Tài liệu Tổng quan về mổ thoát vị bẹn: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 59
TỔNG QUAN VỀ MỔ THOÁT VỊ BẸN
Lê Quang Nghĩa*
MỞ ĐẦU
Mổ thoát vị không vinh quang như cắt đầu
tụy-tá tràng hay ghép tim nhưng trên toàn thế
giới mổ thoát vị bẹn là phẫu thuật phổ biến nhất.
Vì thế hiểu biết chính xác về mổ thoát vị phẫu
thuật viên sẽ đóng góp phục vụ quần chúng
nhiều nhất(11).
THỜI HY LẠP-LA MẢ CỔ
Các tác giả cổ đã bắt đầu viết về thoát vị bẹn
nhưng kiến thức còn hạn hẹp. Galen (130-200) là
phẫu thuật viên cho vỏ sĩ giác đấu làm việc suốt
trong 2 đế chế La Mả điều trị thoát vị bẹn bằng
cách cội túi và cắt tinh hoàn(11).
THỜI TRUNG CỔ
Guy de Chauliac (1298-1368) viết sách điều
trị thoát vị bẹn dựa theo một tác giả nỗi tiếng
thời này là Albucasis (936-1013).
Đa số thầy thuốc thời này không dám mổ
thoát vị bẹn và chỉ dựa vào kỹ thuật đẩy túi thoát
vị lên khi cho bệnh nhân nằm đầu thấp theo chỉ
dẫn của Albucasis(1...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về mổ thoát vị bẹn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 59
TỔNG QUAN VỀ MỔ THOÁT VỊ BẸN
Lê Quang Nghĩa*
MỞ ĐẦU
Mổ thoát vị không vinh quang như cắt đầu
tụy-tá tràng hay ghép tim nhưng trên toàn thế
giới mổ thoát vị bẹn là phẫu thuật phổ biến nhất.
Vì thế hiểu biết chính xác về mổ thoát vị phẫu
thuật viên sẽ đóng góp phục vụ quần chúng
nhiều nhất(11).
THỜI HY LẠP-LA MẢ CỔ
Các tác giả cổ đã bắt đầu viết về thoát vị bẹn
nhưng kiến thức còn hạn hẹp. Galen (130-200) là
phẫu thuật viên cho vỏ sĩ giác đấu làm việc suốt
trong 2 đế chế La Mả điều trị thoát vị bẹn bằng
cách cội túi và cắt tinh hoàn(11).
THỜI TRUNG CỔ
Guy de Chauliac (1298-1368) viết sách điều
trị thoát vị bẹn dựa theo một tác giả nỗi tiếng
thời này là Albucasis (936-1013).
Đa số thầy thuốc thời này không dám mổ
thoát vị bẹn và chỉ dựa vào kỹ thuật đẩy túi thoát
vị lên khi cho bệnh nhân nằm đầu thấp theo chỉ
dẫn của Albucasis(11).
THỜI PHỤC HƯNG
Thời này người ta đã dám mổ thoát vị bẹn
nhời có hiểu biết về giải phẫu học và đã có dụng
cụ mổ. Pierre Franco (ca.1500-1561) viết sách về
thoát vị bẹn. Lần tái bản thứ hai quyển Traité des
hernies Franco mô tả chi tiết triệu chứng, nguyên
nhân và điều trị. Tác giả này cũng là người đầu
tiên dám mổ thoát vị nghẹt gây hoại tử ruột.
Công trình của Franco được Ambroise Pare'
(1510-1590) xuất bản năm 1564. Quan điểm của
Pare' thường nghiêng về điều tị bảo tồn bằng
cách băng chặt vùng bẹn và khuyến cáo tránh cắt
bỏ tinh hoàn(11).
THẾ KỶ 17
Trong thời gian này các phẫu thuật viên mổ
theo kỹ thuật của Franco được mô tả trong
textbook của Pare'. Các tác giả biết bóc tách
thừng tinh và tránh làm hoại tử tinh hoàn.
