Tài liệu Tổng quan thu hồi và tái sử dụng các hợp chất dinh dưỡng (amoni, photphat) có trong nước thải bằng công nghệ kết tủa struvite - Ngô Văn Thanh Huy: Hóa học & Kỹ thuật môi trường
N. V. T. Huy, L. A. Kiên, T. M. Chí, “Tổng quan thu hồi công nghệ kết tủa struvite.” 94
TỔNG QUAN THU HỒI VÀ TÁI SỬ DỤNG CÁC HỢP CHẤT
DINH DƯỠNG (AMONI, PHOTPHAT) CÓ TRONG NƯỚC THẢI
BẰNG CÔNG NGHỆ KẾT TỦA STRUVITE
Ngô Văn Thanh Huy*, Lê anh Kiên, Trần Minh Chí
Tóm tắt: Nitơ và photpho là một trong những nguyên tố cơ bản của sự sống và
liên quan đến phần lớn hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người. Amoni và
photpho là một trong những sản phẩm cuối cùng của quá trình phân hủy sinh học
các hợp chất hữu cơ. Hợp chất hoá học chứa nitơ, photpho được gọi là thành phần
dinh dưỡng trong phạm trù nước thải nhưng việc phát thải các hợp chất của nitơ và
photpho vào các nguồn nước đem đến nhiều hậu quả xấu đến môi trường và sức
khỏe con người.Nguồn phát thải hợp chất nitơ, photpho vào môi trường chủ yếu là:
từ các chất thải rắn, khí thải, nước thải nhưng nhiều nhất là từ nguồn phân và chất
bài tiết trong nước thải sinh hoạt. Thu hồi, ...
10 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 865 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan thu hồi và tái sử dụng các hợp chất dinh dưỡng (amoni, photphat) có trong nước thải bằng công nghệ kết tủa struvite - Ngô Văn Thanh Huy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hóa học & Kỹ thuật môi trường
N. V. T. Huy, L. A. Kiên, T. M. Chí, “Tổng quan thu hồi công nghệ kết tủa struvite.” 94
TỔNG QUAN THU HỒI VÀ TÁI SỬ DỤNG CÁC HỢP CHẤT
DINH DƯỠNG (AMONI, PHOTPHAT) CÓ TRONG NƯỚC THẢI
BẰNG CÔNG NGHỆ KẾT TỦA STRUVITE
Ngô Văn Thanh Huy*, Lê anh Kiên, Trần Minh Chí
Tóm tắt: Nitơ và photpho là một trong những nguyên tố cơ bản của sự sống và
liên quan đến phần lớn hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người. Amoni và
photpho là một trong những sản phẩm cuối cùng của quá trình phân hủy sinh học
các hợp chất hữu cơ. Hợp chất hoá học chứa nitơ, photpho được gọi là thành phần
dinh dưỡng trong phạm trù nước thải nhưng việc phát thải các hợp chất của nitơ và
photpho vào các nguồn nước đem đến nhiều hậu quả xấu đến môi trường và sức
khỏe con người.Nguồn phát thải hợp chất nitơ, photpho vào môi trường chủ yếu là:
từ các chất thải rắn, khí thải, nước thải nhưng nhiều nhất là từ nguồn phân và chất
bài tiết trong nước thải sinh hoạt. Thu hồi, tái sử dụng các chất dinh dưỡng có
trong nước thải vừa đáp ứng được mục tiêu bảo vệ nguồn nước vừa tiết kiệm được
nguồn tài nguyên. Việc nghiên cứu công nghệ xử lý kết hợp thu hồi các thành phần
dinh dưỡng có trong nước thải làm phân bón là xu hướng nghiên cứu mới.
Từ khóa: Nước thải giàu dinh dưỡng, Thu hồi amoni và photphat, Phân bón, Struvite.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thu hồi, tái sử dụng các chất dinh dưỡng có trong nước thải, đáp ứng được mục
tiêu bảo vệ nguồn nước và tiết kiệm được nguồn tài nguyên. Nitơ, photpho và kali
là các dưỡng chất giá trị có trong nước thải. Đáng tiếc, các dưỡng chất thiết yếu
này bị bỏ phí trong các nhà máy xử lý nước thải truyền thống.
