Tài liệu Tổngquan về quản lý và kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước: 1CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG
XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò chi thường xuyên của NSNN
1.1.1 Khái niệm về chi thường xuyên
Chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực Tài
chính của Nhà nước nhằm trang trải những nhu cầu của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị xã hội thuộc khu vực công, qua đó thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và
đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, khoa học và công
nghệ môi trường và các hoạt động sự nghiệp khác. Nói tóm lại thì chi
thường xuyên của NSNN là quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ NSNN
để đáp ứng nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên
của Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội.
1.1.2 Phân loại chi thường xuyên
- Căn cứ vào tính chất kinh tế
Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm mục cụ thể như sau:
+ Nhóm các khoản chi thanh toán cho cá nhân gồm:...
74 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1007 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tổngquan về quản lý và kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG
XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò chi thường xuyên của NSNN
1.1.1 Khái niệm về chi thường xuyên
Chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực Tài
chính của Nhà nước nhằm trang trải những nhu cầu của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị xã hội thuộc khu vực công, qua đó thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và
đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, khoa học và công
nghệ môi trường và các hoạt động sự nghiệp khác. Nói tóm lại thì chi
thường xuyên của NSNN là quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ NSNN
để đáp ứng nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên
của Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội.
1.1.2 Phân loại chi thường xuyên
- Căn cứ vào tính chất kinh tế
Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm mục cụ thể như sau:
+ Nhóm các khoản chi thanh toán cho cá nhân gồm: tiền lương; phụ
cấp lương; học bổng học sinh, sinh viên; tiền thưởng; phúc lợi tập thể; chi
về công tác người có công với cách mạng và xã hội; chi lương hưu và trợ
cấp bảo hiểm xã hội; các khoản thanh toán khác cho cá nhân.
+ Nhóm các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn gồm: thanh toán dịch vụ
công cộng; vật tư văn phòng; thông tin tuyên truyền liên lạc; hội nghị; công
tác phí; chi phí thuê mướn; chi sửa chữa thường xuyên; chi phí nghiệp vụ
chuyên môn của từng ngành.
+ Nhóm các khoản chi mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định và xây
dựng nhỏ gồm: sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ chuyên môn và các
công trình cơ sở hạ tầng; chi mua tài sản vô hình; mua sắm tài sản dùng cho
công tác chuyên môn.
+ Nhóm các khoản chi thường xuyên khác gồm: các nhóm mục của
2mục lục Ngân sách nhà nước không nằm trong 3 nhóm mục trên và các mục
từ mục 147 đến mục 150 thuộc khoản chi thường xuyên trong mục lục Ngân
sách nhà nước.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi cụ thể sau:
+ Chi cho sự nghiệp kinh tế: Hoạt động của các đơn vị SN kinh tế
nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, quản lý KT-XH
và tạo điều kiện cho các ngành kinh tế hoạt động và phát triển một cách
thuận lợi. Mục đích hoạt động của đơn vị SN kinh tế không phải là kinh
doanh lấy lãi, do vậy NSNN cần dành một khoản chi đáp ứng hoạt động của
các đơn vị này. Chi SN kinh tế bao gồm:
• Chi SN nông nghiệp, SN thuỷ lợi, SN ngư nghiệp, SN lâm
nghiệp, sự nghiệp giao thông, SN kiến thiết thị chính và SN kinh tế công
cộng khác.
• Chi điều tra cơ bản, đo đạc địa giới hành chính các cấp.
• Chi về bản đồ, đo đạc cắm mốc biên giới, đo đạc lập bản đồ
và lưu trữ hồ sơ địa chính.
• Chi định canh, định cư và kinh tế mới.
+ Chi sự nghiệp văn hoá-xã hội: Chi SN giáo dục, đào tạo; Chi SN y
tế; SN VHTT; SN TDTT; SN phát thanh, truyền hình; SN khoa học, công
nghệ và môi trường; SN xã hội; SN văn xã khác.
+ Chi quản lý hành chính: Là các khoản chi cho hoạt động của các cơ
quan HCNN thuộc bộ máy chính quyền các cấp từ trung ương đến địa
phương.
+ Chi về hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Chi về hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội: Bao gồm: mặt
trận tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí
Minh, Hội CCB Việt Nam, Hội LHPN, Hội Nông dân Việt Nam.
Đối với nước ta các tổ chức trên là các tổ chức thuộc hệ thống chính trị
3của nước ta, do vậy theo quy định của luật NSNN, NSNN có trách nhiệm bố
trí chi NS đảm bảo hoạt động của các tổ chức này.
+ Chi trợ giá theo chính sách của Nhà nước.
+ Chi các chương trình quốc gia.
+ Chi trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội.
+ Chi tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định
của pháp luật.
+ Chi trả lãi tiền do Nhà nước vay.
+ Chi viện trợ cho các Chính phủ và các tổ chức nước ngoài.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
1.1.3 Đặc điểm của chi thường xuyên
- Nguồn lực Tài chính trang trải cho các khoản chi thường xuyên được phân
bổ tương đối đều giữa các quý trong năm, giữa các tháng trong quý và giữa
các năm trong kỳ kế hoạch.
- Việc sử dụng kinh phí thường xuyên được thực hiện thông qua hai hình
thức cấp phát thanh toán và cấp tạm ứng. Cũng như các khoản chi khác của
Ngân sách nhà nước, việc sử dụng kinh phí thường xuyên phải đúng mục
đích, tiết kiệm và có hiệu quả.
- Chi thường xuyên chủ yếu chi cho con người sự việc nên nó không làm
tăng thêm tài sản hữu hình của Quốc gia.
- Hiệu quả của chi thường xuyên không thể đánh giá, xác định cụ thể như
chi cho đầu tư phát triển. Hiệu quả của nó không đơn thuần về mặt kinh tế
mà được thể hiện qua sự ổn định chính trị – xã hội từ đó thúc đẩy sự phát
triển bền vững của đất nước.
Với đặc điểm trên cho thấy vai trò chi thường xuyên có ảnh hưởng rất
quan trọng đến đời sống KT-XH của một quốc gia.
1.1.4 Vai trò của chi thường xuyên
- Chi thường xuyên có vai trò quan trọng trong nhiệm vụ chi của NSNN.
Thông qua chi thường xuyên đã giúp cho bộ máy nhà nước duy trì hoạt
động bình thường để thực hiện tốt chức năng QLNN; đảm bảo an ninh, an
4toàn xã hội, đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
- Thực hiện tốt nhiệm vụ chi thường xuyên còn có ý nghĩa rất lớn trong việc
phân phối và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính của đất nước, tạo điều
kiện giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng. Chi thường xuyên
hiệu quả và tiết kiệm sẽ tăng tích lũy vốn NSNN để chi cho ĐTPT, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, nâng cao niềm tin của nhân dân vào vai trò quản lý
điều hành của nhà nước.
1.1.5. Các nguyên tắc quản lý chi thường xuyên của NSNN.
- Nguyên tắc quản lý theo dự toán: Dự toán là khâu mở đầu của một chu
trình NSNN. Những khoản chi thường xuyên một khi đã được ghi vào dự
toán chi và đã được cơ quan quyền lực Nhà nước xét duyệt được coi là chỉ
tiêu pháp lệnh. Xét trên giác độ quản lý, số chi thường xuyên đã được ghi
trong dự toán thể hiện sự cam kết của cơ quan chức năng quản lý tài chính
nhà nước với các đơn vị thụ hưởng NSNN. Từ đó nảy sinh nguyên tắc quản
lý chi thường xuyên theo dự toán.
- Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả: Tiết kiệm, hiệu quả là một trong những
nguyên tắc quan trọng hàng đầu của quản lý kinh tế, tài chính, bởi lẽ nguồn
lực thì luôn có giới hạn nhưng nhu cầu thì không có giới hạn. Do vậy, trong
quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm đó luôn phải tính toán
sao cho với chi phí ít nhất nhưng phải đạt hiệu quả một cách tốt nhất.
Mặt khác, do đặc thù của hoạt động NSNN diễn ra trên phạm vi rộng,
đa dạng và phức tạp. Nhu cầu chi từ NSNN luôn gia tăng với tốc độ nhanh
trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn. Nên càng phải tôn trọng
nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý chi thường xuyên của NSNN.
- Nguyên tắc chi trực tiếp qua KBNN: Một trong những chức năng quan
trọng của KBNN là quản lý quỹ NSNN. Vì vậy, KBNN vừa có quyền, vừa
có trách nhiệm phải kiểm soát chặt chẽ mọi khoản chi NSNN, đặc biệt là
các khoản chi thường xuyên. Để tăng cường vai trò của KBNN trong kiểm
soát chi thường xuyên của NSNN, hiện nay ở nước ta và đang thực hiện
việc chi trực tiếp qua KBNN như là một nguyên tắc trong quản lý khoản chi
5này.
Để thực hiện được nguyên tắc chi trực tiếp qua KBNN cần phải giải
quyết tốt một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra, kiểm soát
trước, trong và sau quá trình cấp phát, thanh toán. Các khoản chi phải có
trong dự toán NSNN được duyệt, đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cấp
có thẩm quyền qui định và phải được thủ trưởng ĐVSD kinh phí NSNN
hoặc người được uỷ quyền quyết định chi.
Thứ hai, tất cả các cơ quan, đơn vị, các chủ dự án… sử dụng kinh phí
NSNN( gọi chung là ĐVSD ngân sách nhà nước ) phải mở tài khoản tại Kho
bạc nhà nước; chịu sự kiểm tra, kiểm soát của CQTC, KBNN trong quá
trình lập dự toán, phân bổ dự toán, cấp phát, thanh toán, hạch toán kế toán
và quyết toán NSNN.
Thứ ba, BTC, Sở tài chính - vật giá tỉnh, thành phố trực thuộc TW,
Phòng tài chính kế hoạch quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi
chung là CQTC) có trách nhiệm thẩm định dự toán và thông báo dự toán đã
được thẩm tra cho các đơn vị thụ hưởng kinh phí NS; kiểm tra việc sử dụng
kinh phí, xét duyệt quyết toán chi của các đơn vị và tổng hợp quyết toán chi
NSNN.
Thứ tư, KBNN có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ, điều kiện
chi và thực hiện cấp phát, thanh toán kịp thời các khoản chi NSNN theo
đúng qui định; tham gia với các CQTC, cơ quan QLNN có thẩm quyền
trong việc kiểm tra tình hình sử dụng NSNN và xác định số thực chi NSNN.
KBNN có quyền tạm đình chỉ, từ chối thanh toán, chi trả và thông báo
cho các ĐVSD NSNN biết đồng gửi cho CQTC đồng cấp giải quyết trong
các trường hợp sau:
- Chi không đúng mục đích, đối tượng theo dự toán được duyệt.
- Chi không đúng chế độ, định mức chi tiêu tài chính nhà nước.
- Không đủ các điều kiện về chi theo qui định.
Thứ năm, mọi khoản chi NSNN được hạch toán bằng đồng Việt Nam
6theo từng niên độ NS, từng cấp NS và MLNSNN. Các khoản chi NSNN
bằng ngoại tệ, hiện vật, ngày công lao động được qui đổi và hạch toán bằng
đồng Việt Nam theo tỷ giá ngoại tệ, giá hiện vật, ngày công lao động do cơ
quan có thẩm quyền qui định.
Thứ sáu, trong quá trình quản lý, cấp phát, quyết toán chi NSNN, các
khoản chi sai phải thu hồi giảm chi. Căn cứ vào quyết định của CQTC hoặc
quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, KBNN thực hiện việc thu
hồi giảm chi NSNN.
1.2 Hoạt động của KBNN trong hệ thống Tài chính của Việt Nam
1.2.1 Sự ra đời và phát triển của hệ thống KBNN Việt Nam
Cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (năm 1945),
Nha ngân khố trực thuộc BTC đã được thành lập theo sắc lệnh số 45/TTg
của TTCP với chức năng nhiệm vụ chủ yếu là in tiền, phát hành tiền của
Chính phủ, quản lý quỹ NSNN, quản lý một số tài sản quý của Nhà nước
bằng hiện vật như vàng, kim khí quý, đá quý…
Từ năm 1951, nhiệm vụ của Nha Ngân khố được chuyển giao sang hệ
thống Ngân hàng cùng với việc thành lập NH Quốc gia Việt Nam (sau đổi
tên là NHNN). Trong giai đoạn này, trên nền tảng của cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, NHNN vừa thực hiện chức năng: QLNN và kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ – tín dụng, thực hiện vai trò là 3 trung tâm tiền tệ – tín dụng –
thanh toán trong nền kinh tế quốc dân, vừa thực hiện nhiệm vụ của Nha
Ngân khố bao gồm các công việc như: chấp hành quỹ NSNN, tập trung các
nguồn thu của NSNN, tổ chức cấp phát chi trả các khoản chi NSNN theo
lệnh của CQTC, làm nhiệm vụ kế toán thu, chi quỹ NSNN, in tiền, phát
hành tiền, quản lý dự trữ Nhà nước về vàng bạc kim khí đá quý…
Những năm cuối của thập kỷ 90, công cuộc đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế đất nước diễn ra một cách sâu sắc và toàn diện. Để phù hợp với cơ
chế quản lý kinh tế mới, cơ chế quản lý TCTT đã có sự thay đổi, đặc biệt là
các vấn đề có liên quan đến chức năng nhiệm vụ của Tài chính và Ngân
hàng. Hệ thống NH được tổ chức lại thành hệ thống NH hai cấp: NHNN
7thực hiện chức năng QLNN trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, các NHTM thực
hiện kinh doanh tiền tệ – tín dụng. Nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN, các quỹ
TCNN được chuyển giao từ NHNN cho BTC để hệ thống Tài chính thực
hiện chức năng quản lý và điều hành NSNN tài chính quốc gia.
Quan điểm thành lập hệ thống Kho Bạc trực thuộc BTC để quản lý quỹ
NSNN và tài sản quốc gia đã được HĐBT (nay là Chính phủ) quyết định tại
Nghị định số 155/HĐBT ngày 15/10/1998 về chức năng nhiệm và tổ chức
bộ máy của BTC. Thực hiện Nghị định của HĐBT, từ năm 1988 – 1989,
BTC đã có đề án thành lập hệ thống KBNN và tiến hành thử nghiệm tại hai
tỉnh Kiên Giang (từ tháng 10/1988) và An Giang (từ tháng 7/1989); kết quả
cho thấy: việc quản lý quỹ NSNN tại địa bàn hai tỉnh trên thực hiện tốt, tập
trung nhanh các nguồn thu, đáp ứng đầy đủ kịp thời các nhu cầu chi NSNN,
trợ giúp đắc lực cho CQTC và chính quyền địa phương trong việc quản lý
và điều hành NSNN, mặt khác đã tạo điều kiện cho các NHTM trên địa bàn
sắp xếp tổ chức lại hoạt động theo hướng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ –
tín dụng có hiệu quả. Trước tình hình đó, ngày 1/ 4/1990 Chính phủ ban
hành quyết định 07/HĐBT thành lập hệ thống KBNN trực thuộc Bộ tài
chính.
1.2.2 Chức năng của Kho Bạc Nhà Nước
KBNN là tổ chức trực thuộc BTC, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
quy định tại quyết định số 235/2003/QĐ-TTg ngày 13/11/2003 của TTCP
và các văn bản hướng dẫn của BTC và KBNN. KBNN có 2 chức năng cơ
bản là:
- Quản lý nhà nước về quỹ NSNN, các quỹ TCNN và các quỹ khác của nhà
nước được giao quản lý.
- Huy động vốn cho NSNN, cho ĐTPT qua hình thức phát hành công trái và
trái phiếu.
Thực hiện và cụ thể hoá các chức năng nêu trên, Chính phủ, BTC quy
định nhiệm vụ của KBNN bao gồm những nhiệm vụ chuyên môn theo chức
năng và nhiệm vụ quản lý nội ngành.
81.2.3 Nhiệm vụ của Kho Bạc Nhà Nước
- Quản lý quỹ NSNN và các quỹ tài chính khác của Nhà nước.