Francois Poupart (1661-1709) qua nghiên cứu
về giải phẫu học năm 1695 cho thấy tầm quan
trọng của dây chằng bẹn trong bệnh lý thoát
vị(3,4,5).
THẾ KỶ 18
Trong thời gian này có nhiều nghiên cứu về
giải phẫu học vùng bẹn như của Petrus Camper
(1722-1789), Antonio de Gimbernat (1734-1790).
August Gottlieb Richter (1742-1790) viết 2 quyển
sách về thoát vị vào năm 1777-1779 lần đầu tiên
mô tả thoát vị nghẹt hoại tử ruột.
Nói chung thời kỳ này mổ thoát vị thường bị
chảy máu và nhiễm trùng. Tinh hoàn thường bị
hoại tử hoặc bị teo(6,7).
THẾ KỶ 19
Vào thế kỷ 19 có nhiều nghiên cứu về các cấu
trúc giải phẫu học vùng bẹn và nhiều tên còn giữ
đến ngày nay như Antonio Scarpa (1752-1832),
Franz Kaspar Hesselbach (1759-1816), Thomas
Morton (1813-1849), Alexander Thomson. Scarpa
mô tả cấu trúc của thoát vị trượt(6,7).
Một nhà giải phẫu cùng lúc là phẫu thuật
viên người Anh nỗi tiếng là Sir Astley Paston
Cooper (1768-1841) đã mô tả dây chằng Cooper
và mạc ngang rất quan trọng trong sinh bệnh
học của thoát vị bẹn trực tiếp(8,9).
Giữa thế kỷ 19 tiến bộ của gây mê và kỹ
thuật vô trùng đã giúp một phẫu thuật viên
người Ý Eduardo Bassini (1844-1924) khoảng
1884 mô tả kỹ thuật phục hồi thành bẹn bằng
cách khâu cân cơ kết hợp (conjoined tendon) với
* Khoa Tổng Quát 4, BV Bình Dân.
Tác giả liên lạc: GS.Lê Quang Nghĩa ĐT: 0903953232 Email: prof.lequangnghia@gmail.com
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 60
dây chằng Poupart. Kết quả rất ngoạn mục và tỷ
lệ nhiễm trùng chỉ có 4%(10,11).
Năm 1890 Bassini viết một sách tham khảo
với nhiều hình minh họa giúp ông nỗi danh
khắp thế giới(1,13).
Cùng thời gian này, một phẫu thuật viên
người Mỹ là Henry Orlando Marcy (1837-1924)
mô tả kỹ thuật cột cao cổ túi thoát vị kèm với
khâu hẹp lỗ bẹn sâu tiện lợi cho thoát vị trực tiếp
và thoát vị ở trẻ con. Các tác giả đồng hương với
Marci như William Halsted (1852-1922),
Edmund Andrews (1824-1904) và Alexander
Ferguson (1853-1912) cải tiến kỹ thuật của Marcy
và phối hợp với kỹ thuật Bassini để thuận lợi cho
cả thoát vị bẹn trực tiếp cũng như thoát vị bẹn
gián tiếp.
Một phương pháp mới dùng dây chằng
Cooper để tạo hình thành sau vùng bẹn được
mô tả bởi Albert Narath (1864-1924) vào năm
1898 và được phẫu thuật viên người Áo Georg
Lotheissen (1868-1935) đồng tình. Kỹ thuật này
được chấp nhận rộng rãi từ khi Chester McVay
(1911-1987) và Barry Anson (1894-1974) quảng
bá vào năm 1949.
THẾ KỶ 20
Thời kỳ này ngành gây mê tiến bộ vượt bậc,
trong đó có gây tê tại chỗ đã ảnh hưởng rõ trên
ngành mổ thoát vị. Năm 1898, Harvey
Cushining (1869-1939) lúc còn là một phẫu thuật
viên trẻ tại bệnh viện Johns Hopkins Baltimore
đã báo cáo kết quả mổ thoát vị bẹn sau khi gây tê
tại chỗ với cocaine. Halsted cũng báo cáo kết quả
mổ năm 1922.
