Tài liệu Tổng quan thải ghép thể dịch ở trẻ em
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 333 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan thải ghép thể dịch ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
44
TỔNG QUAN THẢI GHÉP THỂ DỊCH Ở TRẺ EM
Hoàng Thị Diễm Thúy1; Trần Đình Long2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: thải ghép thể dịch là một dạng thải ghép nặng mà các nhà lâm sàng và nghiên
cứu ghép tạng cần lưu tâm với cơ chế bệnh sinh phức tạp, không đáp ứng với các phương
pháp điều trị thải ghép thông thường. Thải ghép thể dịch chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số các
nguyên nhân gây mất thận ghép. Tư liệu tổng quan: điều trị cơ bản bao gồm thay huyết tương,
immunoglobuline truyền tĩnh mạch, kháng thể đơn dòng kháng CD20 (rituximab). Các thuốc
mới bắt đầu đưa vào điều trị trên thực tế bao gồm ức chế proteosome (bortezomib), kháng thể
đơn dòng kháng C5 (eculizumab). Kết luận: việc phòng ngừa và điều trị thải ghép thể dịch hết
sức quan trọng trong chiến lược bảo vệ thận ghép. Việc hiểu biết cơ chế sinh lý bệnh sẽ giúp
các nhà lâm sàng có lựa chọn thuốc điều hòa miễn dịch đúng đắn và thái độ theo dõi thích hợp.
* Từ khóa: Thải ghép thể dịch; Tế bào T; Tế bào B.
Review of Humoral Rejection in Children
Summary
Background: Antibody-mediated rejection is a severe form of allograft rejection that is not
amenable to treatment with standard immunosuppressive medications, that requires a special
consideration from all clinicians and researchers in the transplantation specialty. AMR occupied
the highest percentage in all causes of transplants loss. Review: The cornerstone treatment
composed of plasmapheresis, intravenous immunoglobuline and anti CD20 monoclonal
antibody (rituximab). Newer approaches to treating antibody-mediated rejection include using
the proteosome inhibitor (bortezomib) and eculizumab (anti-C5, anticomplement monoclonal
antibody). Conclusion: A good understanding of antibody-mediated rejection pathophysiology
will provide the clinicians a better strategy in their intervention.
* Keywords: Humoral rejection; T cell; B cell.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thải ghép thể dịch (TGTD) là vấn đề
thời sự, thách thức, với cơ chế bệnh sinh
phức tạp. TGTD thường có biểu hiện lâm
sàng nặng và không đáp ứng với những
phương pháp điều trị thải ghép thông
thường. Ở trẻ em cũng như người lớn,
TGTD chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số
các nguyên nhân gây mất thận ghép
(35,6%), thời gian từ lúc phát hiện đến lúc
mất thận ghép trung bình 3 năm [13].
Ngoài ra, việc mất thận ghép do TGTD sẽ
làm tăng nguy cơ nhạy cảm và tử vong cho
các lần ghép sau. Vì vậy, phòng ngừa và
1. Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
2. Chủ tịch Hội Thận niệu và Ghép tạng Trẻ em Việt Nam
Người phản hồi (Corresponding): Hoàng Thị Diễm Thúy (thuydiemhoanglp@gmail.com)
Ngày nhận bài: 10/08/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 21/09/2018
Ngày bài báo được đăng: 02/10/2018
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
45
điều trị hiệu quả TGTD hết sức quan
trọng trong chiến lược bảo vệ thận ghép.
Công tác nghiên cứu và thực tiễn điều trị
vẫn đang mở ra nhiều hướng mới và
được cập nhật liên tục. Việc hiểu biết về
cơ chế sinh lý bệnh của TGTD sẽ giúp
các nhà lâm sàng có thái độ xử trí tốt
hơn.
Về mặt thuật ngữ, TGTD còn gọi là
thải ghép mạch máu hay thải ghép qua
trung gian kháng thể. Trên góc độ sinh lý
bệnh, đa số TGTD xảy ra qua trung gian
kháng thể kháng HLA. Tuy nhiên, TGTD
cũng có thể bị kích hoạt bởi những con
đường không thông qua kháng thể trực
tiếp mà qua trung gian bổ thể, nội độc tố
(endotoxine) và tiểu cầu. Lúc này, các
kháng thể kháng HLA sẽ không được tìm
thấy trong huyết thanh của người nhận.