+ Quản lý quỹ NSNN: KBNN có trách nhiệm quản lý toàn bộ các
khoản tiền của nhà nước, kể cả tiền vay, tiền trên tài khoản của NSNN các
cấp. Cụ thể:
• KBNN có nhiệm vụ tập trung, phản ánh đầy đủ, kịp thời các khoản
thu NSNN; tổ chức thực hiện việc thu nộp vào quỹ NSNN do các tổ chức và
cá nhân nộp tại hệ thống KBNN; thực hiện hạch toán số thu NSNN cho các
cấp NS theo quy định. Luật Ngân sách, Điều 47 quy định “ toàn bộ các
khoản thu NSNN phải nộp trực tiếp vào KBNN”.
• KBNN tổ chức thực hiện chi NSNN. KBNN quản lý, kiểm soát,
thanh toán, chi trả các khoản chi từ NSNN bao gồm cả chi thường xuyên và
chi đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước.
• Để thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN, KBNN có quyền trích
từ tài khoản tiền gửi của tổ chức, cá nhân để nộp NSNN hoặc áp dụng các
biện pháp hành chính khác để thu cho NSNN. KBNN có quyền từ chối
thanh toán, chi trả các khoản chi không đúng, không đủ các điều kiện theo
quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
+ Quản lý các quỹ tài chính khác của nhà nước:
• KBNN các cấp được giao nhiệm vụ quản lý, kiểm soát các quỹ dự
trữ tài chính của TW, của các cấp chính quyền địa phương, quỹ ngoại tệ tập
trung của nhà nước và một số quỹ TCNN khác.
• Quản lý tiền, tài sản, các loại chứng chỉ có giá của nhà nước và
của các đơn vị, cá nhân gửi tại KBNN. Thực hiện quản lý các tài sản quốc
gia quý hiếm theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
• Quản lý, kiểm soát và thực hiện nhập, xuất các khoản tạm thu, tạm
giữ, tịch thu, ký cược, ký quỹ, thế chấp theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
- Tổ chức hạch toán kế toán NSNN và các quỹ tài chính khác của nhà nước
Để thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ NSNN và các quỹ TCNN, KBNN
9các cấp tổ chức thực hiện công tác hạch toán kế toán NSNN, kế toán các
quỹ và tài sản do nhà nước giao. Trên cơ sở các số liệu kế toán, định kỳ báo
cáo việc thực hiện dự toán thu, chi NS cho CQTC cùng cấp và cơ quan nhà
nước có liên quy định.
- Thực hiện nghiệp vụ thanh toán và điều hành vốn: KBNN thực hiện các
nghiệp vụ thanh toán và điều hành vốn như một ngân hàng.
- Tổ chức huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển
+ Huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư bảo đảm bù đắp thiếu
hụt ngân sách và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
+ Nhu cầu về vốn cho ĐTPT từ NHNN ngày càng lớn đặc biệt là phát
triển cơ sở hạ tầng KT-XH. Thông qua phát hành công trái, trái phiếu huy
động nguồn vốn trong dân cư để đầu tư cho các chương trình, dự án lớn của
nhà nước.
1.2.4. Vai trò của KBNN trong quá trình kiểm soát chi thường xuyên
Ngân sách nhà nước
Đứng trên giác độ trong thực tiễn KBNN là người xuất quỹ NS thì chi
NSNN là việc sử dụng quỹ NSNN để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của bộ
máy nhà nước, phát triển KT-XH, cho an ninh quốc phòng, cho phúc lợi
công cộng, cho an sinh theo các nhiệm vụ mà NSNN phải trang trải bằng
các hình thức tổ chức chi thích hợp nhằm qua đó đảm bảo cho các khoản chi
NS đáp ứng yêu cầu đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả. Do đó, trong
quá trình thực hiện kiểm soát chi NSNN, nếu phát hiện được các vi phạm
chính sách, chế độ quản lý tài chính, KBNN có quyền từ chối thanh toán.
KBNN chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, hợp lệ của việc xuất tiền. Vì vậy,
KBNN phải kiểm tra việc sử dụng kinh phí NSNN cấp cho các đơn vị, tổ
chức kinh tế, bảo đảm đúng mục đích, đúng chế độ định mức chi tiêu của
nhà nước. Công việc kiểm tra đó được KBNN thực hiện thông qua việc xem
xét các hồ sơ, tài liệu chi thường xuyên NSNN trên các phương diện như dự
toán NS được duyệt thẩm quyền chuẩn chi, chế độ, tiêu chuẩn định mức chi
của nhà nước. Trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện thấy cơ quan, đơn vị,
10
tổ chức kinh tế sử dụng kinh phí được NSNN cấp không đúng mục đích,
không có hiệu quả hoặc không đúng chế độ, chính sách của nhà nước thì
KBNN từ chối cấp phát, thanh toán. Như vậy, trong quá trình quản lý và
điều hành NSNN, KBNN không thụ động thực hiện theo các lệnh của
CQTC, hoặc đơn vị thụ hưởng NS một cách đơn thuần. Ngược lại, KBNN
hoạt động có tính độc lập tương đối, theo cơ chế tác động trở lại đối với các
cơ quan, đơn vị này. Thông qua đó, KBNN có thể bảo đảm tính chặt chẽ
trong quá trình sử dụng công quỹ nhà nước, đặc biệt trong khâu mua sắm,
xây dựng, sữa chữa … Chính vì vậy, không những đã hạn chế được tình
trạng lãng phí, thất thoát, tiêu cực mà còn bảo đảm cho việc sử dụng kinh
phí NSNN đúng mục đích, hợp pháp, tiết kiệm, có hiệu quả. Đồng thời tham
gia kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán góp phần
chống tiêu cực, đề cao kỷ cương, kỷ luật quản lý tài chính, tiền tệ.
Thông qua việc cấp phát, thanh toán các khoản chi của NSNN,
KBNN còn tiến hành tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình chi NSNN qua
KBNN theo từng địa bàn, từng cấp NS và từng khoản chi chủ yếu. Từ đó rút
ra những nhận xét, đánh giá về những kết quả đã đạt được, những hạn chế,
tồn tại và nguyên nhân cùng với các cơ quan hữu quan phối hợp nghiên cứu
nhằm cải tiến và hoàn thiện cơ chế cấp phát, thanh toán và kiểm soát chi
NSNN qua Kho Bạc Nhà Nước.
1.3. Một số vấn đề về quản lý NS theo kết quả đầu ra:
° Đầu ra là hàng loạt hàng hóa công do các cơ quan, đơn vị nhà nước tạo ra
và cung cấp cho xã hội.
° Kết quả là các tác động, ảnh hưởng đến cộng đồng (chủ ý hoặc không chủ
ý) từ quá trình tạo ra một đầu ra hoặc nhóm các đầu ra. Kết quả kế hoạch
(dự kiến) là mục tiêu của chính phủ cố gắng đạt được thông qua mua các
đầu ra.
° Đầu vào là những nguồn lực được các cơ quan, đơn vị công sử dụng để
thực hiện các hoạt động và từ đó tạo nên kết quả đầu ra.
° Hiệu quả: Liên quan đến đầu ra và nguồn lực đầu vào cần thiết. Chỉ số
11
hiệu quả được tính toán thông qua các chỉ tiêu: chi phí trên một đơn vị đầu
ra; chi phí trung bình của xã hội để sản xuất một đơn vị đầu ra…
° Hiệu lực: Cung cấp thông tin trong phạm vi đầu ra đạt được so với các
mục tiêu chính sách. Để có được thông tin về chỉ số hiệu lực, cần tập trung
vào làm rõ vấn đề đánh giá quá trình tạo ra các đầu ra của đơn vị hiện tại có
đóng góp đến kết quả dự kiến hay không?
Những đặc điểm cơ bản của phương thức quản lý NSĐR:
° Ngân sách lập theo tính chất “mở”- công khai, minh bạch;
° Các nguồn lực tài chính của Nhà nước được tổng hợp toàn bộ vào trong dự
toán ngân sách;
° Ngân sách được lập theo thời gian trung hạn;
° Ngân sách được lập dựa vào nhu cầu, hướng tới khách hàng và mục tiêu
phát triển kinh tế – xã hội;
° Ngân sách hợp nhất chặt chẽ giữa chi thường xuyên và chi đầu tư;
° Ngân sách lập dựa trên cơ sở nguồn lực không thay đổi trong trung hạn và
do vậy, đòi hỏi phải có cam kết chặt chẽ;
° Phân bổ ngân sách dựa theo thứ tự ưu tiên chiến lược;
° Phi tập trung hóa trong quản lý ngân sách, người quản lý được trao quyền
chủ động trong chi tiêu.
1.3.1. Sự khác nhau giữa quản lý ngân sách theo đầu vào và quản lý
ngân sách theo đầu ra
- Khác nhau về quy trình chiến lược:
(1). Quy trình chiến lược quản lý ngân sách theo đầu vào:
Ngân sách được lập theo quy trình từ việc tính toán các yếu đầu vào:
các khoản mục chi (tiền lương, công cụ, hàng hóa...) để hướng tới các đầu ra
và kết quả. Sự tính toán NS chủ yếu dựa trên dự toán thực hiện của năm
trước và do vậy, không biểu thị mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào với
đầu ra và kết quả.
(2). Quy trình chiến lược quản lý ngân sách theo đầu ra (NSDR)
Quản lý NSĐR đi từ việc đánh giá kết quả mong muốn, xác định đầu
12
ra và qua đó hướng tới tính toán các yếu tố đầu vào để lập dự toán và phân
bổ nguồn lực tài chính.
- Khác nhau về nội dung quản lý chi tiêu công
QUẢN LÝ NS THEO KHOẢN MỤC QUẢN LÝ NS THEO ĐẦU RA
NS được đo lường trong giới hạn đầu
vào, tức là ngân sách được quyết định
bằng tổng các yếu tố đầu vào được mua
sắm.
NS được đo lường trong giới hạn các
loại hàng hóa công được cung cấp, tức
là ngân sách được quyết định bởi giá cả
được thanh toán cho các đầu ra được
cung ứng.
Một khi NS được thiết lập thì không có
sự thay đổi những nhân tố đầu vào.
Sử dụng NS đầu vào rất linh hoạt để tạo
ra các đầu ra với giá cả và chi phí hợp
lý.
Tập trung vấn đề vĩ mô ngắn hạn, lập
NS ngắn hạn, có sự tách rời giữa chi
thường xuyên và chi đầu tư.
Phát triển khuôn khổ trung hạn. NS
được lập trên cơ sở kết hợp chặt chẽ
giữa chi thường xuyên và chi đầu tư
trong một khuôn khổ chi tiêu trung
hạn.
Liên kết giữa chính sách, lập kế hoạch
và ngân sách rất yếu.
Liên kết giữa chính sách, lập kế hoạch
và ngân sách rất chặt chẽ
Sự kiểm soát ngân sách thông qua đánh
giá các nhân tố đầu vào được mua sắm
trong giới hạn ngân sách.
NS được kiểm soát bằng khối lượng
thanh toán cho mỗi đầu ra phù hợp với
kế hoạch phân bổ NS đã được thông
qua.
Người quản lý không có thông tin về
kết quả đầu ra trong quá trình lập kế
hoạch ngân sách.
Các cơ quan nhà nuớc QLNS được
cung cấp thông tin đầu ra và báo cáo kết
quả thực tế đạt được. Chính phủ có
được thông tin đầu ra của các đơn vị, cơ
quan và đánh giá kết quả mong muốn
Sự đánh giá chủ yếu dựa vào so sánh
mức độ chi tiêu trong mỗi khoản mục
đầu vào giữa kế hoạch với thực hiện
hoặc giữa năm này với năm khác.
Sự đánh giá dựa vào tính hiệu quả và
hiệu lực của hàng hóa công được cung
cấp và so sánh với mục tiêu chính sách
.
Quyền tự chủ của người quản lý trong
quản lý chi tiêu ngân sách rất thấp.
Người quản lý được trao quyền tự chủ
cao trong quản lý chi tiêu ngân sách
1.3.2. Qui trình lập và phân bổ NS theo kết quả đầu ra
Nhìn dưới góc độ vĩ mô, quy trình lập và phân bổ ngân sách theo kết
quả đầu ra bao gồm 3 giai đoạn:
13
Giai đoạn 1: Xây dựng và quyết định một khuôn khổ tài chính trung
hạn trên cơ sở xác lập các chiến lược, chính sách, các chỉ tiêu, các dự báo
kinh tế - tài chính vĩ mô.
Giai đoạn 2: Xây dựng và quyết định khuôn khổ ngân sách trung
hạn, xác lập các chỉ tiêu tài chính vĩ mô, các giới hạn và kỷ luật tài chính
tổng thể.
Giai đoạn 3: Xây dựng và quyết định khuôn khổ chi tiêu trung hạn
cho các bộ.
Việc Xác lập khuôn khổ chi tiêu trung hạn được tiến hành theo 2
bước: (i) xác định các chỉ tiêu tài chính và (ii) phân bổ nguồn lực công
(ngân sách) theo các ưu tiên chiến lược nhằm đạt được các chỉ tiêu kết quả
đầu ra, kinh phí được giới hạn trong khuôn khổ các chỉ tiêu tài chính.
Việc Xác định các chỉ tiêu tài chính bao gồm hai bước nhỏ: (1) các bộ
quản lý nguồn lực (Bộ Tài chính) chuẩn bị một báo cáo tình hình kinh tế -
tài chính (hiện trạng và dự báo); (2) Chính phủ xác định các chỉ tiêu tài
chính (vĩ mô).
Việc phân bổ NS gắn liền với các ưu tiên chiến lược đòi hỏi Chính
phủ phải xác định rõ các lựa chọn ưu tiên của Chính phủ. Chính phủ cũng
đòi hỏi từng Bộ và Tỉnh phải xác định được các ưu tiên của ngành hoặc tỉnh.
Chính phủ và UBND (đối với NSĐP) quyết định mức giới hạn NS tổng thể
(tổng thu, tổng chi, mức bội chi...) và xác định các ưu tiên, các trọng điểm
chi tiêu trước khi thảo luận về ngân sách của các Bộ, ngành, địa phương.
Chính phủ phải có thông báo về việc xác định các ưu tiên chi và mức
trần ngân sách cho mỗi bộ, địa phương.
Việc chuẩn bị các DTNS theo khuôn khổ chi tiêu trung hạn bao gồm
việc cân đối các nhu cầu của các lĩnh vực với tổng nguồn lực, trên cơ sở các
ưu tiên tổng thể cấp quốc gia và các ưu tiên của từng bộ. Quy trình này bao
gồm việc soạn lập các Chiến lược ngành (trung hạn) - Trong đó xác định rõ
Nhiệm vụ, Mục tiêu, Kết quả và Hoạt động. Trên cơ sở đó, xây dựng một
14
ngân sách thống nhất (bao gồm NS thường xuyên và NS đầu tư), phản ánh
chi phí cần thiết của các chính sách ngành.
Tổng nhu cầu chi tiêu được xác định trên cơ sở xác định chi phí cho
các hoạt động đã được quyết định, được lựa chọn ưu tiên nhằm đạt được các
sản phẩm đầu ra trong mỗi lĩnh vực.
Bảy bước chủ yếu khi triển khai thực hiện khuôn khổ chi tiêu trung
hạn:
Bước một: Dự báo khả năng nguồn lực dựa trên các dự báo kinh tế và
dự báo tài chính gắn với bối cảnh kinh tế đó (tăng trưởng, giá cả, nguồn thu
từ thuế, phí, lệ phí, dầu thô,...).
Bước hai: Xây dựng các mức trần sơ bộ cho các bộ bằng cách phân
chia tổng nguồn lực dự báo cho các lĩnh vực trên cơ sở các ưu tiên cấp
chính phủ.