Trong thế kỷ thứ 20 xuất hiện một bước tiến
dài nhờ công trình của Earle Shouldice thực hiện
năm 1940 tại Toronto Canada. Shouldice dựa vào
kỹ thuật Bassini nhưng thực hiện với gây tê tại
chỗ và khâu 4 lớp bằng mũi khâu kiên tục. Kết
quả vượt hẳn các kỹ thuật mổ trước đó nên được
áp dụng rộng ở Mỹ và Âu châu và một thời
được xem là kỹ thuật chuẩn(11).
Thực tế này khiến nhiều nhà khoa học
nghiên cứu lại giải phẫu học vùng bẹn và sinh
bệnh học của thoát vị, nhiều phânloại mới được
đề nghị trong đó có phân loại của Shouldice và
của Lloyd Nyhus.
Năm 1956 Henry Fruchaud(2) đưa ra một
quan niệm rất độc đáo làm đảo lộn kỹ thuật mổ
điều trị thoát vị bẹn:
Thông thường người ta gọi thoát vị vùng bẹn
theo từng các định danh riêng. Cách này dễ gây
ngộ nhận.
Quan điểm của Fruchaud khác hẳn và rất
quan trọng. Thay vì gọi riêng là thoát vị bẹn gián
tiếp, trực tiếp, thoát vị đùi...Fruchaud gom
chung lại một nguyên nhân: mọi thoát vị vùng
bẹn - đùi là do khiếm khuyết ở 1 vùng gọi là lỗ
cơ lược (myopectineal orifice). Đây là vùng giới
hạn bởi (hình 1):
Phía trên là cơ chéo trong và cơ ngang,
Phía ngoài là cơ thắt lưng-chậu (iliopsoas),
Phía trong là cơ thẳng bụng,
Phía dưới là vùng lược (pecten) của xương
chậu.
Vùng này được dây chằng bẹn chia ra làm 2
phần. Phần trên có thừng tinh và phần dưới có
bó mạch đùi chạy qua. Cả vùng như khung của
cái trống mà mặt trống bọc lót là mạc ngang.
Sự nguyên vẹn của vùng cơ-cân lược hoàn
toàn độc lập với sự bền chắc của mạc ngang. Khi
mạc ngang bị yếu phúc mạc sẽ đội mạc ngang
lên tạo ra thoát vị vùng bẹn - đùi mặc dù lỗ cơ-
cân chậu lược vẫn còn chắc chắn.
Chính mạc ngang yếu kém là nguyên nhân
nguyên phát của các thoát vị(1,13).
Cung bẹn giúp phân biệt thoát vị bẹn với
thoát vị đùi. Ở nam giới trong tiến trình di
chuyển của tinh hoàn từ bụng xuống bìu đã làm
rộng lỗ cơ-cân lược và khiến dễ bị thoát vị bẹn
gián tiếp và trực tiếp. Trong khi đó ở phái nữ
tiến trình phát triển khung chậu khác hẳn ở nam
giới khiến lỗ đùi rộng ra và có lẽ đó là lý do
khiến thoát vị đùi thấy nhiều ở phái nữ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 61
Hình 1: Lỗ cơ lược của Fruchaud (2).
KHÂU KHÔNG CĂNG (TENSION FREE
REPAIR)
Các kỹ thuật mổ thoóat vị bẹn cổ điển đều
khâu cân và cơ vào nhau và vì thế đều căng trên
đường khâu. Vì thế cứ 10 bệnh nhân thì có 1
trường hợp bị tái phát. Để giải quyết vấn đề này
các tác giả nghĩ ra cách rạch giãn ở mặt trước bao
cơ thẳng bụng như Anton Wolfler (1850-1917)
khuyến cáo năm 1892, như Halsted được
Norman Tanner (1906-1982) ủng hộ.