Để loại bỏ nitơ và photpho trong nước thải, nhiều quá trình sinh học, hóa học đã
được ứng dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới, và áp dụng thành công như Clo
hóa với nồng độ cao; trao đổi ion; nitrat hóa, khử nitrat; công nghệ Anammox,
Sharon-Anammox; công nghệ kết tủa struvite. Mỗi phương pháp đều có những ưu
điểm và nhược điểm riêng của nó, nhưng hầu hết các phương pháp xử lý N, P hiện
nay đều phải tiêu hao nhiều năng lượng và hóa chất nhằm loại bỏ N, P ra khỏi môi
trường mà chưa quan tâm đến việc thu hồi các loại dưỡng chất này có trong nước
thải. Hơn nữa, với nước thải nồng độ dinh dưỡng cao không phù hợp cho việc áp
dụng các biện pháp sinh học bởi vì chúng sẽ gây ức chế cho các hoạt động của vi
sinh vật, và việc xử lý đó sản sinh ra một lượng lớn bùn dư.
Struvite là một muối hình thành từ Mg2+, NH4
+ và PO4
3-, nó kết tinh ở dạng
MgNH4PO4.6H2O. Hiện nay, việc kết tinh struvite được xem như một kỹ thuật để
loại bỏ Photphat và Amoni trong nước thải. Struvite (MAP) có độ hòa tan thấp,
pKs= 10,26 (Ander Ezquerro, 2010). Quá trình kết tinh struvite ảnh hưởng bởi pH,
nhiệt độ, tính bền vững của ion trong dung dịch và tỷ lệ mol Mg2+:NH4+:PO4
3-.Nó
được giới thiệu vào năm 2015 để tạo ra loại phân bón nhả chậm mới (Ramesh
Kumar và cộng sự, 2015) và được tạo bởi các thành phần:
Mg2+ + NH4
+ + HPO4
2- + OH- + 5H2O → MgNH4PO4.6H2O
Ngày nay, có rất nhiều nghiên cứu cũng như thực nghiệm để chứng minh hiệu
quả của quá trình này. Mặc dù vậy, phương pháp thu hồi Photphat và Amoni dưới
dạng struvite vẫn chưa được ứng dụng nhiều do chi phí hóa chất nguyên liệu đầu
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 95
vào cao (sử dụng NaOH để kiểm soát pH và một vài muối Magie để bổ sung nguồn
Mg2+). Tuy nhiên, với khả năng hòa tan sinh học, struvite có thể được bón trực tiếp
như phân bón nhả chậm giúp giảm chi phí và làm cho quá trình này trở nên khả thi.
Bên cạnh đó, các thành phần kim loại nặng trong sản phẩm struvite thấp hơn trong
đất, vì vậy chúng không gây nguy hại cho đất trồng(Pastor, 2006).
Do đó, thu hồi amoni, photphat có trong nước thải để làm phân bón dưới dạng
chất kết tủa struvite (MAP – Magnesium Ammonium Phosphate) một dạng phân
bón nhả chậm được sử dụng trong nông nhiệp trồng trọt tỏ ra hấp dẫn về nhiều
phương diện.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật Liệu
Các nguồn ô nhiễm do nitơ và photpho có nguồn gốc từ nước thải như: Nước rỉ
ở bãi rác các thành phố, nước thải cống rãnh, nước thải từ quá trình sản xuất chất
bán dẫn, nước thải từ chăn nuôi gia súc. Một số nguồn nước thải công nghiệp như:
nhà máy than, nhà máy chế biến sữa, công nghiệp giấy và bột giấy, các ngành công
nghiệp thuộc da, sản xuất phân bón hay trong một số ngành nghề đặc biệt như chế
biến mủ cao su, chế biến tơ tằm, thuộc da cũng thải ra một lượng nước thải đáng kể
chứa hợp chất nitơ và phốt pho[8, 9].