Do vậy, TGTD là thuật ngữ phù hợp nhất
[9]. Trên góc độ lâm sàng, tiêu chuẩn
Banff cập nhật năm 2015 gồm 3 yếu tố
chính: hiện diện kháng thể kháng HLA
người cho, lắng đọng C4d trên mảnh
ghép, bằng chứng mô học [4].
CƠ CHẾ BỆNH SINH
1. Sự tích lũy tế bào nhớ (memory
cell).
Đáp ứng miễn dịch dịch thể trong thải
ghép thể hiện khả năng đáp ứng thể dịch
của cơ thể với kháng nguyên lạ và khả
năng của tế bào nhớ, vốn thay đổi theo
tuổi. Hình 1 cho thấy khả năng số lượng
tế bào T nhớ có liên quan đáp ứng thể
dịch sẽ ngày càng tăng theo tuổi, mặc dù
ngay từ khi mới sinh đã có sự biệt hóa tế
bào T.
Hình 1: Tích lũy tế bào nhớ theo tuổi [6].
Đáp ứng miễn dịch của trẻ sơ sinh và
trẻ nhỏ chủ yếu nhờ các tế bào T sơ
nguyên (naive). Vì vậy, tế bào nhớ cần có
tích lũy về lượng và chất theo tuổi, nên ở
trẻ nhỏ, các thuốc tác động lên hiện
tượng đồng kích thích sẽ có hiệu quả cao
hơn so với trẻ lớn ở khả năng dung nạp
miễn dịch. Tuy vậy, trẻ nhỏ lại nhạy cảm
hơn với tình trạng nhiễm siêu vi và nhiễm
nấm cơ hội. Đối với nhóm kháng nguyên
là carbohydrate như kháng nguyên nhóm
máu ABO, saccharide khác loài thì trẻ nhỏ
có đáp ứng kém. Đáp ứng của tế bào B
đối với kháng nguyên carbonhydrate còn
bị thiếu vắng trong nhiều năm đầu đời.
West nhận thấy trẻ nhũ nhi dung nạp với
ghép tim khác nhóm máu tốt hơn trẻ lớn
và người lớn [12].
2. Sự kích hoạt tế bào B.
Đây là nền tảng của cơ chế bệnh sinh
trong TGTD và các vấn đề liên quan đến
điều trị. Tế bào B bị kích hoạt thông qua
3 con đường: thông qua tế bào T với CD40
ligand; kích hoạt đa dòng tế bào B không
lệ thuộc tế bào T týp 1 (hình 2): đòi hỏi
cần có các tín hiệu của TLR (Toll like
receptor) dưới sự kích hoạt của
endotoxin; kích hoạt tế bào B không lệ
thuộc tế bào T týp 2 (hình 3): do các
kháng nguyên nhóm saccharides ABO,
kháng nguyên vỏ của phế cầu...
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
46
Hình 2: Kích hoạt tế bào B lệ thuộc T [6].
3. Kích hoạt tế bào B lệ thuộc tế bào T.
Trong TGTD, kháng thể kháng HLA
đặc hiệu với người cho (DSA - donor
specific antibody), là tác nhân chính gây
kích hoạt tế bào B thông qua con đường
thứ nhất là lệ thuộc tế bào T. Vì vậy, một
trong những nguyên tắc điều trị TGTD là
củng cố thuốc ức chế tế bào T [2, 10].
Kháng nguyên là peptid của MHC, đặc
biệt là MHC nhóm II. Ngoài ra, có thể có
các kháng thể kháng ABO tham gia,
kháng receptor týp 1 đối với angiotensine
II, kháng tế bào nội mạc, minor HLA.
Hình 3: Kích hoạt tế bào B không lệ thuộc.
Tế bào B bị kích hoạt khi tế bào T trợ
giúp (Th) gắn với phân tử đồng kích thích
CD40 và/hoặc interleukin hòa tan, đồng
thời để trở nên hiệu quả, Th cần được
kích hoạt bởi APC (Antigen presenting
cell) mang peptid của MHC đến trình diện
ở TCR (T cell receptor). Đáp ứng tạo
kháng thể sẽ mất 2 - 3 tuần, đồng thời
cũng tạo nên dòng tế bào nhớ. Như vậy,
lần sau khi tiếp xúc lại với kháng nguyên
MHC này, đáp ứng tạo kháng thể sẽ
nhanh và mạnh hơn nhiều lần [11].