Về sau Francis Usher (1908-1980) năm 1958 là
người đầu tiên dùng mesh polypropylene. Quan
niệm mổ thoát vị không căng được Irving
Lichtenstein ( 1920-2000) là nguời ở Los Angeles
trình bày rõ trong sách chuyên khảo tái bản lần
thứ hai rất nổi tiếng. Tác giả này dùng một manh
ghép thay thế chỗ khiếm khuyết trong vùng bị
thoát vị tương tự như ý kiến của Usher. Ông
cũng đề nghị phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn
không căng là phẫu thuật trong ngày.
Kết quả của Lichtenstein rất tốt khiến cho về
mặt y học chứng cứ đây là thước đo các kỹ thuật
mới sau thời Bassini(11).
NGẢ VÀO PHÍA SAU VÙNG BẸN
Ý tưởng dùng ngả sau ngoài phúc mạc được
đề xuất từ thế kỷ 18 sau đó U.C Bates (1875-?)
nhắc lại vào năm 1913.
Đến năm 1919, George La Roque (1976-1934)
đề xuất tương tự và được chính thức chấp nhận.
Cheatle năm 1920 và Henry năm 1936 đề
nghị mổ theo đường giữa dưới rốn để đi vào
khoảng tiền phúc mạc (khoảng Bogros). Tuy
nhiên kỹ thuật này không được ưa chuộng.
Tại Pháp, Stoppa (1921-2006) cải tiến kỹ thuật
và nhấn mạnh ưu điểm của Cheatle (1).
Tại Mỹ, Nyhus(11) được kể là tác giả luôn luôn
trung thành với ngã tiền phúc mạc. Nội dung kỹ
thuật được áp dụng như sau:
Khâu vòng lỗ bẹn sâu để trị thoát vị bẹn gián
tiếp.
Khâu cung cân cơ ngang vào dải chậu - mu
để trị thoát vị bẹn trực tiếp.
Khâu dải chậu - mu vào dây chằng Cooper
để trị thoát vị đùi.
Kết quả của phẫu thuật đi ngả tiền phúc mạc
không tốt cho dù có rạch giãn. Vì vậy kỹ thuật
này không được áp dụng rộng rãi trừ 1 ngoại lệ
là đường mỗ giữa Cheatle-Henry cho thoát vị
đùi nghẹt.
Tuy nhiên từ lúc có phong trào dùng mảnh
ghép nhân tạo thì người ta dùng lại ngã tiền
phúc mạc và chính Nyhus sau này cũng dùng
Marlex thay vì khâu trực tiếp các cấu trúc cơ thể
học như lúc trước.
MỔ QUA NỘI SOI
Năm 1982, Ralph Ger là người đầu tiên báo
cáo một trường hợp đóng lỗ thoát vị bẹn nhận
nội soi ổ bụng vì lý do khác. Tác giả này dùng
clip Michel. Từ thành công đó Ger tiếp thục
nghiên cứu trên thú dùng Stapler qua một lổ
trocar thứ nhì.
Vài năm sau, năm 1989, một phẫu thuật viên
phụ khoa S.Bogojavalensky điều trị thoát vị bẹn
Tổng Quan Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 62
bằng đặt mesh polypropylene qua nội soi ổ
bụng.
Những năm đầu thập niên 1990, nhiều báo
cáo cho thấy điều trị thoát vị bẹn qua nội soi ổ
bụng là điều khả thi.
Kỹ thuật đầu tiên dùng mesh che chỗ yếu ở
phúc mạc được gọi là kỹ thuật IPOM
(IntraPeritoneal Onlay Mesh). Một kỹ thuật
khác xẽ phúc mạc hình chữ U rồi đặt một mesh
được gọi là kỹ thuât TAPP (TransAbdominal
PrePeritonal approach).