2.1.1. Nước rỉ rác
Nước rỉ từ bãi chôn lấp (còn gọi là nước rỉ rác) là nước bẩn thấm qua lớp rác
của các ô chôn lấp, được coi là một loại nước thải có tác động đến môi trường lớn
nhất có sự hiện diện của NH4
+-N, PO4
3-, muối và các chất hữu cơ (Kurniawan và
cộng sự 2006, Wang và cộng sự 2013). Nước rỉ rác nếu xả thải chưa qua xử lý
sẽgây ra nhiều vấn đề ô nhiễm nghiêm trọng. Khi nước rỉ rác trở nên nhiều hơn,
hàm lượng chất hữu cơ giảm và các hợp chất bất thường hoặc các hợp chất vô cơ
như NH4
+, PO4
3- trở nên chiếm ưu thế làm khó khăn trong việc xử lý sinh học. Xử
lý sinh học thường sẽkhôngđạt hiệu quả caodo độc tính của NH4
+ đến vi sinh vật
trong hệ thống xử lý nước thải (Bittsánszky và cộng sự 2015). Do đó nước rỉ rác là
một nguồn để thu hồiNH4
+, PO4
3- bằng cách thêm ion Mg2+ở giá trị pH thích hợp
để tạo thành sản phẩm kết tủa struvite.
2.1.2. Nước tiểu
Nước tiểu có nồng độ chất dinh dưỡng cao như nitơ, photpho, kali. Urê là hình
thái chính của nitơ trong nước tiểu tươi (Hotta và Funamizu 2008) [5, 7]. Tái chế
chất dinh dưỡng từ nước thải được sử dụng tách nguồn nước tiểu để tối đa hóa việc
thu hồi các chất dinh dưỡng và giảm hiện tượng phú dưỡng hóa cho nguồn tiếp
nhận. Theo các nghiên cứu của các tác giả (Fittschen và Hahn 1998, Larsen và
Gujer 1996; Larsen và cộng sự 2001; Otterpohl 2002; Rauch và cộng sự 2003;
Ronteltap và cộng sự 2007) [7] nước tiểu của người chứa khoảng 70-87% tổng N,
40-50% P, và 54-90% K. Do đó, việc tách nguồn nước tiểu là một phương pháp tốt
cho cả việc loại bỏ chất ô nhiễm và tạo ra nhiều chất dinh dưỡng (Liu và cộng sự
2013; Lê Corre và cộng sự 2009).
2.1.3. Nước thải chăn nuôi heo
Hóa học & Kỹ thuật môi trường
N. V. T. Huy, L. A. Kiên, T. M. Chí, “Tổng quan thu hồi công nghệ kết tủa struvite.” 96
Nước thải chăn nuôi heo có chứa nồng độ nitơ, photphocao. Ngoài nitơ
vàphotpho, nước thải nuôi heo còn chứa ion Mg2+ và Ca2+với nồng độ cao (Suzuki
và cộng sự, 2010). Nước thải được xem là nguồn ô nhiễm chính trong các trang trại
chăn nuôi và là nguyên nhân chính làm tăng hiện tượng phú dưỡng hóa ở nguồn
tiếp nhận. Phân gia cầm là chất thải có chứa cả NH4
+ và PO4
3- ở nồng độ cao,vìvậy
có thể loại bỏ và thu hồi bằng kết tủa struvite (Yilmazel và Demirer 2011) [14].