Bước ba: Dự báo các nhu cầu chi tiêu lĩnh vực trong trung hạn trên
cơ sở các ưu tiên của chính phủ và nhu cầu đối với mỗi lĩnh vực. Việc xác
định các ưu tiên lĩnh vực đòi hỏi các Bộ, Tỉnh phải thực hiện một quy trình
đánh giá lĩnh vực, qua đó sẽ: (i) Đánh giá nhiệm vụ, mục đích, mục tiêu, sản
phẩm đầu ra và các hoạt động của mình; (ii) Thống nhất xác định các hoạt
động cần thiết để đạt được các mục tiêu đề ra.
Bước bốn: Tính toán chi phí và lựa chọn ưu tiên trong 3 năm, gồm:
Dự toán chi phí thực của các hoạt động (cả thường xuyên và cơ bản);
Lựa chọn các hoạt động được ưu tiên phù hợp với mức trần nguồn
lực; xác định những hoạt động cần được tiếp tục, những hoạt động nên thu
hẹp lại và những hoạt động cần được chấm dứt.
Bước năm: Thảo luận chính sách và xem xét lại mức trần lĩnh vực.
Sau khi tiến hành đánh giá lĩnh vực, các Bộ, Tỉnh sẽ trình bày trong các
cuộc thảo luận chính sách và bảo vệ các mức trần lĩnh vực trung hạn được
đem ra xem xét. Nếu những công việc này cho thấy một số mục tiêu lĩnh
vực là không thể đạt được trong khuôn khổ các mức trần lĩnh vực thì có thể
phải tiến hành tái phân bổ, điều chỉnh giữa các lĩnh vực.
15
Bước sáu: Soạn lập các dự toán trung hạn (3 năm). Các dự toán trong
khuôn khổ chi tiêu trung hạn có thể được sử dụng để xây dựng các dự toán 3
năm.
Bước bảy: Chính phủ thảo luận ngân sách, đánh giá, hoàn thiện và
thông qua các dự toán 3 năm. Tuy nhiên, Quốc hội sẽ chỉ phê chuẩn dự toán
một năm (năm thứ nhất) của quy trình khuôn khổ chi tiêu trung hạn.
1.3.3. Quy trình kiểm soát chi theo đầu ra:
- Theo phương thức cấp phát này, ngay từ khi lập dự toán, các cơ quan, đơn
vị phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao; chỉ tiêu nhiệm vụ của
năm kế hoạch; chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu; dự toán và kết quả
thực hiện nhiệm vụ được giao của năm trước để xây dựng dự toán chi của
năm kế hoạch.
- Sau khi được TTCP, Chủ tịch UBND giao DTNS, các cơ quan nhà nước ở
TW và ĐP, các đơn vị dự toán cấp một tiến hành phân bổ và giao dự toán
cho các đơn vị thực hiện phương thức cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra.
- Trên cơ sở dự toán chi cả năm được giao và nhiệm vụ phải chi trong quý,
các đơn vị phải lập nhu cầu chi quý gửi cơ quan quản lý cấp trên và KBNN
đồng cấp. Căn cứ nhu cầu chi hàng quý đã đăng ký và yêu cầu của nhiệm vụ
chi, đơn vị dự toán lập giấy rút DTNS gửi KBNN nơi giao dịch.
- Căn cứ vào dự toán năm được giao và nhu cầu chi quý đã đăng ký, KBNN
thực hiện trích chuyển kinh phí theo đề nghị của đơn vị. Thủ trưởng đơn vị
được quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng kinh phí được
cấp, bảo đảm thực hiện công việc theo đúng những cam kết ban đầu.
- Định kỳ, CQTC phối hợp với cơ quản lý cấp trên của đơn vị theo dõi,
kiểm ta tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trường hợp phát hiện đơn
vị không bảo đảm thực hiện công việc theo đúng cam kết, KBNN được
phép tạm dừng cấp kinh phí cho đơn vị hoặc có biện pháp thu hồi phần kinh
phí đã cấp. Như vậy, trong cơ chế kiểm soát chất lượng đầu ra, các ràng
buộc bằng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ở đầu vào đã được thay bởi
các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả chất lượng đầu ra. Do đó, đã khắc phục
16
được những hạn chế của cơ chế kiểm soát chi theo đầu vào hiện nay, khi mà
hệ thống chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của nhà nước còn thiếu và lạc
hậu; đồng thời tăng cường hơn nữa tính chủ động sáng tạo của các đơn vị sử
dụng kinh phí NSNN cấp cũng như phù hợp với chủ trương cải cách thủ tục
hành chính hiện nay ở nước ta.
Tuy nhiên muốn có một cơ chế kiểm soát như thế, trước hết nhà nước
cần phải quy định các tiêu chuẩn hiệu quả đối với từng loại hình ĐVSD
NSNN. Lẽ đương nhiên, những khoản chi tiêu thường xuyên của NSNN là
những khoản chi gắn liền với việc thực hiện các chức năng của nhà nước,
tức là gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất
toàn xã hội. Vì thế, hiệu quả của các khoản chi đó phải được xem xét dựa
trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu KT-XH nói chung. Đây
thực sự là một vấn đề vô cùng khó khăn, phức tạp trong quá trình triển khai
áp dụng cơ chế này. Hơn thế nữa, hiệu quả của việc quản lý và kiểm soát chi
NSNN không những chỉ đo được bằng các chỉ tiêu định lượng mà còn phải
xem xét cả bằng các chỉ tiêu định tính.
Ngoài ra, một vấn đề nữa cũng phải tính đến là khi giao toàn bộ trách
nhiệm quản lý tài chính cho Thủ trưởng ĐVSDNS rồi sau đó mới xem xét
hiệu quả của việc sử dụng số kinh phí đó, sẽ rất dễ phát sinh trường hợp
những nhà quản lý giỏi có thể lạm dụng số tiền tiết kiệm được trong quá
trình sử dụng kinh phí được cấp để mưu lợi cho cá nhân hoặc chi tiêu lãng
phí, gây thất thoát tiền, tài sản của nhà nước, trong lúc không bảo đảm được
số lượng, chất lượng công việc đã cam kết.
Vì vậy, theo kinh nghiệm của một số nước, trước mắt chỉ nên áp dụng
phương thức cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra đối với một số khoản chi
cho các dịch vụ công cộng như an ninh trật tự, chống các tệ nạn xã hội, các
chương trình giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường.
17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.
Từ việc nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của KBNN trong việc
quản lý chi thường xuyên NSNN, đặc biệt là sự cần thiết phải tăng cường
công tác kiểm soát chi NSNN qua hệ thống KBNN, trong chương này, đề tài
đã khái quát những nguyên tắc cơ bản và những nội dung chủ yếu trong
quản lý chi NSNN của KBNN. Đề tài cũng đã làm rõ tính chất, đặc điểm và
sự cần thiết phải tăng cường công tác trong quá trình kiểm soát các khoản
chi thường xuyên NSNN và đặc biệt nhấn mạnh vai trò của KBNN trong
việc kiểm soát chặt chẽ các khoản cấp phát, thanh toán các khoản chi
thường xuyên NSNN đồng thời đề tài cũng đã đưa ra mối quan hệ giữa
KBNN với các đơn vị liên quan trong quá trình xử lý chứng từ và kiểm soát
chi thường xuyên NSNN qua KBNN. Bên cạnh đó, vấn đề quản lý NS theo
đầu ra hiện nay đang được các nước áp dụng có hiệu quả là một phần quan
trọng đề tài đang hướng tới nhằm đáp ứng kip thời xu hướng phát triển của
thời kỳ đổi mới trong quản lý NSNN.
18
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIÊM SOÁT CHI NSNN
QUA KBNN TỈNH TIỀN GIANG
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội Tỉnh Tiền Giang
2.1.1. Vị trí địa lý
Tiền Giang là tỉnh vừa thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vừa
nằm trong vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam; Phía Đông giáp biển Đông,
phía Tây giáp tỉnh Đồng Tháp, phía Nam giáp tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long,
phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Long An và TP.Hồ Chí Minh. Tiền Giang
có vị trí địa kinh tế - chính trị khá thuận lợi cho sự phát triển do nằm liền kề
với thành phố Hồ Chí Minh. Với các điều kiện về vị trí địa lý, kinh tế và
giao thông thủy bộ, Tiền Giang có nhiều lợi thế trong việc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên, phát triển sản xuất hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu
thụ sản phẩm, tăng cường khả năng hợp tác, giao lưu kinh tế, văn hóa, du
lịch với các tỉnh trong vùng... đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
trong vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam.
2.1.2.Kinh tế - xã hội
Hành chính: Tiền Giang có 10 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố, 1
thị xã và 8 huyện:Thành phố Mỹ Tho (tỉnh lỵ), Đô thị loại 2 năm 2005; Thị
xã Gò Công Huyện Gò Công Đông; Huyện Gò Công Tây; Huyện Chợ Gạo;
Huyện Châu Thành; Huyện Tân Phước; Huyện Cai Lậy; Huyện Cái Bè
;Huyện Tân Phú Đông ( huyện mới thành lập 5/2008)
Dân cư: Dân số trung bình 1.665.288 người, mật độ 685 người/km².
Số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 72,9% dân số.
Kinh tế: Là 1 trong 8 Tỉnh,Thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm
phía nam. Năm 2007, Tiền Giang vươn lên đứng thứ 12 trong 64 tỉnh, thành
cả nước về Chỉ số Năng lực cạnh tranh. Cùng với việc 'nhảy vọt' 21 thứ
hạng so với năm 2006, môi trường đầu tư của tỉnh đã được nhiều doanh
nghiệp đánh giá tốt, có sức hấp dẫn cao.
19
Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng; Nông lâm ngư
nghiệp:41,5%; Công nghiệp xây dựng:27,8%; Dịch vụ:30.7% ; Kim ngạch
xuất khẩu:285 triệu USD; Tỉ lệ hộ nghèo:14%
Các khu công nghiệp trong tỉnh:
• Khu công nghiệp Mỹ Tho(79,14 ha): Thành phố Mỹ Tho
• Khu công nghiệp Tân Hương(197 ha): Huyện Châu Thành
• Khu công nghiệp Long Giang(600 ha): Huyện Tân Phứơc
• Khu công nghiệp tàu thuỷ Xoài Rạp(600 ha): Huyện Gò Công Đông
• Khu công nghiệp Bình Đông: Thị Xã Gò Công
• Khu công nghiệp dầu khí Tiền Giang(1000 ha): Huyện Gò Công
Đông
Và hơn 10 cụm công nghiêp
• Thu nhập bình quân đầu người:775 USD/người/năm
Tình hình NSNN
Nguồn thu chủ yếu của tỉnh là nguồn thu từ DNNN, thu từ doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thuế CTN-NQD, thu xổ số kiến thiết, thu
tiền sử dụng đất. Tốc độ thu trong những năm gần đây tuy tăng khá nhanh
(số liệu: năm 2005 đạt 2.876 tỷ đồng; năm 2006 đạt 3.172 tỷ đồng, năm
2007 đạt 3.934 tỷ đồng; năm 2008 đạt 4.788 tỷ đồng) bên cạnh đó nhu cầu
chi rất lớn, nhất là chi ĐTPT, nên khả năng tự cân đối NSĐP còn rất hạn
chế (tổng chi NSNN năm 2005 là 2.879 tỷ đồng; năm 2006 là 3.238 tỷ đồng,
năm 2007 là 3.676 tỷ đồng, năm 2008 là 4.826 tỷ đồng). Hàng năm phải
nhận trợ cấp bổ sung từ NSTW trên 300 tỷ đồng. Để cân đối NS chủ yếu
dựa vào thu xổ số kiến thiết, khai thác các khoản cấp quyền sử dụng đất và
phụ thuộc vào các khoản thu bổ sung từ NS cấp trên và các khoản vay nên
không mang tính ổn định bền vững và không chủ động được trong bố trí
vốn. Do đó kiểm soát chặt chẽ chi tiêu từ NSNN là điều hết sức cần thiết đối
với địa phương cũng như cả nước trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Tổ chức bộ máy KBNN Tiền Giang
Ngày 01/4/1990 cùng với hệ thống KBNN trong cả nước, KBNN
20
Tiền Giang chính thức được thành lập và đi vào hoạt động. Ra đời trong
những năm đầu của thời kỳ đổi mới, mặc dù có nhiều khó khăn nhưng được
sự quan tâm lãnh đạo của BTC, KBNN, Tỉnh ủy và UBND tỉnh, qua hơn 16
năm hoạt động KBNN Tiền Giang đã không ngừng trưởng thành và lớn
mạnh. Với sự nổ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, công chức, KBNN Tiền
Giang đã có những bước phát triển nhanh, toàn diện và bền vững, luôn hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, đã góp phần phục vụ đắc lực cho công tác chỉ
đạo điều hành của các cấp chính quyền trong việc xây dựng và phát triển
kinh tế- xã hội của tỉnh Tiền Giang.
Hiện nay hệ thống KBNN Tiền giang có 186 cán bộ, công chức.
Trong đó trình độ đại học là: 79 cán bộ, công chức chiếm 42,5%, trung học:
62 cán bộ, công chức chiếm 33,3%.
Thực hiện tốt chủ trương cải cách hành chính, KBNN Tiền Giang đã
tổ chức thực hiện áp dụng hệ thống quản lý chất lượng dịch vụ hành chính
công theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000, Với phương châm: “An toàn, Minh
bạch, Thuận lợi và Đúng quy định” nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa chất
lượng phục vụ khách hàng.
2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy KBNN Tiền Giang
a) Bộ máy giúp việc cho Giám đốc Kho bạc Nhà nước Tiền Giang có
8 phòng nghiệp vụ, gồm: Phòng Kế hoạch tổng hợp; Phòng Kế toán; Phòng
Thanh toán vốn đầu tư; Phòng Kho quỹ; Phòng Kiểm tra, kiểm soát; Phòng
Tin học; Phòng Tổ chức cán bộ; Phòng Hành chánh-Tài vụ- Quản trị
b) Các KBNN trực thuộc có 10 đơn vị, gồm: KBNN Cái Bè; KBNN
Cai Lậy; KBNN Tân Phước; KBNN Châu Thành; KBNN Mỹ Tho; KBNN
Chợ Gạo; KBNN Gò Công Tây; KBNN Thị Xã Gò Công; KBNN Gò Công
Đông; KBNN Tân Phú Đông (mới thành lập tháng 5/2008)
21
Sơ đồ tổ chức và quan hệ của KBNN Tiền Giang
Chỉ đạo Phối hợp Báo cáo
Các đơn vị áp dụng hệ Các đơn vị chưa
áp dụng
thống QLCL hệ thống
QLCL
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC
GIÁM ĐỐC CHẤT LƯỢNGPHÓ GIÁM ĐỐC
Ph
òn
g
K
ế
ho
ạc
h
tổ
ng
h
ợp
Ph
òn
g
K
ế
to
án
P
hò
ng
T
in
h
ọc
Ph
òn
g
K
iể
m
T
ra
K
iể
m
S
oá
t
Ph
òn
g
H
à
nh
c
há
nh
-T
ài
v
ụ-
Q
uả
n
tr
ị
Các Nhân viên
Ph
òn
g
T
ha
nh
to
án
v
ốn
đ
ầu
tư
Ph
òn
g
K
ho
q
uỹ
Ph
òn
g
Tổ
c
hứ
c
cá
n
bộ
Các Nhân viên
C
ác
K
B
N
N
tr
ực
th
uộ
c
Phòng Các KBNN
22
2.4. Thực trạng kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN Tiền
Giang trong thời gian qua.
Kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN là việc KBNN tiến
hành thẩm định, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN phù hợp với các
chính sách, chế độ, định mức chi tiêu do nhà nước quy định theo những
nguyên tắc, điều kiện, hình thức và phương pháp quản lý tài chính trong quá
trình cấp phát và thanh toán các khoản chi của NSNN. Vì vậy, các qui định
kiểm soát chi NSNN qua KBNN đang được thực hiện ở KBNN nói chung
và Kho bạc Tiền Giang nói riêng như sau:
2.4.1. Điều kiện cấp phát, thanh toán:
KBNN chỉ thực hiện chi trả, thanh toán các khoản NSNN khi có đủ
các điều kiện sau:
Đã có trong dự toán chi NSNN được giao trừ các trường hợp:
- Dự toán và phương án phân bổ dự toán NSNN chưa được CQNN
có thẩm quyền quyết định hoặc phải điều chỉnh dự toán NSNN theo qui
định.