Sau đó các tác giả như Dulucq (1992), Ferzli
(1992), Himpens (1992) rồi Barry Mac Kernan và
Laws (1993) đặt mesh bằng ngả hoàn toàn ngoài
phúc mạc. Kỹ thuật này được gọi là kỹ thuật TEP
(Total ExtraPeritoneal approach). Các tác giả
thiết kế một bóng đặc biệt để tạo khoảng ngoài
phúc mạc.
Từ đó có rất nhiều hội thảo bàn về chủ đề
mổ thoát vị bẹn qua ngả nội soi ổ bụng. Các báo
cáo cho thấy mổ qua nội soi cho kết quả tương tự
kết quả của Shouldice và của Lichtenstein. Kỹ
thuật TAPP và TEP cũng cho kết quả tương
đương. Về sau, các tác giả chuộng kỹ thuật TEP
hơn vì ít tạo dây dính trong ổ bụng(11).
KẾT LUẬN
Mổ thoát vị vùng bẹn không đơn giản mà
cần sự khéo léo và cả sự hiểu biết khoa học.
Phẫu thuật điều trị thoát vị bẹn có thể được
thực hiện bằng nhiều cách. Phương pháp mổ cổ
điển như Bassini và Shouldice hay tạo hình ngả
trước do Lichtenstein mô tả là các phương pháp
hữu hiệu. Tuy nhiên tất cả đều có hạn chế riêng.
Mổ thoát vị qua nội soi ổ bụng là một tiến bộ
lớn vì trình bày được lỗ cơ-lược và mọi lổ kèm
theo để không bỏ sót phần xử lý.
Phẫu thuật viên ngày nay cần hiểu rỏ
phương pháp mổ nội soi và phương pháp cổ
điển. Ngày nay ba kỹ thuật thông dụng là mổ
mở không căng theo Lichtenstein, TEP và TAPP.
PHỤ LỤC (THỜI ĐIỂM LIÊN QUAN MỔ THOÁT VỊ BẸN)
Thời cổ
1500 BC Thoát vị bẹn được mô tả trong y văn Ai Cập và Hy Lạp
900 BC Băng ép được áp dụng ở Alexandria
400 BC Hippocrates phân biệt thoát vị bẹn với Hydrocele bằng soi đèn
AD 40 Celsus mô tả phẫu thuật theo trường phái La Mả
AD 200 Galen nêu quan điểm thoát vị do thành bụng yếu
AD 700 Paul of Aegina khuyên cắt tinh hoàn khi điều trị
Thời Trung cổ
1363 Guy de Chauliac phân biệt thoát vị bẹn và thoát vị đùi
1556 Franco khuyên xẻ cổ túi trong thoát vị bẹn nghẹt
Thời Phục Hưng
1700 Littre mô tả túi thừa Meckel nằm trong túi thoát vị
1724 Heister phân biệt thoát vị trực tiếp và thoát vị gián tiếp
1731 De Carengoet mô tả ruột thừa nằm trong túi thoát vị
1757 Pott mô tả thoát vị và thoát vị nghẹt
1756 Cheselden mô tả trường hợp mổ thoát vị thành công
1758 Richter mô tả thoát vị kẽ
1790 John Hunter xác định nguyên nhân bẩm sinh của thoát vị
1793 De Gimbernat mô tả dây chằng mang tên ông
1804 Cooper mô tả dây chằng mang tên ông
1816 Hesselbach mô tả dây chằng mang tên ông
1816 Cloquet mô tả ống phúc tinh mạc trong thừng tinh
1846 Gây mê ra đời
1870 Lister mở màn cho ngành vô trùng
1871 Marcy mô tả kỹ thuật mổ của mình
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Tổng Quan
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật – BV. Bình Dân năm 2016 63
1887 Bassini mô tả kỹ thuật mổ của mình và nổi danh thế giới
1887 Halsted mô tả kỹ thuật mổ thứ I của mình
1895 Andrews mô tả kỹ thuật lợp mái
1898 Lotheissen dùng dây chằng Cooper để điều trị thoát vị đùi
