005). "Factors associated with under
treatment of medical student depression". Journal of American
College Health, 53 (5), pp. 219-24.
15. To KG, Meuleners LB, Fraser ML, Van Duong D, Van Do D,
Huynh VA, et al (2014). "The impact of cataract surgery on
depressive symptoms for bilateral cataract patients in Ho Chi
Minh City, Vietnam". Int Psychogeriatr, 26 (2), pp. 307-13.
16. Tran QA, Dunne MP, Luu HN (2014). "Well-being, depression
amd suicidal ideation among medical students throughout
Vietnam". Vietnam Journal of Medicine & Pharmacy, 6 (3), pp. 23-
30.
17. Trần Quỳnh Anh. (2016). "Dấu hiệu trầm cảm ở sinh viên hệ Y
học Dự phòng trường Đại học Y Hà Nội và một số yếu tố liên
quan". Tạp chí Nghiên cứu Y học, 104 (6), tr. 9-16.
18. Tran TV (1993). "Psychological traumas and depression in a
sample of Vietnamese people in the United States". Health Soc
Work, 18 (3), pp. 184-94.
19. Tran TV, Ngo D, Conway K (2003). "A cross-cultural measure of
depressive symptoms among Vietnamese Americans". Social
Work Research, 27 (1), pp. 56-64.
20. Vilagut G, Forero CG, Barbaglia G, Alonso J (2016). "Screening
for Depression in the General Population with the Center for
Epidemiologic Studies Depression (CES-D): A Systematic
Review with Meta-Analysis". PLoS ONE, 11 (5).
21. Wada T, Ishine M, Sakagami T, Kita T, Okumiya K, Mizuno K,
et al (2005). "Depression, activities of daily living, and quality of
life of community-dwelling elderly in three Asian countries:
Indonesia, Vietnam, and Japan". Arch Gerontol Geriatr,
2005;41(3):271-80.
22. World Health Organization (2012). "Depression Fact sheet
N°369".
accessed 31 January 2016.
23. Yusoff MSB, Rahim AFA, Yaacob MJ (2011). "The prevalence of
final year medical students with depressive symptoms and its
contributing factors". International Medical Journal, 18 (4),
pp. 305-9.
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tram_cam_o_sinh_vien_khoa_y_te_cong_cong.pdf