- Chi từ nguồn tăng thu so với dự toán NSNN được giao và từ nguồn
dự phòng NSNN theo qui định của cấp có thẩm quyền để khắc phục hậu quả
thiên tai, hoả hoạn…; các khoản chi đột xuất ngoài dự toán được duyệt
nhưng không thể trì hoãn được.
- Chi ứng trước dự toán NSNN năm sau.
Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức:
Định mức tiêu chuẩn chi là giới hạn tối đa các mức chi tiêu cho một
mục đích cụ thể của đơn vị sử dụng NSNN được cơ quan chức năng có
thẩm quyền ban hành. Định mức tiêu chuẩn chi là căn cứ quan trọng để lập
kế hoạch dự toán chi NSNN hàng năm và là căn cứ để kiểm soát chi NSNN.
Định mức tiêu chuẩn sử dụng chung trong phạm vi toàn quốc là những định
mức do cơ quan chức năng có thẩm quyền ban hành áp dụng chung cho tất
cả các tỉnh, thành phố trong cả nước ( như định mức kinh tế kỹ thuật trong
23
xây dựng của Bộ Xây dựng, định mức chi Hội nghị, công tác phí, tiếp
khách, điện thoại, sử dụng xe ôtô con… của Bộ Tài chính…)
Định mức tiêu chuẩn sử dụng trong phạm vi ngành, địa phương (nếu
được Chính phủ cho phép hoặc có sự thỏa thuận của Bộ chức năng ) thì loại
định mức tiêu chuẩn này được cơ quan có thẩm quyền của ngành, địa
phương ban hành để những khoản chi đã có định mức tiêu chuẩn thì dự toán
NS của các đơn vị phải tuân thủ theo định mức tiêu chuẩn đó và KBNN căn
cứ vào tiêu chuẩn định mức để kiểm soát khi cấp phát, thanh toán cho
ĐVSDNS. Những khoản chi chưa có tiêu chuẩn định mức do cơ quan có
thẩm quyền qui định thì KBNN căn cứ vào dự toán được cơ quan cấp trên
trực tiếp của ĐVSDNS phê duyệt làm căn cứ để kiểm soát.
Đã được chuẩn chi:
Chuẩn chi là đồng ý chi, cho phép chi hoặc quyết định chi trong quản lý
và điều hành NSNN. Khi thẩm định hồ sơ thanh toán, KBNN phải kiểm
soát việc quyết định chi của chủ tài khoản đối với bất kỳ khoản chi nào hay
gọi là kiểm tra lệnh chuẩn chi. Thẩm quyền chuẩn chi phải là người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị hoặc người được ủy quyền ( gọi chung là chủ tài
khoản ) đã được CQNN có thẩm quyền phê duyệt. Tất cả các chủ tài khoản
phải đăng ký chữ ký bằng tay, mẫu dấu của cơ quan, đơn vị và các văn bản
pháp lý chứng minh quyền lực (quyết định đề bạt, văn bản uỷ quyền) với cơ
quan KBNN nơi giao dịch.
Đối với các khoản chi được CQTC cấp phát bằng hình thức dự toán kinh
phí thì lệnh chuẩn chi là “ Giấy rút dự toán kinh phí ngân sách kiêm lĩnh
tiền mặt” hoặc kiêm chuyển khoản của ĐVSDNS.Trên giấy rút phải ghi rõ
ràng, đầy đủ các yếu tố theo đúng mẫu qui định.
Đối với các khoản chi được CQTC cấp trực tiếp bằng “ Lệnh chi tiền”
thì CQTC có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát nội dung, tính chất của từng
khoản chi đảm bảo các điều kiện cấp phát NSNN theo qui định. KBNN có
trách nhiệm thanh toán, chi trả cho ĐVSD NSNN theo nội dung ghi trong
“Lệnh chi tiền” của cơ quan tài chính.
24
Có đủ hồ sơ chứng từ thanh toán: Mỗi khoản chi đều phải lập theo
mẫu chứng từ qui định và hồ sơ chứng từ thanh toán kèm theo phải đảm
bảo tính hợp pháp, hợp lệ. KBNN có trách nhiệm kiểm tra tính hợp pháp,
hợp lệ đó trước khi thanh toán, chi trả kinh phí NSNN cho đơn vị sử dụng.
Ngoài dự toán năm được giao (gửi một lần vào đầu năm), giấy rút dự
toán bằng tiền mặt hay chuyển khoản, giấy ủy nhiệm chi, uỷ nhiệm thu. Tuỳ
theo tính chất của từng khoản chi ,các hồ sơ chứng từ thanh toán bao gồm:
Đối với các khoản chi tiền lương:
- Bảng đăng ký biên chế, quỹ lương đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt(gửi lần đầu).
- Danh sách những người hưởng lương và phụ cấp lương(gửi lần đầu)
- Bảng tăng , giảm biên chế và quỹ lương được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt( nếu có).
Đối với khoản chi học bổng, sinh hoạt phí của học sinh,sinh viên:
- Bảng đăng ký học bổng, sinh hoạt phí của học sinh, sinh viên đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt(gửi lần đầu).
- Bảng tăng, giảm học bổng, sinh hoạt phí của học sinh, sinh viên
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt( nếu có).
Đối với khoản chi thuê ngoài lao động:
Bao gồm các khoản tiền lương, tiền công, nhuận bút được ghi trong hợp
đồng lao động.
Đối với các khoản chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện,
dụng cụ làm việc:
- Dự toán chi NSNN năm được duyệt hoặc điều chỉnh (nếu có).
- Hợp đồng kinh tế với đơn vị gia công hoặc đơn vị cung cấp hàng
hoá
- Trường hợp mua sắm tài sản có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên phải
thông qua đấu thầu thì hồ sơ, văn bản giấy tờ gồm: Quyết định thành lập hội
đồng đấu thầu; qui chế đấu thầu, mức giá thầu, bảng điểm (nếu có); hồ sơ
25
của các đơn vị dự thầu, biên bản đấu thầu; kết quả đấu thầu được cơ quan
quản lý cấp trên có thẩm quyền phê duyệt; hợp đồng kinh tế về gia công sản
xuất, mua bán hàng hoá.
- Trường hợp mua sắm tài sản có giá trị nhỏ hơn 100 triệu đồng
không phải đấu thầu thì hồ sơ chứng từ gồm: Các phiếu báo giá của đơn vị
cung cấp hàng hoá, dịch vụ; hoá đơn bán hàng theo mẫu của Bộ Tài Chính
phát hành được ghi đầy đủ các yếu tố trên hóa đơn như: Chữ ký, mã hiệu,
qui cách, số lượng, giá cả hàng hoá được cung cấp; Hợp đồng kinh tế về gia
công sản xuất, mua bán hàng hoá (nếu có).
Các khoản chi sửa chữa nhỏ và xây dựng nhỏ:
- Đối với công tác xây dựng nhỏ:
Thiết kế dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt; Quyết
định cấp đất(nếu có); Hồ sơ đấu thầu theo qui định ( đối với công trình hạng
mục có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên); Hợp đồng kinh tế giữa cơ quan đơn
vị sử dụng NSNN (A) và đơn vị thi công (B); Biên bản nghiệm thu khối
lượng hoàn thành giữa A và B và xác nhận của cơ quan tư vấn (nếu có).
- Đối với cải tạo, sửa chữa bao gồm:
Thiết kế dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo qui
định; Giấy phép về cải tạo, sửa chưa của cơ quan có thẩm quyền (nếu có);
Hồ sơ giám định về tình trạng kỹ thuật thiệt hại, hỏng hóc và mức độ phải
cải tạo sửa chữa của cơ quan chức năng giám định, kiểm tra đối với các tài
sản cố định phải cải tạo, sửa chữa hoặc thay thế; Hồ sơ thủ tục dự thầu hoặc
đấu thầu cải tạo, sửa chữa các công trình và hạng mục công trình có giá trị
từ 500 triệu đồng trở lên và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả
đấu thầu; Hợp đồng kinh tế giữa A và B; Biên bản nghiệm thu khối lượng
hoàn thành giữa A và B và xác nhận của cơ quan tư vấn (nếu có).
Các khoản chi khác:
- Mục 111: Chi thông tin, tuyên truyền, liên lạc.
Bảng thông báo cước phí của bưu điện (điện thoại, fax, thông tin
26
khác); Các văn bản cho phép thuê bao kênh vệ tinh, gia công, in ấn, phát
hành sản phẩm vv…;Hợp đồng kinh tế, hoá đơn tài chính, biên bản nghiệm
thu khối lượng, chất lượng các khoản chi; Báo giá của một vài đơn vị cung
cấp hàng hoá dịch vụ (nếu là hàng hoá, dịch vụ không phải đấu thầu). Đối
với loại hàng hoá, dịch vụ cần phải đấu thầu thì đơn vị sử dụng NSNN phải
gửi đến KBNN toàn bộ hồ sơ đấu thầu như đã nêu ở mục mua sắm tài sản.
- Mục 112, 113: Chi hội nghị, công tác phí.
+ Bảng kê các chi phí in ấn, bồi dưỡng giảng viên, báo cáo viên,
thành phần tham gia hội nghị, số lượng, nơi tổ chức hội nghị, tiền thuê
phòng, thuê hội trường, thuê phương tiện vận chuyển và các chi phí khác.
+ Bảng kê công tác phí: Số người đi, địa điểm đi, địa điểm đến,
thời gian công tác, chi phí ăn, thuê phòng ngủ trong thời gian công tác.
+ Hoá đơn tài chính các khoản thuê mướn, chi tiền ăn, ngủ của hội
nghị, công tác (hoặc phiếu thu của đơn vị cung cấp hàng hoá dịch vụ đối với
trường hợp các khoản chi nhỏ, chưa đủ để sử dụng hoá đơn tài chính).
- Mục 119: Chi phí nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành.
+ Văn bản cho phép và qui định mức chi cho ngành, đơn vị; Bảng
kê các nội dung chi, số lượng, khối lượng, chất lượng các khoản chi
+ Hợp đồng kinh tế, hoá đơn tài chính, báo giá ( hoặc hồ sơ đấu
thầu đối với một số khoản chi lớn hơn 100 triệu đồng)
- Mục 134: Chi khác.
+ Chi chênh lệch tỷ giá ngoại tệ NSNN: Lệnh chi ngoại tệ (bản
sao); Phiếu thu tiền của NHNN; Bảng kê ghi rõ số ngoại tệ được chi (số
tiền bằng tiền Việt Nam được chi), số ngoại tệ của NHNN (số ngoại tệ và
số tiền tính bằng đồng Việt Nam). Số tiền chênh lệch do tỷ giá ngoại tệ của
NH lớn hơn tỷ giá ngoại tệ của Bộ Tài Chính qui định.
+ Các khoản chi khắc phục hậu quả thiên tai, đổi tiền…: Quyết
định hoặc văn bản giải quyết của cấp có thẩm quyền trong trường hợp các
khoản chi không có dự toán; Bảng kê số lượng, khối lượng các khoản chi;
27
Các hợp đồng, hoá đơn theo như Mục 111.
+ Chi bảo hiểm phương tiện, tài sản của đơn vị dự toán: Bảng kê
loại tài sản, phương tiện tham gia bảo hiểm; Hợp đồng bảo hiểm, hoá đơn
tài chính ( việc kiểm soát như Mục 111).
+ Bảng kê các khoản chi cho HĐND các cấp, chi kỷ niệm các
ngày lễ lớn, chi hổ trợ, chi đón tiếp Việt kiều, chi phí và lệ phí, chi đại diện
cơ quan Việt Nam ở nước ngoài, chi thưởng cho người có công phát hiện, tố
giác và các khoản chi khác ghi rõ số lượng, khối lượng các khoản chi. Hoá
đơn như Mục 111.
2.4.2. Hình thức chi trả, thanh toán NSNN:
Chi trả, thanh toán theo dự toán từ KBNN:
Đối tượng chi trả, thanh toán theo dự toán NSNN từ KBNN gồm:
các khoản chi thường xuyên trong dự toán được giao của các cơ
quan, đơn vị sau: Cơ quan HCNN; Các đơn vị SN; Các tổ chức CT-
XH, chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp được
NSNN hổ trợ kinh phí thường xuyên; Các Tổng công ty nhà nước
được hỗ trợ thực hiện một số nhiệm vụ thường xuyên theo quy định
của pháp luật.
Qui trình chi trả, thanh toán theo dự toán từ KBNN:
Khi có nhu cầu chi, đơn vị sử dụng NSNN lập giấy rút dự toán NSNN
kèm theo các hồ sơ, chứng từ có liên quan gửi KBNN nơi giao dịch để làm
căn cứ kiểm soát, thanh toán. KBNN kiểm tra, kiểm soát các hồ sơ thanh
toán của ĐVSD NSNN, nếu đủ điều kiện theo qui định thì thực hiện chi trả,
thanh toán.
Ưu, nhược điểm:
Ưu điểm: Đây là hình thức cấp phát NSNN nhiều ưu điểm đã bám
sát dự toán chi NSNN được duyệt cả về tổng số cũng như cơ cấu các nhóm
mục chi; tạo chủ động cho việc chuẩn chi của thủ trưởng ĐVSD NSNN, tạo
điều kiện thuận lợi cho KBNN, CQTC trong việc kiểm soát, thanh toán, kế
toán, thống kê báo cáo chi NSNN, có lợi cho việc sử dụng vốn của NSNN vì
28
chỉ khi đơn vị có nhu cầu chi, thủ trưởng đơn vị chuẩn chi để rút dự toán
kinh phí, khi đó KBNN mới làm thủ tục xuất quỹ NSNN. Điều này có nghĩa
là tồn quỹ NSNN mới thực sự giảm khi đơn vị thực hiện chi tiêu. Đây cũng
là điểm hết sức quan trọng và có ý nghĩa kinh tế rất lớn trong quản lý, điều
hành NSNN. Ưu điểm cuối cùng của hình thức này là trong khi NSNN còn
bị động về nguồn thu, CQTC sử dụng dự toán kinh phí như một công cụ để
kiểm soát luồng tiền ra khỏi NSNN để chủ động bố trí nguồn đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của đơn vị.
Nhược điểm:
- Thời gian chuẩn bị dự toán không kịp thời để đảm bảo đầu năm
đơn vị có dự toán được duyệt.
- Dự toán được giao nhưng tồn quỹ NS không đảm bảo nên cũng
không rút kinh phí được
- Vẫn còn tồn tại sự can thiệp của CQTC vào quá trình chi tiêu
của đơn vị sau khi dự toán chi đã được HĐND các cấp phê chuẩn
Cấp phát bằng hình thức lệnh chi tiền:
Đối tượng thực hiện chi trả :
Chi cho các doanh nghiệp, các tổ chức KT-XH không có quan hệ thường
xuyên với NSNN; Chi trả nợ, viện trợ; Chi bổ sung từ NS cấp trên cho NS
cấp dưới và một số khoản chi khác theo quyết định của thủ trưởng cơ quan
tài chính.
Trách nhiện của cơ quan tài chính, Kho bạc nhà nước trong việc
kiểm soát thanh toán theo hình thức lệnh chi tiền:
- CQTC chịu trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát nội dung, tính chất của
từng khoản chi, đảm bảo các điều kiện cấp phát NSNN theo chế độ qui định.
- KBNN thực hiện xuất quỹ NSNN và thanh toán cho ĐVSD NSNN
theo nội dung ghi trong lệnh chi tiền của cơ quan tài chính.
Ưu, nhược điểm:
Ưu điểm: Đáp ứng kịp thời khi có nhu cầu chi cấp bách. Mặt khác
29
khi tiền được cấp bằng lệnh chi tiền vào tài khoản tiền gửi cho đơn vị,
đơn vị có thể rút sử dụng ngay khi tồn quỹ NS không đảm bảo.