Kháng thể kháng HLA được tạo thành
sau ghép và đã có trước ghép, là tác
nhân gây TGTD. Tuy vậy, nguy cơ TGTD
sẽ cao hơn ở nhóm có kháng thể kháng
HLA mới hình thành (denovo DSA). Phức
hợp kháng nguyên kháng thể khi gắn kết
sẽ kích hoạt dòng thác bổ thể, từ đó tấn
công màng từ bổ thể và chất hoạt hóa
tiểu cầu dẫn đến thuyên tắc, tăng sinh tế
bào nội mạc mạch máu; các tế bào viêm
đại thực bào, bạch cầu đa nhân bị thu hút
tạo ra các yếu tố tại chỗ, cytokine, phân
tử dính tế bào gây phá hủy mảnh ghép
(hình 4).
Thải ghép tối cấp là tình trạng hoạt
hóa rất nhanh của dòng thác bổ thể vào
thời điểm tái tưới máu, xuất hiện rất
nhanh trong vài phút, do phức hợp tấn
công màng tràn vào nội mạc mạch máu
của mô ghép gây phá hủy lập tức mô
ghép. Thải ghép tối cấp thường do người
nhận đã có sẵn lượng lớn kháng thể
kháng HLA chống lại người cho trong cơ
thể và nhanh chóng kích hoạt bổ thể khi
tái tưới máu. Về mặt lý thuyết,
immunoglobuline (IVIG) có tác dụng làm
phân ly bổ thể khỏi bề mặt tế bào, sẽ có
hiệu quả trong các trường hợp này, tuy
nhiên trên thực tế, mảnh ghép bị hoại tử
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
47
và thuyên tắc trầm trọng, do đó phải lấy đi
trong đa số trường hợp [3, 7].
Hình 4: Cơ chế phá hủy mảnh ghép trong
thải ghép thể dịch.
(nguồn: Nat Rev Nephrol 2012-8-235-257)
Khác với thải ghép tối cấp, TGTD cấp
có thời gian hình thành từ vài ngày đến
vài tuần tuân theo trình tự hoạt hóa tế
bào B thông qua tế bào T. Thải ghép tiến
triển nhanh cũng là một dạng TGTD
nặng, xuất hiện sớm và nặng vài ngày
sau ghép, do các tế bào nhớ có sẵn bị
kích hoạt [3, 6, 7].
Sự hiện diện của C4d trên mạch máu
của mảnh ghép là bằng chứng của tình
trạng tổn thương nội mạc do hoạt hóa bổ
thể. C4d được tạo ra khi protein C4 gắn
vào phân tử bề mặt của tế bào bằng cầu
nối amide hoặc ester, sau đó bị phân ly
bởi protease thành dạng không hoạt tính.
C4d có thể gắn trên màng trong rất nhiều
tuần và là bằng chứng của tình trạng
TGTD đã từng xảy ra. C4d hiện diện
chứng tỏ đã có bổ thể bị hoạt hóa trên bề
mặt mạch máu, tuy nhiên cần thận trọng
khi nêu ra mối quan hệ giữa C4d và
TGTD, vì đôi khi C4d cũng có “lợi” cho
mảnh ghép, như trong hiện tượng mảnh
ghép thích ứng [7, 9].
Sự hiện diện của kháng thể kháng
HLA đặc hiệu với mảnh ghép (DSA) là
một trong ba bằng chứng giúp chẩn đoán
TGTD. Tuy nhiên, vài trường hợp không
tìm thấy các kháng thể này. Có hai lý giải
cho điều này: các kháng thể đã được tái
hấp thu và lắng đọng tại mảnh ghép; cơ
chế thải ghép không do kháng thể kháng
HLA.
Các kháng thể gây TGTD không phải
kháng HLA bao gồm kháng thể kháng tế
bào nội mô (AECA - antiendothelial cell
antibody). CMV được xem là tác nhân
làm tăng đáp ứng tạo kháng thể đa dòng
với tế bào nội mô. Gần đây, người ta cho
rằng kháng thể kháng AT1 (angiotensin
type 1 receptor) là kháng thể kháng tế
bào nội mô chủ yếu. Dragun và CS mô tả
16 ca lâm sàng có TGTD với C4d âm
tính, kháng trị với thymoglobuline và
steroid. Đáp ứng với thay huyết tương,
IVIG và rituximab còn chưa rõ ràng. Bệnh
nhân (BN) đều có biểu hiện suy giảm
chức năng thận ghép kèm theo cao huyết
áp ác tính và thuyên tắc huyết khối [3].