2.1.4. Nước thải công nghiệp.
Nước thải công nghiệp từ các nhà máy nhiệt điện, nhà máy sản xuất thép, thuộc
da có chứa N nồng độ cao dưới dạng NH4
+. Trong suốt quá trình biến đổi than đá
thành than cốc hàng ngàn mét khối nước thải được tạo ra với nồng độNH4
+ cao
(Kumar và cộng sự 2011). Việc xử lý sinh học bằng quá trình bùn hoạt tính, nitrat
hóa, khử nitrat hay các phương pháp xử lý tương tự thường không hiệu quả đối với
việc loại bỏ nước thải có nồng độ NH4
+ cao do thiếu nguồn cacbon cho quá trình
khử nitơ (Zhang và cộng sự 2009; Kumar và Pal 2015; Kumar và cộng sự 2015)
[15]. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc thu hồi NH4
+ bằng struvite trong
xử lý nước thải công nghiệp hiện nay được đề xuất bởi các nhà nghiên cứu (Kumar
và Pal 2012; Tunay và cộng sự 1997). Một số nguồn nước thải từ công nghiệp
dược phẩm như axit 7-amoni-cephalosporanic dư thừa nồng độ NH4+ gây ảnh
hưởng đến hệ sinh thái địa phương (Jingliang Yang và cộng sự 2012).
2.2. Các phương pháp thu hồi chất dinh dưỡng có trong nước thải bằng công
nghệ struvite
Hiện nay trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu thu hồi struvite quy
mô pilot và thực tế. Hầu hết các mô hình này sử dụng công nghệ bể phản ứng
tầng sôi (FBR) hay phản ứng trộn khí (Air agitated reactor) hoặc sử dụng motor
khuấy [10, 11].
2.2.1. Mô hình bể phản ứng tầng sôi (FBR)
Trong mô hình này, nước thải được phân phối từ dưới đáy bể lên, tùy thuộc vào
hình dạng bể phản ứng, vận tốc nước dâng có thể duy trì từ 0.004 - 0.3 m/h. Dòng
khí được cấp hướng từ dưới lên để tránh kéo theo kết tủa khoáng từ vùng lắng.
Hình 1. Mô hình thu hồi Struvite bằng bể phản ứng FBR
Ngoài ra, việc sục khí có thể giúp kiểm soát giá trị pH cần thiết cho quá trình
kết tủastruvite, tuy nhiên cần sử dụng hóa chất (xút hoặc axit) để kiểm soát quá
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 97
trình tốt hơn. Trong bể phản ứng tầng sôi (FBR) vận tốc thay đổi theo hướng giảm
dần từ vùng phản ứng đến vùng trên của bể phản ứng cho phép nước sau xử lý
được thu trên cùng của bể phản ứng.
Thời gian lưu cặn (SRT – Solid Retention Time) thường được tính theo ngày (từ
3-14 ngày) để đạt được kích cỡ khoáng từ 0.41-1.43 mM hoặc 17 ngày để đạt kích
thước lớn hơn 3.5mm.
2.2.2. Mô hình khuấy trộn cơ khí
Trong quá trình này, khoáng Struvite được hình thành bằng cách thêm MgCl2 để
đạt tỷ lệ Mg:P tối thiểu là 1:1. pH được điều chỉnh ở mức 9 bằng cách châm thêm
NaOH, quá trình khuấy trộn cho phản ứng sử dụng cánh khuấy. Bể phản ứng có
cấu tạo như bể FBR với phần trên mở rộng cho quá trình lắng tách tinh thể và thu
nước sau xử lý.
Hình 2. Thu hồi khoáng Struvite bằng thiết bị khuấy trộn cơ khí.
2.2.3. Mô hình nghiên cứu của Kazuyoshi Suzuki
Hình 3. Mô hình thu hồi khoáng Struvite của Kazuyoshi Suzuki.
Mô hình thí nghiệm được thực hiện để nghiên cứu thu hồi struvite trong nước
thải chăn nuôi. Mô hình gồm 2 phần: phần phản ứng (dung tích 0,6 m3) và phần
lắng (3,12 m3). Nước thải được đưa vào bể phản ứng và sục khí liên tục, thời gian
Hóa học & Kỹ thuật môi trường
N. V. T. Huy, L. A. Kiên, T. M. Chí, “Tổng quan thu hồi công nghệ kết tủa struvite.” 98
lưu nước trong bể phản ứng từ 2,7 – 3,6h. Bùn lắng được xả tự động khỏi đáy phần
lắng 4-8 lần/ngày. Nước thải đầu vào và đầu ra được được lấy và phân tích các chỉ
tiêu PO4-P , NH4-N, Mg.