Nhược điểm: Tiền của NSNN được chuyển thẳng vào tài khoản tiền gửi
của đơn vị dự toán, làm tồn quỹ NSNN giảm đi, trong khi đơn vị lại chưa sử
dụng ngay số tiền được cấp đó. Điều này một mặt gây căng thẳng giả tạo
cho quỹ NSNN; mặt khác, KBNN rất khó kiểm tra, kiểm soát quá trình chi
tiêu của đơn vị dự toán.
Ghi thu - ghi chi NSNN:
Đối tượng áp dụng: Áp dụng cho các khoản thu chi để lại cho đơn vị
(chủ yếu là các đơn vị sự nghiệp có thu), các khoản thu chi viện trợ,
thu bằng ngày công lao động, phí lệ phí....KBNN căn cứ lệnh chi tiền
của CQTC hạch toán ghi thu, ghi chi NSNN và chịu trách nhiệm kiểm
soát chi các khoản ghi chi này.
Nhược điểm: Ghi thu – ghi chi không phản ảnh kịp thời vào NSNN,
thường thực hiện vào thời điểm cuối năm công việc dồn nhiều do đó
chất lượng kiểm soát chi không bảo đảm.
2.4.3.Phương thức chi trả, thanh toán:
Cấp tạm ứng:
• Đối tượng cấp tạm ứng: Chi hành chính; Chi mua sắm tài sản, sửa
chữa, xây dựng nhỏ, sửa chữa lớn tài sản cố định chưa đủ điều kiện
cấp phát, thanh toán trực tiếp hoặc tạm ứng theo hợp đồng. Mức cấp
tạm ứng tối đa không vượt quá các nhóm mục chi trong dự toán
NSNN được phân bổ.
• Trình tự, thủ tục tạm ứng: Đơn vị gửi KBNN giấy rút DTNS kèm
các hồ sơ chứng từ có liên quan, ghi rõ nội dung tạm ứng. KBNN
kiểm tra, kiểm soát các nội dung hồ sơ, tài liệu, nếu đủ điều kiện thì
cấp tạm ứng cho đơn vị.
• Thanh toán tạm ứng: Khi thanh toán, ĐVSD NSNN có trách nhiệm
gửi đến KBNN giấy đề nghị thanh toán tạm ứng kèm theo các hồ sơ
30
chứng từ có liên quan để KBNN kiểm soát, thanh toán. Khi thanh
toán tạm ứng có
thể xảy ra các trường hợp sau:
- Số đề nghị thanh toán lớn hơn số đã tạm ứng thì KBNN sẽ chuyển
từ cấp tạm ứng sang cấp thanh toán số đã tạm ứng và đề nghị đơn vị lập
giấy rút dự toán ngân sách bổ sung phần chênh lệch.
- Số đề nghị thanh toán nhỏ hơn số đã tạm ứng thì KBNN căn cứ vào
giấy đề nghị thanh toán tạm ứng của đơn vị làm thủ tục chuyển từ cấp tạm
ứng sang cấp phát thanh toán bằng số đề nghị thanh toán tạm ứng.
- Số tạm ứng chưa đủ điều kiện thanh toán, đơn vị có thể thanh toán
trong tháng sau, quý sau; nếu hết ngày 31/12 vẫn chưa đủ thủ tục thanh toán
thì tiếp tục thanh toán trong thời gian chỉnh lý quyết toán. Trường hợp hết
thời gian chỉnh lý quyết toán mà vẫn không đủ thủ tục thanh toán, đơn vị
phải đề nghị cơ quan tài chính đồng cấp xem xét cho chuyển tạm ứng sang
năm sau. Nếu không đề nghị hoặc đề nghị không được chấp thuận, thì
KBNN thu hồi tạm ứng bằng cách trừ vào mục chi tương ứng thuộc dự toán
chi NS năm sau của đơn vị. Nếu dự toán chi NSNN năm sau không bố trí
mục chi tương ứng hoặc có bố trí nhưng thấp hơn số phải thu hồi tạm ứng,
KBNN thông báo cho CQTC biết và xử lý theo quyết định của CQTC.
Riêng khoản tạm ứng bằng tiền mặt đến cuối ngày 31/12 nhưng chưa
chi hết phải nộp trả NSNN và hạch toán giảm chi NS năm hiện hành, trừ các
khoản phải chi theo chế độ, nhưng chưa chi như: tiền lương, phụ cấp lương,
các khoản trợ cấp cho các đối tượng theo chế độ và học bổng học sinh, sinh
viên.
Cấp thanh toán:
• Các khoản cấp thanh toán bao gồm: Lương, phụ cấp lương, học
bổng, sinh hoạt phí, các khoản chi đủ điều kiện cấp thanh toán trực
tiếp, các khoản tạm ứng đủ điều kiện chuyển từ cấp tạm ứng sang
thanh toán trực tiếp.
31
• Mức cấp thanh toán: mức cấp thanh toán tối đa không vượt quá các
nhóm mục chi trong dự toán ngân sách nhà nước được phân bổ.
• Trình tự cấp thanh toán: ĐVSD NSNN gửi KBNN giấy rút DTNS
kèm các
• hồ sơ chứng từ có liên quan. KBNN kiểm tra, kiểm soát các nội
dung hồ sơ, tài liệu, nếu đủ điều kiện thì cấp cho ĐVSDNS hoặc
thanh toán trực tiếp cho các đơn vị cung cấp hàng hoá, dịch vụ.
Tạm cấp kinh phí ngân sách nhà nước
• Vào đầu năm NS, khi dự toán NSNN chưa được phân bổ hoặc
phương án phân bổ dự toán chưa được cơ quan có thẩm quyền quyết
địnhCQTC và KBNN tạm cấp dự toán cho các nhiệm vụ chi sau: Lương và
các khoản có tính chất tiền lương; Chi nghiệp vụ và công vụ phí; Các khoản
chi cần thiết để đảm bảo hoạt động của bộ máy trừ các khoản chi mua sắm
thiết bị, sửa chữa; Chi cho dự án chuyển tiếp thuộc chương trình mục tiêu
quốc gia; Chi bổ sung ngân sách cấp dưới.
• Mức cấp tạm ứng hàng tháng tối đa không vượt quá mức chi bình
quân một tháng của năm trước. Sau khi có dự toán chính thức,
KBNN sẽ thực hiện thu hồi số kinh phí tạm cấp.
Chi ứng trước dự toán cho năm sau:
Được thực hiện đối với những dự án cần chuẩn bị để chi tiêu cho năm
tới. Mức ứng trước không vượt quá 20% dự toán chi NSNN theo từng lĩnh
vực. KBNN thực hiện thu hồi vốn ứng trước theo quyết định của Bộ trưởng
BTC hoặc Chủ tịch UBND tuỳ theo từng cấp ngân sách.
2.4.4.Kiểm soát và lưu giữ chứng từ tại KBNN
Đối với những khoản chi KBNN thanh toán trực tiếp:
ĐVSDNS phải gửi KBNN toàn bộ hồ sơ, chứng từ liên quan để kiểm
soát. KBNN kiểm tra các hồ sơ, chứng từ, đóng dấu “ Đã thanh toán” và trả
lại cho đơn vị. KBNN chỉ lưu dự toán NSNN được duyệt; bảng đăng ký
biên chế, quỹ lương, học bổng, sinh hoạt phí; hợp đồng mua bán hàng hoá,
32
thiết bị, sửa chữa tài sản; quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu; quyết định
chỉ định thầu, phiếu giá thanh toán, bảng kê thanh toán.
Đối với những khoản thanh toán tạm ứng:
• Trường hợp thanh toán tạm ứng các khoản mua sắm, sửa chữa
nhỏ, các ĐVSDNS phải mang toàn bộ hồ sơ, chứng từ liên quan đến KBNN
theo qui định đã nêu ở phần 2.4.1. điều kiện cấp phát thanh toán và ở mục “
có đủ hồ sơ chứng từ” ở trên để Kho bạc kiểm soát và lưu giữ chứng từ như
trường hợp KBNN thanh toán trực tiếp.
• Trường hợp thanh toán tạm ứng đối với những khoản chi thường
xuyên khác, ĐVSD NSNN lập 02 liên “bảng kê chứng từ thanh toán” gửi
KBNN, KBNN kiểm tra và lưu 01 liên. ĐVSDNS chịu trách nhiệm về tính
trung thực, chính xác của bảng kê chứng từ thanh toán.
2.4.5. Qui trình chi NSNN qua KBNN
Ghi chú:
(1) Gửi hồ sơ, chứng từ;
(2) Xử lý chứng từ: Thực hiện kiểm soát đối chiếu các khoản chi so với dự
toán NSNN giao, đảm bảo có trong dự toan được cơ quan Nhà nước có
33
thẩm quyền giao. Kiểm tra, kiểm soát tính hợp pháp, hợp lệ của các hồ sơ,
chứng từ theo qui định đối với từng khoản chi. kiểm tra, kiểm soát các
khoản chi đảm bảo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu NSNN.
Trường hợp đảm bảo đầy đủ các điều kiện chi trả theo quy định, KBNN
thực hiện chi trả, thanh toán cho đơn vị. Trường hợp chưa đủ điều kiện
thanh toán, nhưng thuộc đối tượng tạm ứng, KB làm thủ tục tạm ứng cho
đơn vị . Trường hợp không đủ điều kiện chi theo quy định, KB được phép từ
chối chi trả, thanh toán và thông báo cho đơn vị, đồng thời chịu trách nhiệm
về quyết định từ chối của mình. Sau khi kế toán thực hiện kiểm soát xong
trình kế toán trưởng ký
(3) Trình Giám đốc KBNN duyệt; (4) Chuyển tiền (chuyển khoản), kế toán
lựa chọn kênh thanh toán phù hợp để chuyển tiền; (5) Chuyển chứng từ tiền
mặt từ Kế toán sang Kho quỹ; (6) Chi hoặc thu tiền, đồng thời thủ quỹ trả
chứng từ tiền mặt cho khách hàng; (7) Trả hồ sơ (kiểm soát chi), chứng từ
kế toán đã xử lý xong, không phải chứng từ tiền mặt.
2.5. Kết quả thực hiện kế hoạch chi giai đoạn 2004 đến 2008
Chi ngân sách nhà nước là lĩnh vực vô cùng quan trọng, nó tác
động trực tiếp đến sự vận hành của nền kinh tế – xã hội. Chi đúng, đủ, kịp
thời, là góp phần làm giàu nền kinh tế, ổn định đời sống, chính trị xã hội.
Chi sai gây lãng phí, làm nghèo đất nước, xã hội thiếu công bằng, văn minh.
Trong 5 năm qua Kho bạc nhà nước Tiền Giang đã thực hiện chi ngân sách
nhà nước 16.896.729 triệu đồng, doanh số chi tăng dần qua các năm:
Năm 2004: 2.138.337 triệu đồng
Năm 2005: 2.876.736 triệu đồng
Năm 2006: 3.289.389 triệu đồng
Năm 2007: 3.765.315 triệu đồng
Năm 2008: 4.826.952 triệu đồng
Số liệu trên được thể hiện qua báo cáo chi ngân sách nhà nước tại
Kho bạc nhà nước Tiền Giang từ năm 2004 – 2008 như sau:(xem bảng 1)
34
Bảng 1 : BÁO CÁO CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Đơn vị tính: triệu đồng
Nội dung Năm 2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
1.Chi dự toán
kinh phí thường
xuyên
877.296 1.041.357 1.242.034 1.466.978 1.744.370
2.Chi chương
trình mục tiêu 35.698 60.861 51.603
37.185 36.462
3.Chi đầu tư xây
dựng cơ bản 63.853 502.653 572.319
754.700 1.879.534
4. Chi bằng lệnh
chi tiền 172.394 1.273.158 1.378.682
1.416.844 2.166.586
Tổng cộng 2.138.337 2.876.736 3.289.389 3.675.715 4.826.952
(Nguồn: Kho bạc nhà nước Tiền Giang)
Qua báo cáo tổng chi hàng năm cho thấy nhiệm vụ chi, qui mô và
phạm vi hoạt động của hệ thống kho bạc nhà nước về lĩnh vực chi ngân sách
nhà nước ngày càng mở rộng.
Năm 2005 tăng 34,5% hay tăng 738.399 triệu đồng so với năm
2004, năm 2006 tăng 14,3% tương đương 502.653 triệu đồng so với năm
2005; năm 2007 tăng 11,7 % tương đương 386.326 triệu đồng so với năm
2006 và đến năm 2008 tăng 31.3 % tương đương 1.151.237 triệu đồng so
với năm 2007 và đạt 99,9% so với dự toán được giao. Do ảnh hưởng của các
nhân tố:
- Chi bằng dự toán kinh phí thường xuyên năm 2006 tăng do điều
chỉnh mức lương tối thiểu từ 290.000 đồng lên 350.000 đồng làm doanh số
chi tăng 14,3%và đến năm 2007 lại điều chỉnh tiền lương tối thiểu từ
350.000 đồng lên 450.000 đồng làm doanh số chi thường xuyên năm 2007
tăng 11,7% so năm 2006 và năm 2008 thực hiện điều chỉnh lương từ
450.000 lên 540.000đồng làm tăng 31,3% so năm 2007. Mặt khác trong
35
năm 2005 thực hiện giao kinh phí tự chủ một số đơn vị thí điểm, từ năm
2006, đến 2008 thực hiện giao kinh phí tự chủ hầu hết các đơn vị sử dụng
dự toán ngân sách nhà nước nên số chi tăng chủ yếu là do điều chỉnh tiền
lương tối thiểu tăng, các khoản chi hành chính thì theo định mức qui định,
nên không thay đổi biến động nhiều. Ngoài ra, do khoán kinh phí hoạt động
nên các đơn vị chi tiêu rất tiết kiệm, từ đó thu nhập tăng thêm cho cán bộ
công chức các đơn vị do tiết kiệm chi tăng đáng kể.