4. Kích hoạt tế bào B không lệ thuộc
tế bào T.
Điều này góp phần trả lời cho câu hỏi
tại sao các thuốc điều hòa miễn dịch hiện
nay tác động rất tốt lên tế bào T nhưng
vẫn còn xảy ra TGTD.
Tế bào B vẫn có thể bị kích hoạt không
cần thông qua tế bào T:
- Kháng nguyên dạng lipopolysaccharide
(LPS) như vi khuẩn Gram âm kích hoạt
trực tiếp TLR (độc lập T týp 1).
- Kháng nguyên dạng polysaccharide
như vỏ bọc của Pneumococcus kích hoạt
B thông qua receptor đặc hiệu của kháng
nguyên (độc lập T týp 2) (hình 3).
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
48
Khác với con đường lệ thuộc T, sự
kích hoạt dạng này tạo ra đáp ứng sinh
kháng thể một cách nhanh chóng trong
vài ngày nhưng không tạo được khả năng
nhớ [7].
5. Sự điều hòa tế bào B [11].
Cho đến nay vẫn còn nhiều giả thuyết
trong cơ chế điều hòa tế bào B:
- Các kháng nguyên monomeric hòa
tan tự nó có thể điều hòa hoạt động của
tế bào B, xuất hiện khi tế bào B bị kích
hoạt bởi tín hiệu đồng kích thích. Điều
này quan sát thấy trong ghép gan, trong
đó các kháng nguyên hòa tan gây ức chế
tế bào B, ghép gan được xem như ghép
có đáp ứng đồng miễn dịch (alloimmune).
- Vai trò của phức hợp miễn dịch và Fc
receptor của immunoglobuline.
- Vai trò của bổ thể C4b.
6. Hiện tượng mảnh ghép thích ứng.
Điều này không giống tình trạng dung
nạp mảnh ghép, trong đó cơ chế đáp ứng
miễn dịch với mảnh ghép bị xóa bỏ chọn
lọc. Hiện tượng này là một quá trình cân
bằng tinh tế vẫn còn đang nghiên cứu và
chưa hiểu rõ. Nhiều nghiên cứu thực
nghiệm trên động vật cho thấy trong hiện
tượng mảnh ghép thích ứng, kháng
nguyên của mảnh ghép và kháng thể có
thể bị thay đổi cấu trúc hóa học, thay đổi
lý tính dẫn đến gắn kết kém hiệu quả với
bổ thể, từ đó giảm hoặc mất đáp ứng
viêm. Trong mảnh ghép thích ứng, có
lắng đọng C4d nhưng không có phức hợp
C5b-C9 MAC (membrane attack complex).
Điều này mở ra hướng nghiên cứu mới
trong điều trị TGTD [7].
CƠ SỞ CHẨN ĐOÁN THẢI GHÉP
THỂ DỊCH
1. Hiện diện kháng thể kháng HLA
người cho mới xuất hiện (DSAdn).
DSA có thể phát hiện thông qua
nhiều kỹ thuật, trong đó độc tế bào lệ
thuộc bổ thể (complement-dependent
lymphocytotoxicity - CDC) là phương
pháp có chi phí thấp, thường được sử
dụng. Nhiều nghiên cứu cho thấy denovo
DSA là kháng thể kháng HLA người cho
mới phát hiện sau ghép, là yếu tố nguy
cơ dẫn đến TGTD và mất thận ghép.
Kháng thể kháng HLA cần được sàng lọc
thường quy mỗi 1, 3, 6, 12 tháng để phát
hiện sớm nhóm nguy cơ cao. Trong sàng
lọc kháng thể kháng HLA, huyết thanh
của người nhận sẽ hòa với lympho T và B
đã định danh HLA. Xét nghiệm tìm kháng
nguyên pha cứng là phương pháp có độ
nhạy và đặc hiệu cao, sử dụng các hạt
gắn HLA thay cho tế bào lympho và cho
kêt quả định lượng theo MFI (mean
fluorescent intensity).