1899 Ferguson mổ tả kỹ thuật tương tự Bassini nhưng không đụng chạm thừng thinh
Thời đại vô trùng từ 1903
1903 Kỹ thuật Halsted II ra đời
1919 LaRoque dùng ngả đi ngang phú mạc
1920 Cheatle dùng đường mổ giữ ngoài phúc mạc
1942 Tanner chuyển bao cơ thẳng bụng
1945 Lytle nhấn mạnh tầm quan trọng của lổ bẹn sâu
1953 Shouldice mô tả 8317 ca mổ với tỷ lệ tái phát là 0,8%
1956 Fruchaud nêu quan điểm về lổ cơ lược
1958 Usher dùng mesh polypropylene điều trị thoát vị bẹn
1960 Anson va McVay mô tả giải phẫu trên 500 mẫu (250 xác người)
1970 Lichtenstein mô tả kỹ thuật của mình
1979 Mổ nội soi điều trị thoát vị bẹn ra đời
1981 Read liên kết hút thuốc lá và thoat vị bẹn trực tiếp
1984 Gilbert dùng nút mesh trị thoát vị
1986 Lichtenstein mô tả kỹ thuật mổ không căng nổi tiếng khắp thế giới của mình
1990 Schultz dùng chất liệu sinh học trong điều trị thoát vị bẹn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bascom J (1996): Inguinal hernia in Harken A - Moore E.E
(eds) : “Abernathy’s Surgical Secrets”.3 th edition . pp 163
.Hanley&Belfus,INC. Mosby.
2. Fruchaud H (1956): Anatomie de l’aine. Doin.
3. Kingsnorth AN-LeBlanc KA (2013): Management of
abdominal hernias. Springer. 4 th edition. pp. 1-23.
4. Koontz A.R (1964): Hernia in Rothenberg R.E (ed)
:”Reoperative Surgery”. pp 387.Mc Graw-Hill Book
Company.
5. LeBlanc KA (2013): Laparoscopic hernia surgery. An operative
guide. Arnold. pp. 33-40.
6. Malangoni MA et al (2012): Hernias in Townsen CM et al
(eds): Sabiston’ Textbook of Surgery”: The Biological Basis of
Modern Surgical Practice. 19 th edition. Vol 3. pp. 105. Elsevier
Saunders.
7. Moffat D.B (1987): Lecture Notes on Anatomy. pp 207 -
210.Blackwell Scientific Publications.Oxford London
Edinburgh.
8. Nyhus L.M - Bombeck C.T (1972): Hernias in Sabiston D.C
(ed) :“ Davis - Christopher Textbook of Surgery”.pp1141-
1165.W.B.Saunders Company.
9. Quénu J - Loygue J - Perrotin J - Dubost Cl - Moreaux J (1967):
Hernies obturatrices in Quénu J - Loygue J - Perrotin J - Dubost
Cl - Moreaux J (eds) : “Opérations sur les parois de l’abdomen
et sur le tube digestif”. Masson et Cie.pp 192 - 195 .
10. Read R.C - Barone G.W - Hauer-Jensen M - Yoder G (1993):
Properitoneal Prosthetic Placement through th groin : The
anterior (Mahorner-Goss,Rives-Stoppa) approach. Surg.
Clin.N. Amer.73 : 545 . (Hernia Surgery).
11. Van Hee R (2011): History of inguinal heria repair. Jurnalul de
Chir Iasi. 7: 301- 319.
12. Wantz G.E (1994): Hernias in Schwartz S.I - Shires G.T -
Spencer F.C (eds): “Principles of Surgery”. 6 th
edition.McGraw-Hill Book Company.
13. Zimmerman L.M - Anson B.J (1967): Anatomy and Surgery of
Hernia.2 th edition. pp 257-259.The William-Wilkins
Co.Baltimore.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tong_quan_ve_mothoatvi_ben.pdf