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản qua Kho bạc nhà nước: Trong 5
năm, khoản chi này ngày càng tăng, năm sau số lượng công trình nhất là các
công trình trọng điểm, qui mô lớn nhiều hơn năm trước. Năm 2004 với 520
công trình, số tiền 63.858 triệu đồng thì năm 2005 số công trình 2.030 với
số tiền 502.653 triệu đồng tăng 787,1%; đến năm 2006 số công trình 2.653
và số tiền 69.666 triệu đồng, tăng 13,8% so năm 2005 và đến năm 2008 có
4.015 công trình với số tiền tăng so với năm 2007 là 1.124.834 triệu đồng
tương đương tăng 249 %
- Chi ngân sách nhà nước các cấp
Hiện nay Kho bạc nhà nước Tiền Giang đang thực hiện chi ngân
sách nhà nước cho 4 cấp ngân sách bao gồm:
Ngân sách nhà nước Trung ương: có 40 đơn vị;Ngân sách nhà nước
Tỉnh: 162 đơn vị; Ngân sách nhà nước Huyện: 256 đơn vị;Ngân sách nhà
nước Xã, Thị trấn: 198 đơn vị
Với tổng chi các năm như sau (xem bảng 2 )
Bảng 2 : KẾT QUẢ CHI NGÂN SÁCH THEO CẤP NGÂN SÁCH
Đơn vị tính: triệu đồng
Cấp
ngân
sách
Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008
Thực hiện Thực hiện Thực hiện Dự toán
% so
thực
hiện
năm
2006
% so
thực
hiện
năm
2007
% so
dự
toán
1.Trung
ương
302.838 280.465 1.270.101 1.270.200 319 352 99,9
2.Tỉnh 2.033.925 1.932.072 2.050.334 2.051.000 0,8 6 99,8
36
3.Huyện 726.303 952.189 1.171.518 1.172.000 61 1,7 99,9
4. Xã 226.323 310.989 334.999 335.000 28 7,7 99,9
Tổng
cộng
3.289.389 3.675.715 4.826.952 4.828.200 47 31 99,9
(Nguồn : Kho bạc nhà nước Tiền Giang)
2.6. Về tình hình thực hiện kiểm soát chi:
Số liệu báo cáo kiểm soát chi tại KBNN Tiền Giang qua các năm thể
hiện ở bảng 3
Bảng 3: TÌNH HÌNH KIỂM SOÁT CHI QUA KBNN TIỀN GIANG
(Năm 2004 đến 2008)
Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 2008
1.Tổng chi đã qua
KSC(triệu đồng)
877.296 1.041.357 1.242.034 1.466.987 1.744.370
2.Đơn vị chưa chấp
hành đúng điều kiện
chi qui định(đv)
243 283 300 528 484
3.Tổng số món từ
chối T.toán(món)
388 379 435 642 959
4. Tổng số tiền từ
chối T.toán(triệu đ)
2.016 2.324 3.454 6.460 17.909
Trong đó:
- Vượt, không có dự
toán(triệu đ)
512 1.362 892 1.749 1.684
- Vượt tồn quỹ
NS(triệu đ)
31 22 21 49 28
- Sai MLNS, sai số
tiền bằng chữ, bằng
số(triệu đ)
72 56 48 1.041 2.085
- Sai mục đích,
không đúng chế độ,
định mức,ctừ không
hợp lệ(triệu đ)
805 722 2.371 3.599 14.083
(Nguồn số liệu KBNN Tiền Giang )
37
Trong đó các khoản chi lớn KBNN Tiền Giang đã từ chối thanh toán
cho các đơn vị trong năm 2008 với các nội dung: Mua sắn thiết bị tin học
mục 145.12 số tiền 8.688 triệu đồng do đơn vị trúng thầu không cung cấp
thiết bị theo hợp đồng và không đúng với thiết bị như đã trúng thầu (Sở
Giáo Dục Tiền Giang); UBND phường 10 mua đất xây dựng điểm tiếp dân
số tiền 340 triệu đồng không có trong dự toán; Cục Thuế Tiền Giang mua
máy chiếu chưa có ý kiến của Tổng cục 359 triệu đồng); Sở Y Tế Tiền
Giang điều chỉnh kinh phí ngoài khoán sang khoán 150 triệu đồng; UBND
xã Phú Nhuận huyện Cai Lậy Tiền Giang chi vượt dự toán 207 triệu đồng;
Chi Cục Thuế xã Tân Phú Đông chi sai chế đô 55 triệu đồng( không có
trong chế độ chi tiêu của đơn vị); Từ chối thanh toán mua máy điều hoà 47
triệu đồng của Kiểm toán nhà nước khu vực 9 theo công văn 11037/BTC-
QLCS về việc hướng dẫn tạm dừng mua sắm ô tô, phương tiện, tài sản có
giá trị lớn phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát.
2.7. Những kết quả đạt được qua công tác kiểm soát chi NSNN qua
KBNN Tiền Giang:
Luật NSNN qui định tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm
soát chặt chẽ từ khâu lập dự toán, chấp hành, và quyết toán NSNN. Việc
quản lý các khoản chi là trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đơn vị và
cá nhân có liên quan đến việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí NSNN.
Công tác kiểm soát, thanh toán, chi trả các khoản chi NSNN của KBNN là
khâu cuối cùng để hoàn thành qui trình kiểm soát chi NSNN. Đây là công
việc đầy khó khăn, phức tạp, động chạm đến ý thức, trách nhiệm, quyền lợi,
nghĩa vụ của các ngành, các cấp, các đơn vị…Vì vậy, ngay từ khi triển khai
thực hiện, KBNN Tiền Giang gặp không ít khó khăn như: Khó khăn từ phía
các ĐVSDNS: do thói quen sử dụng, chi tiêu NSNN khi chưa có luật; khó
khăn do cơ chế, chính sách mới thiếu thống nhất, đồng bộ; khó khăn về
trình độ năng lực công tác của cán bộ do bước đầu triển khai thực hiện…
Tuy nhiên với ý thức trách nhiệm, với tinh thần kiên trì phấn đấu thực hiện
38
những qui định của Luật NSNN nên trong thời gian qua đã đạt được một số
kết quả như sau:
- Thông qua công tác kiểm soát chi NSNN, các ngành, các cấp, các
ĐVSDNS đã từng bước chấp hành các qui định của Luật NS, nâng cao ý
thức quản lý, sử dụng tiết kiệm có hiệu quả, chấp hành cơ chế quản lý tài
chính, chi tiêu NSNN, góp phần thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng,
phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…
- Cơ chế kiểm soát chi NSNN qua KBNN đã bước đầu xác định rõ và nêu
cao vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của các CQTC, KBNN và các ĐVSD
NSNN trong quá trình chi tiêu ngân sách nhà nước.
- Cũng qua công tác kiểm soát chi của KBNN đã làm thay đổi căn bản cách
nghĩ, thói quen sử dụng, chi tiêu NSNN khi chưa có Luật: các cấp có thẩm
quyền quan tâm hơn đến công tác phê duyệt và phân bổ dự toán NSNN. Nếu
trước đây việc duyệt phân bổ NSNN chỉ là những con số tổng hợp thì nay
đã đảm bảo dự toán chi tiết đến từng khoản chi cụ thể theo MLNSNN hiện
hành. Việc duyệt và phân bổ NS ngày một tốt hơn về mặt thời gian; các đơn
vị chấp hành tốt hơn công tác quản lý tài chính, đặc biệt là chấp hành biên
chế quỹ lương được duyệt, nguyên tắc đấu thầu khi mua sắm, chấp hành
đúng chế độ, hoá đơn chứng từ, giảm hẳn tình trạng chi tiêu lãng phí, tuỳ
tiện sai chế độ. Thủ trưởng ĐVSDNS với tư cách là người chuẩn chi đã
thấy được trách nhiệm của mình khi quyết định chi tiêu.
Về phía CQTC đã chủ động hơn trong việc điều hành NSNN, giảm
bớt tình trạng căng thẳng giả tạo cho NS, tồn quỹ NS các cấp luôn đảm bảo,
chủ động đáp ứng các nhu cầu chi thường xuyên cũng như đột xuất. Đã từng
bước ngăn chặn tình trạng rút chạy kinh phí cuối năm của các ĐVSDNS,
dẫn đến kết quả là các đơn vị buộc phải chi tiêu theo kế hoạch, dự toán được
duyệt trong năm, không thể để dồn kinh phí chi tiêu vào những tháng cuối
năm.
Phương thức cấp phát NS theo dự toán được giao thay cho phương
39
thức cấp phát bằng HMKP trước đó đã tạo quyền chủ động, tăng cường
quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN và của cả
các cơ quan quản lý NSNN, việc kiểm soát chi của KBNN cũng được thông
thoáng hơn.
Phương thức cấp phát này đã xoá đi sự chồng chéo, trùng lắp giữa
CQTC với KBNN và cả việc đơn giản hoá thủ tục hành chính trong việc
làm thủ tục cấp thông báo HMKP của CQTC cho các đơn vị sử dụng
NSNN. KBNN muốn xuất quỹ NS thì điều đầu tiên đơn vị phải có dự toán
năm được giao, việc quản lý dự toán được thực hiện ở 4 nhóm mục đối với
đơn vị không thực hiện chế độ tự chủ và ở một nhóm mục đối với đơn vị
thực hiện chế độ tự chủ từ năm 2004 đến 2007 đến 2008 tất cả đều thực hiện
ở một nhóm mục. Điều này phù hợp với trình độ lập dự toán cũng như thực
hiện dự toán ở nước ta hiện nay ngoài ra còn là điều kiện tăng quyền chủ
động cho các ĐVSDNS trong việc được điều hòa các mục chi trong cùng
một nhóm. Về phía KBNN cũng giảm đáng kể khối lượng công việc như
không còn tình trạng nhập thông báo HMKP, nhập và chuyển phân phối
HMKP như trước và nhất là việc kiểm soát dự toán đã trở thành công việc
cực kỳ quan trọng của KBNN bởi lẽ việc để cho đơn vị rút NS vượt dự toán
năm được giao thì ngoài trách nhiệm của ĐVSDNS còn là trách nhiệm hết
sức nặng nề của KBNN phải tìm kiếm và hoàn trả NS khoản chi vượt này.
Đồng thời cũng qua công tác kiểm soát chi, KBNN đã góp phần quản lý chi
tiền mặt, quản lý phương tiện thanh toán, tăng cường sử dụng các hình thức
thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán trực tiếp đến người cung cấp
hàng hoá dịch vụ, thực hiện thanh toán lương và các khoản thanh toán cá
nhân qua tài khoản. Góp phần làm lành mạnh hoá hoạt động tiền tệ- thanh
toán. Cụ thể đến tháng 12/2008 đã có 260/592 đơn vị sử dụng NSNN thực
hiện thanh toán lương bằng chuyển khoản qua thể ATM và hầu hết các
khoản thanh toán cung cấp hàng hoá dịch vụ được thực hiện chuyển khoản
trực tiếp cho nhà cung cấp. Đồng thời hạn chế việc chạy kinh phí cuối năm
40
của các ĐVSD NSNN. Cũng thông qua công tác kiểm soát chi NSNN,
KBNN đã ngăn chặn kịp thời và từ chối thanh toán các khoản chi không đủ
điều kiện, không đúng chế độ qui định.
- Với mục đích trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho cơ quan
HCNN và đơn vị SN công tổ chức công việc, sử dụng lao động và các
nguồn lực tài chính. Thủ trưởng đơn vị chủ động quyết định các khoản chi
tiêu nội bộ trên cơ sở chế độ, định mức được cấp có thẩm quyền quyết định,
đồng thời khoán chi nội bộ đến từng phòng, ban của cơ quan nhằm nâng cao
ý thức tiết kiệm của từng CBCC góp phần thực hiện tốt Pháp lệnh thực hành
tiết kiệm chống lãng phí, chống tham nhũng.
Cơ quan KBNN thực hiện cấp phát ở một nhóm mục, đơn vị chủ
động điều hành chi theo nhu cầu thực tế của đơn vị, số kinh phí trong năm
sử dụng không hết được chuyển sang năm sau, tránh được việc đề nghị điều
chỉnh nhóm mục và sử dụng kinh phí thiết thực, tiết kiệm, có hiệu quả.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cơ chế kiểm soát chi NSNN qua
KBNN theo Luật NSNN đã bộc lộ những tồn tại và bất cập.
2.8. Những hạn chế tồn tại:
2.8.1.Cơ chế cấp phát theo dự toán:
Tổng thời gian làm dự toán không đủ dài để đảm bảo ngày 1/1 hàng năm
có dự toán cho các đơn vị thực hiện
Thẩm tra dự toán được giao của cơ quan Tài chính là công việc của
CQTC xem xét, tính toán lại phương án phân bổ DTNS của cơ quan HCNN
và đơn vị dự toán cấp I cho các ĐVSDNS trực thuộc.
° Mục tiêu của thẩm tra dự toán là kiểm tra lại phương án phân bổ dự toán
của đơn vị có đúng theo những nguyên tắc phân bổ của NS hay không.
° Nguyên tắc phân bổ dự toán của các cơ quan HCNN, đơn vị bao gồm:
- Phải đảm bảo bố trí vốn, kinh phí cho các dự án, nhiệm vụ đã được
chi ứng trước dự toán;
- Phải phân bổ hết NS được giao. Trường hợp có các nhiệm vụ chi
41
chưa xác định được rõ đơn vị thực hiện trong dự toán đầu năm thì được giữ
lại để phân bổ sau, khi phân bổ cũng phải thực hiện đúng theo quy trình
phân bổ dự toán, tức là cũng phải gửi cho CQTC đồng cấp để thẩm tra.
° Nội dung thẩm định dự toán của cơ quan Tài chính gồm:
- Thẩm tra tính chính xác giữa phân bổ của cơ quan, đơn vị đến
ĐVSDNS với nội dung dự toán do cơ quan có thẩm quyền giao;
- Bảo đảm đúng chính sách, chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi NS;
- Qua thẩm tra, nếu phát hiện phương án phân bổ không đảm bảo các
yêu cầu trên thì CQTC yêu cầu cơ quan phân bổ điều chỉnh lại. Trường hợp
cơ quan, đơn vị phân bổ NS không thống nhất với yêu cầu điều chỉnh của
CQTC thì báo cáo TTCP (đối với các cơ quan, đơn vị TW), UBND(đối với
cơ quan, đơn vị địa phương) để xem xét quyết định.
Trong phạm vi 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được phương án
phân bổ DTNS, CQTC phải thẩm tra và có thông báo bằng văn bản về kết
quả thẩm tra đến cơ quan, đơn vị phân bổ NS. Trường hợp các Bộ, Tổng cục
được tổ chức theo ngành dọc, chỉ phân bổ và giao dự toán đến đơn vị dự
toán cấp II thì vẫn phải tổng hợp toàn bộ phương án phân bổ đến ĐVSDNS
gửi BTC, BTC thực hiện thẩm tra và thông báo bằng văn bản đến cơ quan,
đơn vị phân bổ ngân sách.
Sau khi phương án phân bổ ngân sách được CQTC thống nhất, thủ
trưởng cơ quan, đơn vị phân bổ NS quyết định giao DTNS cho các đơn vị
trực thuộc, đồng gửi CQTC, KBNN cùng cấp và KBNN nơi giao dịch để
phối hợp thực hiện.
Về thẩm tra dự toán và thời hạn thẩm tra như trên trong thực tế còn khá
nhiều tồn tại cần được khắc phục để đảm bảo dự toán sau khi được cơ quan
có thẩm quyền giao thì ĐVSDNS thực hiện ngay được dự toán của mình.
Luật qui định là ngày 01 tháng 01 hàng năm, các ĐVSD NSNN phải có dự
toán NSNN gởi KBNN để có căn cứ kiểm soát và cấp phát. Nhưng trên thực
tế đến hết tháng 1 còn rất nhiều đơn vị chưa có dự toán chính thức được
42
duyệt gởi Kho bạc. Do vậy KBNN thường cấp phát ở dạng tạm ứng dự toán
nên đã tăng thêm khối lượng công việc cho KBNN là phải thực hiện điều
chỉnh khi có dự toán chính thức được duyệt.
2.8.2.Kiểm soát điều kiện đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi của Nhà
nước:
Luật ngân sách cũng quy định trách nhiệm của KBNN trong việc
thanh toán hoặc từ chối thanh toán các khoản chi NSNN trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ kiểm soát chi NS của mình. Để thực hiện kiểm soát điều
kiện này, từ đầu năm 2004 KBNN Tiền Giang thực hiện kiểm soát trên từng
hồ sơ, tài liệu chứng từ của đơn vị sử dụng NS một khi thanh toán qua
KBNN, như vậy mới đảm bảo thực chất của sự kiểm soát. Qua đó, trước hết
tự bản thân các ĐVSDNS cũng đã thực hiện nghiêm tính chấp hành chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi tiêu của mình, nếu không thì KBNN không chấp
nhận thanh toán.Tuy nhiên cũng cần làm rõ một số nội dung qua việc kiểm
soát chi như sau:
- ĐVSDNS phải chứng minh với KBNN là người được Nhà nước giao
nhiệm vụ kiểm soát chi về tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ tài liệu và
tính chấp hành chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu:
Nhiều ĐVSDNS trong quá trình được kiểm soát chi và cả KBNN
cũng cho rằng để thực hiện kiểm soát chi các điều kiện này thì người cán bộ
của KBNN phải am tường tất cả các chế độ chi tiêu của từng đơn vị, từng
ngành, từng lĩnh vực một. Tại văn phòng KBNN Tiền Giang tính đến thời
điểm năm 2006 có 222/227 đơn vị thực hiện chế độ tự chủ theo Nghị định
130 và 139 đơn vị thực hiện tự chủ theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP; 2 đơn
vị thực hiện tự chủ theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP. Như vậy, chỉ riêng
văn phòng KBNN Tiền Giang đã có tổng số 368 đơn vị với 368 chế độ chi
tiêu khác nhau mà văn phòng KBNN Tiền Giang phải kiểm soát. Đây là yêu
cầu quá cao, song không phải như thế mà cán bộ KBNN không được yêu
cầu các đơn vị phải có văn bản tài liệu chứng minh với KBNN tính đúng
43
đắn của khoản chi do đơn vị quyết định.