2.2.4. Mô hình nghiên cứu của YingHao Liu
Mô hình được thực hiện để nghiên cứu thu hồi khoáng struvite trong nước thải
chăn nuôi. Mô hình gồm các thiết bị chính: bể phản ứng, bơm nước thải vào, bơm
định lượng Mg, máy thổi khí và lưu lượng khí.
Bể phản ứng được chia làm 2 vùng: vùng phản ứng (A) và vùng lắng (B). Tổng
dung tích bể là 2,72L. Đáy bể được vác góc 300 để thu hồi khoáng, khí được cấp
liên tục và kiểm soát lưu lượng thông qua bộ van và đo lưu lượng khí tại đáy bể
vùng phản ứng. Thời gian lưu nước của mô hình được lựa chọn là 4h.
Hình 4. Mô hình thu hồi khoáng Struvite của YingHao Liu.
2.2.5. Công nghệ AirPrex
Hình 5. Thu hồi Struvite bằng công nghệ AirPrex.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 99
Công nghệ AirPrexđược ứng dụng để thu hồi MAP trong các hệ thống xử lý
nước thải với dòng vào là bùn đã qua giai đoạn phân hủy. Trong công nghệ này,
bùn đã phân hủy được đưa qua thiết bị gọi là “phản ứng khí nâng” với dòng khí
được cấp vào cho mục đích tuần hoàn nội bộ.
Amoni và photphat tồn tại như một thành phần có sẵn trong bùn nén, MgCl2
được thêm vào thiết bị phản ứng. Không khí được cấp vào với 2 mục đích: thứ
nhất, tăng pH bằng cách đuổi khí CO2 ra bùn phân hủy, vì khi pH tăng độ tan của
khoáng struvite giảm, tạo điều kiện cho quá trình hình thành kết tủa. Thứ hai, việc
cấp khí sẽ làm hình thành dòng hồi lưu nội bộ, tạo điều kiện cho các tinh thể
struvite kết dính lại với nhau thành các hạt có kích thước lớn hơn, dễ lắng hơn. Tại
bể số 2 sử dụng làm bể lắng nhằm mục đích để lắng các tinh thể struvite và việc
thu hồi được thực hiện tại bể này.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu tổng hợp MAP từ các nguồn nước thải
giàu chất dinh dưỡng N, P khác nhau: như nước thải chăn nuôi heo, nước thải tại
các lò giết mổ ... và bổ sung magie clorua hoặc magie sulfate hoặc magie từ nước
ót (một sản phẩm phụ của quá trình sản xuất muối ăn) với các điều kiện pH, và tỷ
lệ mol khác nhau. Nghiên cứu loại bỏ amoni và photphat trong nước thải đồng thời
tổng hợp khoáng Struvite-MAP thông qua tạo kết tủa với magiesulfate của nhóm
nghiên cứu thuộc khoa hóa học công nghiệp và kỹ thuật môi trường, Đại học
Timisoara, Romania. Nghiên cứu được tiến hành trong phòng thí nghiệm trên bốn
loại nước thải với nồng độ amoni ban đầu (0,08 - 1,6g/L) và photphat (0,4-8g/L),
có tỷ lệ mol Mg2+:NH4+:PO4
3- = (1:1:1 và 2:1:1) với các giá trị pH khác nhau từ 6-
11. Kết quả thu được là sản phẩm rắn MAP được tận dụng làm phân bón [3, 12].
Kết tủaMAP ứng dụng trong việc thu hồi amoni và có kết quả hiệu suất xử lí
cao có thể tận thu được 90% - 95% amoni trong nước thải [4, 6]. Các nhà hóa học,
nhà sinh học, và kỹ sư xây dựng (Abbona và cộng sự 1982; Loosdrecht 2006;
Ohlingeretal 1998; Ronteltap và cộng sự 2007; Talor và cộng sự 1963; Wilsenach
và cộng sự) đã thu hồi amoni từ thí nghiệm struvite [1].