Sàng lọc crossmatch bằng phương
pháp flow cytometry cho phép phát hiện
thông qua huỳnh quang khi hòa tan huyết
thanh BN với tế bào lympho đã đánh dấu
huỳnh quang.
Nghiên cứu của Wiebe (2015) trên
1.091 BN cho thấy các yếu tố tiên đoán
độc lập về mất thận ghép ở BN có
denovo DSA bao gồm: chậm hoạt động
mảnh ghép, kém tuân thủ điều trị, tổng số
MFI, viêm ống thận và bệnh lý cầu thận
mạn. Thời gian 50% mất mảnh ghép ở
nhóm có denovo DSA là 3,3 năm so với
8,3 năm ở nhóm DSA âm [14]. Tuy vậy,
cũng có nghiên cứu cho thấy chức năng
thận vẫn ổn định kéo dài mặc dù có DSA
dương tính [15].
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
49
2. Lắng đọng C4d ở mảnh ghép.
Phương pháp miễn dịch huỳnh quang
gián tiếp sử dụng kháng thể đơn dòng
kháng C4d trên mô cắt lạnh có độ nhạy
cao hơn hóa mô miễn dịch peroxidase.
C4d có thể cho kết quả âm tính giả khi có
hiện tượng thiếu tưới máu mô như khi có
hoại tử ống thận cấp hoặc chậm hoạt
động mảnh ghép kèm theo.
Phân loại bổ sung của Banff (1997)
cho phép chẩn đoán TGTD mà không có
C4d dương tính. Nghiên cứu của
Mongomery (2016) còn cho thấy nhóm có
C4d âm tính sẽ có biểu hiện lâm sàng
muộn hơn nhóm C4d dương tính.
3. Tổn thương giải phẫu bệnh.
Theo đồng thuận mới từ Banff (2015),
bằng chứng tổn thương mô trong TGTD
khi có một trong các biểu hiện sau:
- Viêm vi mạch.
- Viêm lớp áo trong hoặc viêm xuyên
thành động mạch.
- Thuyên tắc vi mạch huyết khối.
- Tổn thương ống thận cấp.
CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG ĐIỀU TRỊ
TGTD VÀ PHẢN BIỆN [3, 6, 9]
1. Anti-CD20: Rituximab.
Rituximab là một kháng thể đơn dòng
kháng CD20, được thể hiện trên bề mặt
các tế bào lympho B trưởng thành, tuy
nhiên CD20 không có trên bề mặt tương
bào. Rituximab được sử dụng điều trị
trong nhiều loại bệnh lý ung thư và tự
miễn. Ngoài khả năng tiêu diệt tế bào B,
lợi ích của rituximab còn ở khả năng điều
hòa miễn dịch. Sau sử dụng rituximab
1 - 3 ngày, số lượng tế bào B sẽ giảm
đáng kể. Kháng thể kháng CD20 chỉ tác
động vào dòng tế bào lympho B khi chúng
chưa biệt hóa thành tương bào, trong khi
chính tương bào lại là tế bào chính sản
xuất ra kháng thể. Vì vậy, việc sử dụng
anti-CD20 chỉ dừng lại ở vai trò ức chế tế
bào lympho B trưởng thành và dòng tế
bào B nhớ. Rituximab được chứng minh
có hiệu quả trong 75% trường hợp TGTD.
Có nhiều báo cáo liên quan đến tác dụng
phụ khi sử dụng rituximab như tổn
thương phổi (RALI - rituximab associated
lung injury), nhiễm cơ hội CMV, nấm,
Polyoma virut.
2. Immunoglobuline.
Immunoglobuline (IVIG) được xem là
chất điều hòa miễn dịch và điều hòa phản
ứng viêm tự nhiên. IVIG tham gia vào
điều trị TGTD thông qua nhiều cơ chế
như: khóa phần Fc receptor trên cấu trúc
kháng thể, ức chế chức năng tế bào B,
tách bổ thể khỏi gắn kết vào bề mặt tế
bào nội mô, ức chế gắn kết kháng
nguyên với kháng thể, ức chế hoạt hóa
dòng thác bổ thể.