- Trong tổ chức thực hiện KBNN không phải kiểm soát đến tận cùng của
từng chứng từ ban đầu của tất cả các khoản chi NSNN:
Để đảm bảo điều kiện đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi không
có cách nào khác là KBNN phải kiểm tra, kiểm soát thực tế chi tiêu của đơn
vị có đúng chế độ không. Tuy nhiên, cần xem xét mức độ kiểm soát của
KBNN đến đâu, đến cấp chứng từ, tài liệu nào mà vẫn đảm bảo được yêu
cầu, nếu không mọi khoản chi đều được kiểm soát đến tận cùng của từng
chứng từ ban đầu thì không phải là nhiệm vụ của KBNN trong kiểm soát chi
và KBNN cũng không thể làm nỗi với khối lượng kiểm soát đó, hơn nữa
cũng cần xác định rằng việc thực hiện khoản chi có đúng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức hay không thì thủ trưởng và kế toán ĐVSDNS là người ra quyết
định chi và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Do đó, KBNN cần xác
định mức độ kiểm soát của từng nội dung chi cho phù hợp.
2.8.3. Về các văn bản qui phạm pháp luật :
Các thông tư hướng dẫn dưới luật không ban hành kịp thời, có độ trễ quá
lớn ( Luật NSNN ra đời ngày 16/12/2002 nhưng đến 6/6/2003 Nghị định
60/2003/NĐ-CP của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
NSNN và Thông tư 59/2003/TT-BTC ngày 23/6/2003 của Bộ tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định 60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 mới ra đời
và đến 13/8/2003 mới có Thông tư 79/2003/TT-BTC ngày 13/08/2003 của
Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi
NSNN qua KBNN.), hệ thống pháp luật không đồng bộ làm cho những
người thực hiện lúng túng, hoặc còn thiếu nội dung điều chỉnh cũng là một
trong những nguyên nhân làm cho cấp dưới khó triển khai thực hiện. Đương
cử như Thông tư 79/2003/TT-BTC ngày 13/08/2003 của Bộ Tài chính
hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN qua
KBNN ở mục 1.1 “phạm vi áp dụng của thông tư này là các khoản chi của
NSNN; bao gồm các khoản chi thường xuyên; chi sự nghiệp kinh tế; chi
44
chương trình mục tiêu; chi kinh phí uỷ quyền và các khoản chi khác của
NSNN. Thông tư này không áp dụng đối với ngân sách xã;…” nhưng cũng
trong cùng thời gian có công văn số 1189/KB-KHTH ngày 10/9/2003 của
KBNN Trung Ương về việc quản lý ngân sách xã qua KBNN thì lại qui
định “ việc quản lý ngân sách xã và các quỹ tài chính khác của xã qua
KBNN được thực hiện đúng theo các qui định tại thông tư 60/2003/TT-BTC
ngày 23/6/2003 của Bộ tài chính quy định về quản lý NSX và các hoạt động
tài chính khác ở xã; thông tư 79/2003/TT-BTC ngày 13/8/2003; …”.
Thông tư 79/2003/TT-BTC ngày 13/08/2003 của Bộ Tài chính ở
mục 4.5 phần hướng dẫn kiểm soát và lưu giữ chứng từ tại KBNN. Đối với
các khoản thanh toán tạm ứng đối với các khoản chi thường xuyên khác,
đơn vị sử dụng NSNN căn cứ vào chứng từ gốc của từng khoản chi để lập
02 liên “bảng kê chứng từ thanh toán” gửi KBNN. KBNN kiểm tra, kiểm
soát và lưu 01 liên bảng kê chứng từ thanh toán vào hồ sơ kiểm soát chi.
Đơn vị sử dụng NS chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của bảng
kê chứng từ thanh toán. Thế nhưng thông tư 81/2006/TT-BTC ngày
06/09/2006 “Hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp
công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính” thì quy định thanh toán tạm ứng đối
với các khoản chi thường xuyên khác là: ngoài bảng kê thanh toán có đầy đủ
chữ ký của thủ trưởng, kế toán trưởng hoặc người được uỷ quyền còn có các
hồ sơ , chứng từ khác có liên quan. Ở đây có sự mâu thuẩn giữa đơn vị
khoán chi và không khoán chi là đơn vị được giao quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm thì KBNN lại kiểm soát chặt chẽ đến từng chứng từ trong khi
đó các đơn vị không được giao quyền tự chủ thì lại kiểm soát theo thông tư
79 là chỉ kiểm bảng kê, đơn vị phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của
bảng kê.
Tiền Giang là tỉnh nguồn thu không đáp ứng nhu cầu chi, phải nhận
trợ cấp của ngân sách cấp trên hàng năm, vì vậy tồn quỹ NS rất căng thẳng
45
nên khi các đơn vị có nhu cầu chi nhưng NS không đáp ứng kịp, do đó buộc
các đơn vị phải mượn tạm các nguồn tiền khác của đơn vị để chi như mua
sắm tài sản, thanh toán hàng hoá, dịch vụ công cộng…khi có tồn quỹ NS thì
đơn vị đòi rút tiền mặt để trả lại các nguồn tiền khác hoặc yêu cầu Kho bạc
chuyển vào tài khoản tiền gửi của đơn vị nhưng các yêu cầu này đều vi
phạm quy chế về quản lý tiền mặt và quy định không được phép chuyển tiền
vào tài khoản tiền gửi của đơn vị. Điều này dẫn tới Kho bạc rất lúng túng
trong việc xử lý những trường hợp này.
2.8.4. Hồ sơ chứng từ chi:
Đối với các khoản chi thuộc lĩnh vực nghiệp vụ chuyên môn:
Hiện nay cung cấp hồ sơ, tài liệu vẫn còn nhiều bất cập. Một mặt
do cơ quan kiểm soát chi chưa thể có trình độ chuyên môn sâu để hiểu rõ
nội hàm chi của các lĩnh vực, mặt khác cơ chế các lĩnh vực, ngành, nghề
còn thay đổi thường xuyên nên khối lượng công việc xử lý các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh ở KBNN Tiền Giang cũng như các KBNN không cho phép
kiểm soát chặt chẽ và toàn diện các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn.
Đối với các khoản chi thường xuyên khác: nhiều đơn vị chưa thực
hiện đúng chế độ hoá đơn chứng từ, còn sửa chữa, tẩy xoá trên các chứng từ
chi, nhiều khoản chi thiếu hoá đơn chứng từ hợp lệ. Nhiều đơn vị thực hiện
tạm ứng cho cá nhân, tập thể, sai chế độ như: thời gian tạm ứng kéo dài,
không thu hồi, không thực hiện hạch toán các khoản tạm ứng trên sổ sách
chứng từ kế toán theo chế độ qui định. Thực hiện thanh toán chi tiêu tiền
mặt tràn lan, chưa có ý thức áp dụng các hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt…
2.8.5. Về hình thức cấp phát:
Về nguyên tắc, cấp phát NSNN bằng lệnh chi tiền chỉ nên áp dụng
đối với các khoản chi đột xuất không kế hoạch hoá được (nằm ngoài dự toán
chi) hoặc áp dụng đối với những đơn vị ít có quan hệ với NSNN. Nhưng
trong cả một thời gian khá dài hình thức cấp phát này được áp dụng cho hầu
hết các dự án ĐTXDCB và các chương trình mục tiêu.
46
Hình thức ghi thu- ghi chi không phản ảnh kịp thời vào NSNN, bỏ
qua sự kiểm soát của KBNN. Hầu hết thực hiện vào thời điểm cuối năm làm
tăng khối lượng công việc ở thời điểm này và hiệu quả kiểm soát chi không
cao.
Trong thời kỳ hiện nay với xu hướng phân công nhiệm vụ rõ ràng,
chuẩn hoá qui trình NS, điều hành NS theo luật; đặc biệt là để phù hợp với
những chuẩn mực quản lý của nhà nước trong khu vực thì phạm vi áp dụng
các hình thức cấp phát trên cũng cần phải đánh giá lại và sửa đổi.
2.8.6. Về phương thức cấp phát: Hiện tại KBNN cấp tạm ứng cho
ĐVSDNS chi tiết theo từng mục. Điều này gây khó khăn cho ĐVSDNS và
tăng thêm khối lượng công việc cho KBNN khi thực hiện thanh toán do phải
điều chỉnh mục đã tạm ứng nhưng vì lý do nào đó nên chưa có nhu cầu chi.
2.8.7.Về phương thức kiểm soát chi ngân sách:
Hiện nay chúng ta chủ yếu thực hiện kiểm soát chi theo đầu vào,
có nghĩa là về nguyên tắc, KBNN chịu trách nhiệm kiểm soát từng khoản
chi của ĐVSD NSNN chuẩn chi đúng tiêu chuẩn chế độ và đối với những
khoản chi phải đấu thầu hoặc chi đầu tư thì phải tuân thủ các nguyên tắc về
đấu thầu và thủ tục chi ĐTXDCB. Trong điều kiện của chúng ta hiện nay thì
công tác kiểm soát chi theo đầu vào sẽ bị hạn chế hiệu quả bởi một số vấn
đề sau đây:
Vấn đề đầu tiên là các khoản chi phải có trong dự toán được duyệt.
Nhưng trên thực tế dự toán được duyệt của các đơn vị thường rất chậm, do
vậy thường xuyên đầu năm thường ở dạng tạm cấp. Hơn nữa chất lượng dự
toán như đã nêu trên chưa đạt yêu cầu quản lý, tình trạng điều chỉnh dự toán
chi khá phổ biến ở các cấp ngân sách.
Vấn đề thứ hai là các khoản chi phải đảm bảo tiêu chuẩn định
mức, chế độ do nhà nước qui định. Nhưng trên thực tế hiện nay hệ thống
các định mức của nước ta còn bất cập. Từ đó dẫn đến tình trạng các đơn vị
sử
dụng ngân sách đối phó bằng cách phải chế biến số liệu.
47
Chính vì các lý do trên mà hiệu quả của kiểm soát chi rất hạn chế,
ở một giác độ nào đó thì có thể nói rằng chúng ta mới chỉ thực hiện được
việc kiểm soát tính hợp pháp về thủ tục hồ sơ đó là việc chuẩn chi của thủ
trưởng đơn vị.
2.8.8.Tổ chức công tác kế toán chi ngân sách
Tổ chức công tác kế toán chi NS nói riêng và kế toán NSNN nói
chung còn trùng lắp, chưa thống nhất về chỉ tiêu quản lý.
Kế toán chi NSNN hiện nay được ba đầu mối theo dõi, hạch toán,
đó là: CQTC, KBNN, đơn vị thụ hưởng Ngân sách nhà nước.
CQTC hạch toán chi NSNN theo một chế độ hạch toán riêng theo
nguyên tắc ghi sổ đơn. Chính vì vậy số liệu của CQTC mang tính chất thống
kê hết sức rõ nét. Tiêu thức thống kê là luỹ kế theo mục lục ngân sách.
Cơ quan KBNN hạch toán chi theo nguyên tắc ghi sổ kép, theo
một chế độ kế toán riêng, có theo dõi chi tiết theo MLNS do BTC ban hành.
Đơn vị HCSN thực hiện kế toán theo chế độ kế toán đơn vị hành
chính sự nghiệp do Bộ trưởng BTC ban hành và cũng theo dõi các khoản
chi tiêu cuả mình theo mục lục ngân sách.
Ba chế độ hạch toán kế toán riêng biệt do ba đầu mối thực hiện,
đương nhiên khó có sự tương đồng, đặc biệt trong điều kiện các chuẩn mực
về kế toán chi tiêu công cộng chưa được nghiên cứu và áp dụng. Đây là một
trong những tồn tại gây cản trở khá lớn cho công tác quản lý và điều hành
cũng như sẽ là cản trở lớn nhất nếu muốn áp dụng công nghệ thông tin vào
công tác quản lý ngân sách nhà nước trên diện rộng.
2.8.9.Công tác quyết toán chi ngân sách nhà nước:
Nguyên tắc, số liệu về chi NSNN trên sổ sách kế toán của đơn vị
phải đảm bảo cân đối và khớp đúng với số liệu của KBNN kể cả về tổng số
và chi tiết và số liệu đó phải được xác nhận trước khi trình CQTC duyệt
quyết toán, nhưng do dự toán kinh phí được phân phối theo nhóm mục, khi
thực hiện chi, số liệu của đơn vị nếu có chênh lệch với KBNN không thể
48
nào phát hiện được, đến khi CQTC quyết toán cho đơn vị mới phát hiện.
Mặt khác, khi thực hiện quyết toán cho đơn vị, có những khoản chi CQTC
không thống nhất với KBNN về MLNSNN hoặc chế độ tiêu chuẩn, đinh
mức chi tiêu. Theo nguyên tắc thì CQTC lập phiếu báo điều chỉnh gửi đến
KBNN hoặc yêu cầu đơn vị đến KBNN nơi giao dịch thực hiện điều chỉnh.
Nhưng thực tế không có sự kết hợp này nên chính vì vậy mà số liệu của
KBNN với số liệu của đơn vị chỉ khớp nhau về tổng số, không khớp nhau số
chi tiết. Bên cạnh đó, KBNN là cơ quan trực tiếp cấp phát, thanh toán các
khoản chi NSNN cho các đơn vị hành chính sự nghiệp nhưng KBNN chưa
được tham gia thẩm tra quyết toán NS đối với các đơn vị, tách biệt các khâu
kiểm soát trước, trong và sau. Do đó đã hạn chế hiệu quả công tác kiểm soát
chi của Kho bạc nhà nước.
Tình trạng trên là hệ quả mang tính dây chuyền của hàng loạt
những tồn tại, vướng mắc trong công tác quản lý chi NSNN, trước hết là
chất lượng của công tác lập, duyệt, phân bổ dự toán chưa đồng bộ và chưa
sát với nhu cầu chi tiêu của đơn vị thụ hưởng NSNN. Chế độ kế toán nhà
nước chưa được ban hành, cả ba đầu mối đều hạch toán chi NSNN nhưng
chỉ tiêu và tiêu thức hạch toán cũng như thống kê báo cáo chưa có tính đồng
bộ; đồng thời công tác quyết toán NSNN chỉ mang tính hình thức. Tính hình
thức ở đây thể hiện rõ ở chỗ việc cơ quan chủ quản cấp trên, hoặc CQTC
duyệt quyết toán chi của đơn vị thực chất mới chỉ dừng lại ở giác độ kiểm
tra những tiêu thức tổng hợp về nguồn kinh phí đã nhận, một số khoản chi
tiêu lớn, chưa kiểm tra được toàn bộ các khoản chi tiêu của đơn vị.
Vai trò của cơ quan kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước trong
việc kiểm toán các báo cáo tài chính của đơn vị HCSN hầu như chưa được
nhắc đến. Chính vì vậy tính chính xác, trung thực của báo cáo tài chính chưa
có độ tin cậy cần thiết.
2.8.10.Việc phân định trách nhiệm giữa KBNN với các cơ quan tài chính
và giữa KBNN với các đơn vị sử dụng ngân sách chưa rõ ràng:
49
Phân định trách nhiệm giữa người chuẩn chi và người kiểm soát
chi, xét trên giác độ quản lý thì việc phân định rõ ràng trách nhiệm pháp lý
giữa người chuẩn chi và người kiểm soát chi là vấn đề hết sức trọng yếu
trong công tác kiểm soát chi NSNN. Nhờ đó mà giúp cho người kiểm soát
chi cũng như người chuẩn chi nắm rõ phạm vi, quyền hạn cũng như trách
nhiệm pháp lý của họ trong việc thực hiện chi công việc của mình, qua đó
công việc được tiến hành một cách trôi chảy hơn dựa trên nguyên tắc hết
sức rõ ràng và minh bạch. Nguyên tắc phân định trách nhiệm pháp lý này
phải được tôn trọng và thể chế hoá thành luật.