Theo nghiên cứu của Ipek Celen và Mustafa Turker nghiên cứu về điều kiện thu
hồi amoni bằng phương pháp struvite cho thấy tỉ lệ mol thu hồi cao khi Mg:N:P là
1,2:1:1,2 ở pH 8,5–9, hiệu suất loại amoni là 90%. Nhiệt độ không ảnh hưởng đáng
kể [2]. Vào năm 2011 K J Suthar, N P Chokshi cũng đã nghiên cứu khả năng thu
hồi của MAP với tỉ lệ Mg:N:P tối ưu là 0,06:1:0,07 [13]. Với kết tủa Struvite đã
được chứng minh là hàm lượng kim loại nặng tương đối thấp, phù hợp với việc tái
sử dụng làm phân bón hữu cơ [8]. Năm 2012, Zaixing Li, Xnguang Ren cùng các
cộng sự của mình đánh giá khả năng thu hồi amoni bằng kết tủa struvite trong
nước thải axit 7-Aminocephalosporanic cho thấy pH tối ưu là 9 và tỉ lệ mol là
1:1:1,1 (Mg:N:P). 85% H3PO4 + MgCl2.6H2O là hợp chất thu hồi amoni hiệu quả
nhất trong các hợp chất được nghiên cứu. Hơn nữa nồng độ photphat dư thấp nhất
đạt được giống với hợp chất.
Hóa học & Kỹ thuật môi trường
N. V. T. Huy, L. A. Kiên, T. M. Chí, “Tổng quan thu hồi công nghệ kết tủa struvite.” 100
Bảng 1. Các loại hình nước thải và ứng dụng việc thu hồi chất dinh dưỡng bằng
công nghệ struvite.
TT Loại nước thải
Loại
bỏ
Tỉ lệ mol
Hiệu quả xử
lý
pH Tài liệu
1 Nước tiểu P,
K
2:1:2(Mg:K:P) 77% P,
98%K
- Xu và cộng sự
(2011)
2 Nước thải nuôi
heo
P,
K
1.79 (Mg:P) 85% P,
90%K
- Song và cộng sự
(2011)
3 Nước thải nuôi
heo
N,
P
1:1:1,2(P:Mg:N) 96% P,
87%N
10 Zhang và cộng
sự
4 UASB (nước
thải gia cầm)
N
1:1:1(Mg:N:P) 85,4%N 9 Yetilmezsoy và
Sapci Zengin
(2009)
5 Nước thải nuôi
heo
N,
P
0,8:1 (Mg:P) 65% (P),
67% (N)
- Liu và cộng sự
(2011)
6 Nước thải nuôi
heo
N,
P
Thoáng khí - - Suzuki và cộng
sự (2005)
7 Nước thải nuôi
heo
P 1:1 (Mg:P) 93% P - Rahman và cộng
sự (2011)
8
Nước thải nuôi
heo
N,
P
Hòa tan 2 M
struvite
79% (P) và
53% (N)
- Liu và cộng sự
(2011)
9 Nước thải nuôi
heo
P - - - Suzuki và cộng
sự (2007)
10 Nước thải nuôi
heo
P - 82% P - Ichihas và
Hirooka (2012)
11 Nước thải công
nghiệp
N 1:1:1(Mg:N:P) 96% N 9,6 EI Diwani và
cộng sự (2007)
12 Nước thải công
nghiệp
N,
P
1,5:1:1(Mg:N:P) 95% (N)
and 89%
(N)
9 Uysal và cộng sự
(2010)
13 Nước thải công
nghiệp
P - 80% P 9,5 Pastor và cộng
sự (2008)
14 Nước thải công
nghiệp
P - 79% P 9 Le Corre và cộng
sự (2007)
15 Nước thải công
nghiệp muối
P - 75% 8,4 Crutehik và
Garido (2011)
16 ADPP nổi trên
mặt
P - 86% P 8,6 Pastor và cộng
sự (2010)
17 Nước thải phân N 1:1:1(Mg:N:P) 95% N 8,5 Uludag-Demirer
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 101
Nguồn: Ramesh Kumar và Parimal Pal (2015)[15]
Ngoài ra có rất nhiều các công trình nghiên cứu ở nước ngoài thực hiện thí
nghiệm thu hồi amoni, photphat bằng công nghệ kết tủa struvite ở các điều kiện tối
ưu khác nhau được mô tảcụ thể ở bảng 1.
4. KẾT LUẬN
MAP đã đước chứng minh là một loại phân bón nhả chậm có tác dụng sau khi
vào đất sẽ không tan ngay mà sau 4-6 tuần mới có thể tan ra. Do dinh dưỡng trong
phân được phóng thích ra môi trường đất một cách từ từ và liên tục nên cây trồng
sử dụng được lâu dài, hiệu quả sử dụng phân cao hơn, không có giai đoạn nào cây
bị thiếu hụt dinh dưỡng nên cây trồng khoẻ mạnh và màu xanh được giữ bền lâu
hơn so với cây bón phân tan nhanh.
Nghiên cứu thu hồi amonia và photphat có trong nước thải dưới dạng kết tủa
MAP (MgNH4PO4.6H2O) đang ngày càng nhận được sự chú ý của toàn cầu, nhằm
mục đích thu hồi dưỡng chất có trong nước thải. MAP được thu hồi và xem như là
một loại phân bón có giá trị.
bò sữa và cộng sự
(2005)
18 Nước thải gia
súc
N 1:1:1(Mg:N:P) 82% N 9 Tunay và cộng
sự (1997)
19 Công trình xử lý
nước thải bằng
biện pháp sinh
học
P Không thêm hóa
chất
80% P 8,78 Battistoni và
cộng sự (2011)
20 Nước thải từ
thuốc phiện
ancaloit được sử
lý sinh học
N 1:1:1(Mg:N:P) 65% N 9,2 Altinbas và cộng
sự (2002)
21 Nước thải sinh
hoạt và nước rỉ
rác
N 1:1:1(Mg:N:P) 77% N 9,2 Altinbas và cộng
sự (2002)
22 Xử lý sâu bọ
Trung Quốc
P,
N
MgO 24 g/L 100% P và
98%N
9 Chimenos và
cộng sự (2003)
23 Nước rỉ rác đô
thị
N - - - Dilaconi và cộng
sự (2011)
24 Nước thải từ
than cốc
N 1:1:1(Mg:N:P) 98% N 9 Kumar và cộng
sự (2012)
25 Nước thải tư đồ
uống
P 1:1:1(Mg:N:P) 97% P 9,5 Folettto và cộng
sự (2013)
26 Ảnh hưởng của
việc phân hủy
phân gia cầm
N,
P
1,5:1:1(Mg:N:P) 97.4% (N)
and 99.6%
(P)
9 Yilmazel and
Demirer
(2010)
Hóa học & Kỹ thuật môi trường
N. V. T. Huy, L. A. Kiên, T. M. Chí, “Tổng quan thu hồi công nghệ kết tủa struvite.” 102
Ứng dụng công nghệ kết tủa MAP để thu hồi dưỡng chất có trong nước thải làm
phân bón cho lĩnh vực nông nghiệp cần được đầu tư nghiên cứu, với 1 kg MAP thu
được có thể đủ để bón cho 2,6 ha đất canh tác bằng cách áp dụng photphat ở mức
40 kg / ha (Ueno và Fujii 2001). Hơn nữa, ứng dụng MAP là một loại phân bón
thân thiện môi trường và kích thích tăng trưởng.
Lời cảm ơn: Nhóm tác giả cảm ơn Viện Khoa học Công nghệ quân sự đã cung cấp
kinh phí cho nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Abbona F, Boistelle R, Lundager H (1982) “Crystallization of two
magnesium phosphates, struvite and newberyite: effect of pH and
concentration”. J Cryst Growth 57:6–14
[2]. Altinbas M, Ozturk I, Aydin AF (2002a) “Ammonia recovery from high
strength agro-industry effluents”. Water Sci Technol 45:189–196 Altinbas
M, Yangin C, Ozturk I (2002b) Struvite precipitation from anaerobically
treated municipal and landfill wastewaters. Water SciTechnol 46:271–278.