Trên thực tế, hiện nay vấn đề này đã bắt đầu chú ý, tuy nhiên chưa
được giải quyết một cách thỏa đáng. Các qui định về trách nhiệm của các
bên tham gia vào quản lý chi NSNN chỉ mới được đề cập đến với mức độ
rất chung, không rõ ràng. Trong các văn bản không hề chỉ ra những sai
phạm nào thuộc trách nhiệm của người chuẩn chi, những sai phạm nào
thuộc người kiểm soát chi, những sai phạm nào thuộc cơ quan quản lý cấp
trên. Chính vì vậy, việc xác định những sai phạm trong quản lý chi NSNN
hiện nay là không rõ ràng, kéo theo việc xác định trách nhiệm vật chất trước
những sai phạm, đó cũng hết khó khăn.
2.8.11. Quản lý ngân sách xã theo dự toán:
Ngân sách xã (NSX), phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách xã), là
một bộ phận của NSNN thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật NSNN, NSX có
những điểm khác với ngân sách các cấp:
- NSX vừa là một cấp NS, vừa là một đơn vị dự toán của NSX. NSX vừa là
kế toán quỹ NSX vừa là kế toán chi tiêu cho các đơn vị dự toán. Thực chất
mọi khoản chi NSX, xã là chủ thể sử dụng trực tiếp và không có nhiệm vụ
phân bổ dự toán như các cấp NS khác. Mọi khoản thu – chi và thanh toán
các khoản cho người thụ hưởng đều do Chủ tịch UBND xã quyết định.
- Toàn bộ các khoản chi của NSX đều liên quan đến lợi ích của xã. Các
khoản chi của NSX đều nhằm thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp xã
50
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình theo qui định của pháp luật.
Toàn bộ các khoản chi của NSX đều có tác động trực tiếp đến đời sống kinh
tế- xã hội ở xã.
- Qui mô của các khoản chi thường xuyên tương đối nhỏ, tính chất đơn giản
như: Chi cho quản lý bộ máy; chi hoạt động xã hội và hoạt động VHTT, hỗ
trợ kinh phí cho giáo dục, y tế; công tác dân quân tự vệ đảm bảo an toàn trật
tự; chi hoạt động của các cơ quan Đảng, và các tổ chức chính trị - xã hội;
các khoản chi khác theo quy định của pháp luật…
- Nhiệm vụ chi đầu tư phát triển không lớn và cũng không thường xuyên
như: chi ĐTXD các dự án có mức vốn đầu tư nhỏ đã được thông qua HĐND
xã; chi đầu tư sửa chữa các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cấp xã
từ nguồn huy động, đóng góp của các tổ chức, cá nhân theo quy định của
pháp luật…
- Việc chấp hành NS, thanh và quyết toán do một đơn vị duy nhất đó là Ban
tài chính xã thực hiện mà không thông qua các đơn vị trung gian.
Dự toán NSX là cơ sở để tổ chức, thực hiện chi NS hiệu quả. Tuy
nhiên, trong thực tế trình độ xây dựng dự toán của các đơn vị sử dụng NS
chưa cao, chưa phản ánh được đến chi tiết từng mục chi nên quá trình thực
hiện thường xảy ra tình trạng thừa, thiếu phải bổ sung, điều chỉnh.
Dự toán NSX là căn cứ pháp lý để UBND xã tổ chức thực hiện trong
một năm NS, do đó đòi hỏi công tác lập dự toán phải chính xác, có chất
lượng. Nhưng trong thực tế, chất lượng dự toán chưa cao, ít tính thuyết phục
do việc lập dự toán chưa tính toán cụ thể trên chế độ định mức tiêu chuẩn,
chưa bao quát hết nhiệm vụ của NS cấp mình đảm nhận, chưa dự báo được
sự tăng trưởng kinh tế xã hội. Việc điều chỉnh dự toán hoặc bổ sung dự toán
thường xuyên xảy ra làm tăng khối lượng công việc của xã cũng như
KBNN, gây không ít khó khăn cho KBNN trong quản lý và kiểm soát chi
NSNN cấp xã.
Về hình thức cấp phát NSX: Hiện nay NSX sử dụng hình thức cấp
51
phát bằng dự toán nhưng sử dụng mẫu biểu là lệnh chi tiền, dẫn đến tình
trạng không thống nhất về mặt hình thức. Xã là một cấp NS nhưng đồng
thời là đơn vị thụ hưởng NSX duy nhất, nên Chủ tịch UBND xã (chủ tài
khoản) không phải cấp phát (tiền NS) cho cơ quan đơn vị nào khác sử dụng
ngoài UBND xã.
Sử dụng lệnh chi tiền nhưng hệ thống tài khoản áp dụng là chi thường
xuyên dự toán NSX (thanh toán: TK 331.01, tạm ứng 331.11), dẫn đến
không đồng nhất về phương pháp hạch toán.
Về cơ chế, cấp phát bằng lệnh chi tiền CQTC chịu trách nhiệm kiểm
soát, KBNN là người thực hiện chi NS. Nhưng với cơ chế chi bằng hình
thức dự toán, sử dụng mẫu biểu là lệnh chi tiền nên KBNN vẫn thực hiện
kiểm soát chi dẫn đến không đồng nhất về mặt cơ chế kiểm soát.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Ở chương 2 đề tài đã khái quát qua bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang, tổ chức bộ máy Kho Bạc Nhà Nước đóng trên địa bàn. Các qui
định, quy trình, thủ tục, điều kiện kiểm soát chi thường xuyên đối với từng
khoản mục chi cụ thể Kho Bạc Nhà Nước hiện đang áp dụng. Qua đó, đánh
giá những kết quả đạt được bên cạnh những tồn tại cần khắc phục cải tiến
nhằm từng bước hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên qua Kho
Bạc Nhà Nước.
52
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG
XUYÊN QUA KBNN TỈNH TIỀN GIANG
Kiểm soát chi ngày nay gắn liền với vai trò của KBNN, tính hiệu quả
của công tác này gắn liền với tính hiệu quả của việc sử dụng NS.Cơ chế
quản lý và kiểm soát chi NSNN hiện hành tuy đã được bổ sung, sửa đổi
nhưng vẫn còn những tồn tại, làm hạn chế kết quả hoạt động của NSNN và
tạo ra tình trạng lỏng lẻo, phá vỡ kỷ luật, kỷ cương tài chính. Do đó, cơ chế
quản lý NSNN, đặc biệt là cơ chế kiểm soát chi NSNN nhất thiết phải được
đổi mới để phù hợp với tình hình mới.
3.1. Phương hướng và mục tiêu hoàn thiện:
3.1. 1. Phương hướng:
- Triệt để thực hiện phương thức cấp phát theo dự toán được duyệt, tiến tới
tất cả các khoản chi của NSNN đều được cấp theo dự toán. Đồng thời, mở
rộng phạm vi, đối tượng thực hiện phương thức cấp phát NSNN theo dự
toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; phương thức quản lý và kiểm
soát chi NSNN đối với đơn vị thực hiện khoán biên chế và chi phí QLHC;
đơn vị SN có thu; quản lý cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra của công
việc,…Sự kết hợp giữa cấp phát, kiểm soát chi theo dự toán và khoán chi sẽ
ngày càng nhuần nhuyễn hơn, tạo cơ chế quản lý NSNN theo kết quả đầu ra,
thay vì quản lý theo đầu vào như hiện nay.
- Tăng cường vai trò của KBNN trong quản lý NSNN, đặc biệt là quản lý
cấp phát và thanh toán các khoản chi NSNN nhằm thực hiện tiết kiệm, hiệu
quả và chống lãng phí.
- Quản lý hiệu quả vốn NSNN phải đi đôi với cải cách hành chính, thực
hiện công khai, minh bạch trong điều hành NSNN.
- Phát huy cao độ quyền hạn, trách nhiệm và tính sáng tạo của KBNN địa
phương trong quản lý NSNN một cách toàn diện.
3.1.2. Mục tiêu:
- Phải đảm bảo tính bao quát về phạm vi, đối tượng và mức độ kiểm soát
53
chi theo đúng tinh thần của Luật NSNN, đảm bảo tất cả các khoản chi của
NSNN đều được kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ qua hệ thống
KBNN. Ngoài ra, cơ chế cấp phát và kiểm soát chi NSNN mới cũng phải
phù hợp với xu hướng cải cách hành chính trong quản lý chi NSNN và phù
hợp với các phương thức cấp phát ngân sách mới như khoán chi hành chính,
cơ chế tài chính áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp có thu,…
- Bảo đảm sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tiền của Nhà nước. Vì vậy cơ
chế cấp phát và kiểm soát chi NSNN mới phải đạt được mục tiêu cấp đúng,
cấp đủ, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng để góp phần loại bỏ tiêu cực, chống
tham ô, tham nhũng, chống phiền hà, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Cần làm cho các cơ quan, ĐVSD NSNN thấy được quyền và nghĩa vụ
trong việc quản lý, sử dụng kinh phí NS cấp đúng mục đích, đúng luật pháp
và có hiệu quả. Đặc biệt là phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người
chuẩn chi và KBNN.
- Xây dựng mối quan hệ tối ưu giữa cơ quan Tài chính và KBNN trong quản
lý vốn cấp phát và kiểm soát thanh toán của NSNN.
- Quy trình thủ tục kiểm soát chi NSNN phải đảm bảo khoa học, đơn giản,
rõ ràng, công khai và minh bạch, thuận lợi cho người kiểm soát, người được
kiểm soát; đồng thời phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu quản lý.
Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, cần có giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý cấp phát và kiểm soát chi phù hợp theo từng giai đoạn phát triển đất
nước.
3.2.Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cấp phát và kiểm
soát chi:
3.2.1. Các giải pháp chung:
Trong điều kiện nước ta, nguồn lực tài chính cho phát triển KT-
XH còn hạn chế thì vấn đề hiệu quả của chi NS có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Với một chính sách phân bổ NS được cho là hợp lý thì hiệu quả của
chi NS được quyết định bởi cơ chế quản lý chi NS trong giai đoạn 2001-
2010 phải đạt được các mục tiêu và yêu cầu chủ yếu sau đây:
54
Một là, xây dựng một dự toán chi NS toàn diện, chi tiết đúng
MLNS hiện hành, đảm bảo tài chính cho các bộ ngành, ĐP, thực hiện các
nhiệm vụ phù hợp với định hướng phát triển KT-XH trong năm kế hoạch.
Thực hiện việc quản lý và điều hành NSNN theo dự toán và phải coi dự toán
là một đạo luật và chính phủ, bộ, ngành, cá nhân có trách nhiệm thi hành.
Hai là, thiết lập qui trình chuẩn bị, chấp hành và quyết toán NS
tuân thủ các nguyên tắc và trình tự nghiêm ngặt đảm bảo việc kiểm tra,
kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý chi NS
cũng như nguyên tắc phân định quyền hạn, trách nhiệm giữa các chủ thể
nhằm nâng cao năng lực hiệu quả quản lý chi ngân sách. Xoá bỏ sự can
thiệp quá chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước đối với công
việc của các đơn vị sử dụng ngân sách.
Ba là, thiết lập cơ sở truyền tin thống nhất trong lĩnh vực quản lý
ngân sách trên cơ sở nghiên cứu xây dựng một trung tâm tính toán và lưu dữ
liệu thống nhất trong ngành tài chính. Trong xu hướng phát triển chung của
khu vực và trên thế giới ngày nay, công nghệ thông tin đã, đang và sẽ là một
công cụ đắc lực hữu hiệu, không thể thiếu đối với công tác quản lý KT-XH.
Quản lý chi NS cũng không thể nằm ngoài xu hướng đó. Đây vừa là mục
tiêu, vừa là yêu cầu và cũng là biện pháp nâng cao chất lượng quản lý NS.
Để đạt được các mục tiêu trên, về nguyên tắc quản lý chi ngân
sách sẽ tập trung vào các mặt sau:
Hoàn thiện qui trình lập, phân bổ dự toán phải quán triệt nguyên tắc quản
lý chi theo dự toán, coi dự toán chi NS đã được Quốc hội, HĐND các
cấp phê chuẩn là một đạo luật bắt buột Chính phủ, bộ ngành, ĐP có trách
nhiệm tuân thủ. Dự toán chi NS theo MLNS là giới hạn tối đa đã được
chi về tổng thể và cơ cấu chi. Nguyên tắc này đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt
đối qui định về MLNS trong cả chu trình NS từ khâu lập, chấp hành và
kế toán quyết toán NS. Đồng thời là căn cứ để hoàn thiện các phương
thức cấp phát NS hiện hành. Để đạt được mục tiêu này, BTC cần có
nghiên cứu thống
55
nhất định mức xây dựng NS và định mức chi NS. Hiện nay, chúng ta có hai
hệ thống định mức, một là định mức phân bổ hay định mức xây dựng NS,
hai là định mức chi NS. Thống nhất hai hệ thống định mức này sẽ là điều
kiện quan trọng để cho dự toán phù hợp với nhu cầu chi của đơn vị để tổng
số cũng như cơ cấu chi theo mục; đồng thời khi dự toán được Quốc hội phê
chuẩn thì cũng là lúc dự toán chi tiết của đơn vị được duyệt, đảm bảo ngày
1/1 hàng năm, Kho bạc có dự toán để kiểm soát, đơn vị có dự toán được chi.
Quán triệt nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc và nguyên tắc thanh toán
trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng ngân sách. Nguyên tắc chi trực tiếp qua
Kho bạc khẳng định hai nội dung.
Một là KBNN là cơ quan đầu mối duy nhất được nhà nước giao
nhiệm vụ QLNN về quỹ NSNN, do vậy có nhiệm vụ trực tiếp thanh toán
mọi khoản chi NS. Khẳng định Kho bạc có nhiệm vụ kiểm soát mọi khoản
chi NS trước khi xuất quỹ NS và có quyền từ chối thanh toán đối với các
khoản chi sai chế độ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Hai là Nguyên tắc thanh toán trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng NS
yêu cầu các khoản chi NS phải được thanh toán trực tiếp đến đúng đối
tượng thụ hưởng là những người cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho chính phủ,
bao gồm cả công chức, viên chức hưởng lương từ NS nhằm hạn chế tối đa
thanh toán qua trung gian…Nguyên tắc này thực chất là một phần trong
nguyên tắc chi trực tiếp qua KBNN. Nhưng trong điều kiện ở nước ta hiện
nay tình trạng chi qua khâu trung gian vẫn còn rất phổ biến như chi hoạt
động hành chính…gây tác động tiêu cực đến công tác quản lý tiền mặt và
tạo cơ hội cho những hành vi gian lận, biển thủ công quỹ, do vậy cần nhấn
mạnh nguyên tắc này.
Qui trình kiểm soát chi NS phải đảm bảo phân định trách nhiệm giữa
chuẩn chi và KBNN. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong quản lý tài
chính. Nếu nhìn nhận toàn bộ quốc gia như một thực thể thì trong lĩnh
vực chi tiêu, vai trò thủ trưởng đơn vị để thực hiện hành vi chuẩn chi là
TTCP, các Bộ
56
trưởng, chủ tịch UBND các cấp và những người được uỷ quyền, còn kho
bạc là vai người kế toán có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành
chế độ tài chính, kế toán của người chuẩn chi khi thực hiện chế độ chi tiêu,
kế toán các khoản chi tiêu đó. Do vậy cần phải có nguyên tắc phân định
trách nhiệm giữa chuẩn chi và kế toán để có sự kiểm tra, kiểm soát trong khi
chi ngân sách, không đồng nghĩa với cản trở và bất hợp tác
Cải tiến các phương thức cấp phát NS: để tăng cường tính chủ động của
đơn vị thụ hưởng ngân sách, hạn chế tối đa sự can thiệp không cần thiết
của CQTC vào quá trình chi tiêu của đơn vị, tuân thủ nguyên tắc điều
hành NS theo dự toán đã được Quốc hội, HĐND các cấp phê chuẩn và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN. Khi mà chất lượng của công tác
lập, duyệt và phân bổ ngân sách được ngày một nâng cao sẽ tạo tiền đề
cho việc hoàn thiện các phương thức cấp phát ngân sách cụ thể:
Xoá bỏ dần việc cấp phát NS bằng lệnh chi tiền của CQTC thay đó
là phương thức cấp phát bằng dự toán. Trừ những trường hợp chi đặc biệt
phải
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan Van Thac Si Thao.pdf