[3]. Andrade A, Schuiling R (2001) “The chemistry of struvite crystallization”.
Mineral J 23(5/6):37–46.
[4]. Battistoni P, De Angelis A, Pavan P, Prisciandaro M, Cecchi F (2001)
“Phosphorus removal from a real anaerobic supernatant by struvite
crystallization”. Water Res 35:2167–2178.
[5]. Bhuiyan MIH (2007) “Investigation into struvite solubility, growth and
dissolution kinetics in the context of phosphorus recovery from wastewater”.
Ph.D. thesis, The University of British Columbia, Vancouver, Canada.
[6]. Bhuiyan MIH, Mavinic DS, Beckie RD (2007) “A solubility and
thermodynamic study of struvite”. Environ Technol 28:1015–1026.
[7]. Bhuiyan MIH, Mavinic DS, Koch FA (2008) “Thermal decomposition of
struvite and its phase transition”. Chemosphere 70:1347–1356.
[8]. Bittsánszky A, Pilinszky K, Gyulai G, Komives T (2015) “Overcoming
ammonium toxicity”. Plant Sci 231:184–190.
[9]. Bouropoulos N, Koutsoukos PG (2000) “Spontaneous precipitation of
struvite from aqueous solutions”. J Cryst Growth 213:381–388.
[10]. Bowers KE, Westerman PW (2005a) “Design of cone-shaped fluidized bed
struvite crystallizers for phosphorus removal from wastewater”.Trans ASAE
48(3):1217–1226.
[11]. Bowers KE, Westerman PW (2005b) “Performance of cone-shaped fluidized
bed struvite crystallizers in removing phosphorus from wastewater”. Trans
ASAE 48(3):1227–1234.
[12]. Burns RT, Moody LB, Walker FR, Raman DR (2001) “Laboratory and in
situ reductions of soluble phosphorus in swine waste slurries”. Environ
Technol 22:1273–1278.
[13]. Chimenos JM, Fernandez AI, Villalba G et al (2003) “Removal of ammonium
and phosphates from wastewater resulting from the process of cochineal
extraction using MgO containing by-product”. Water Res 37:1601–1607.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 103
[14]. Crutchik D, Garrido JM (2011) “Struvite crystallization versus amorphous
magnesium and calcium phosphate precipitation during the treatment of a
saline industrial Wastewater”. Water Sci Technol 64(12): 2011
[15]. Ramesh Kumar and Parimal Pal. “Assessing the feasibility of N and P recovery
by struvite precipitation from nutrient-rich wastewater: a review”.
Environmental Science and Pollution Research, 2015. 22(22): p. 17453-17464.
ABSTRACT
REVIEW ON RECOVERY AND REUSE OF NUTRIENTS
BY STRUVITE PRECIPITATION FROM WASTEWATER
Nitrogen and phosphorus are one of the essential elements of life and
concerning to human’s activity and production. Ammonium and phosphorus
are one of the end-products of the biodegradation process of organic
compounds. Nitrogen and phosphorus are called nutrients in the wastewater
category. Discharging of nitrogen and phosphorus compounds to water
sources that causenegative effects on environment and human health.
Nitrogen and phosphorus were discharged to environment from various
sources, including: solid wastes, waste gases, wastewater, and excreta
sources in domestic wastewater. Recovery and reuse of nutrients in
wastewateris the promissing method for protecting water sources and
simultaneous saving resources. Treatment technologies combined with
recovery of nutrients in wastewater for fertilizer production is a new
research trend.
Keywords: MAP, Struvite, Amoni, Phophate, Fertilizer.
Nhận bài ngày 07 tháng 08 năm 2017
Hoàn thiện ngày 24 tháng 08 năm 2017
Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 9 năm 2017
Địa chỉ: Viện Nhiệt đới môi trường/ Viện KH-CN quân sự.
* Email: tuan140482@gmail.com.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12_4908_2151821.pdf