Vai trò của IVIG trong phòng ngừa tổn
thương mô do hiện tượng thiếu máu nuôi
- tái tưới máu: trên thực nghiệm, IVIG
được cho là “giỏ rác” giúp làm sạch C3b
vốn là hóa chất trung gian chính của tổn
thương não sau đột quỵ. Động vật được
truyền IVIG trước hoặc trong vòng 1 - 2
giờ sau đột quỵ có mức độ tổn thương do
nhồi máu thấp hơn nhóm chứng.
Trên thực tế, IVIG là một thành phần
chính của điều trị TGTD cũng như phác
đồ giải mẫn cảm. Khả năng đáp ứng với
IVIG thay đổi tùy nghiên cứu (từ 50 -
80%). Đa số đồng thuận với sử dụng liều
đơn 2 g/kg, một số tác giả chọn sử dụng
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
50
liều 100 - 500 mg/kg/lần cách ngày đến
khi khi có hiệu quả. IVIG thường sử dụng
kèm các phương pháp trị liệu khác như
steroid, thay huyết tương. Nghiên cứu
của Lefaucher cho thấy giữa hai nhóm bị
TGTD được điều trị bằng IVIG liều cao
đơn độc và sử dụng phối hợp IVIG,
rituximab, thay huyết tương, nhóm điều trị
phối hợp có tỷ lệ sống còn mảnh ghép
cao hơn (91,7% so với 50%). Các nhà
lâm sàng cần cân nhắc tác dụng phụ của
IVIG, bao gồm lây nhiễm virut, prion, và
các phản ứng phản vệ, thuyên tắc, tổn
thương thận cấp.
3. Thay huyết tương.
Thay huyết tương giúp lấy đi nhanh
chóng khỏi cơ thể các kháng thể kháng
mảnh ghép, được xem là phương pháp
nền tảng trong điều trị TGTD (hình 5).
Phương pháp thay huyết tương kết hợp
IVIG cho thấy hiệu quả 80 - 90%,
80% mảnh ghép sống sau ghép 18 tháng.
Phương pháp thay huyết tương miễn dịch
hấp phụ có tác dụng lấy đi có chọn lọc
các IgG nhưng chưa được áp dụng
thường quy. Lưu ý, bên cạnh việc lấy đi
kháng thể kháng mảnh ghép, thay huyết
tương có thể lấy đi những chất hòa tan
được cho là “có ích” cho quá trình thích
ứng của mảnh ghép như C4b.
Hình 5: Quy trình điều trị TGTD
ở trẻ em [7].
4. Các phương pháp khác.
Cắt lách: trong một số trường hợp đơn
lẻ, đây là biện pháp điều trị cứu nguy và
có hiệu quả [5].
Bortezomib là chất ức chế proteasome
gây ra hiện tượng chết theo chương trình
của tương bào, từ đó dẫn đến giảm sản
xuất kháng thể. Gần đây, bortezomib
được chứng minh có thể sử dụng trên trẻ
em và không gây tác dụng phụ nguy hiểm
đến tính mạng [1, 8].
Eculizumab (alexion) là kháng thể đơn
dòng lai người ức chế kích hoạt C5, từ đó
ngăn ngừa tạo ra phức hợp tấn công
màng C5b-C9. Trong TGTD, thuốc vẫn
đang được nghiên cứu [9].
KẾT LUẬN
Thải ghép thể dịch là một vấn đề quan
trọng mà các nhà lâm sàng và nghiên cứu
ghép tạng cần lưu tâm. Việc hiểu biết cơ
chế sinh lý bệnh sẽ giúp các nhà lâm
sàng có lựa chọn thuốc điều hòa miễn
dịch đúng đắn và thái độ theo dõi thích
hợp. Đối với các nhà nghiên cứu, đây là
lĩnh vực có nhiều hướng mở ra cho
tương lai. Trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ là một
lĩnh vực có đáp ứng miễn dịch đặc biệt,
cần tập trung nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Donna J Claes, Hong Yin, Jens Goebe.
Protective immunity and use of bortezomib for
antibody-mediated rejection in a pediatric
kidney transplant recipient. Pediatr
Transplant. June 2014, 18 (4), pp.100-105.
2. Krischock L, Marks S.D. Induction
therapy: Why, when, and which agent?. Pediatr
Transplant. May 2010, 14 (3), pp.298-313.
t¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè chuyªn ®Ò ghÐp t¹ng - 2018
51
3. Kim et al. Antibody-mediated rejection
in kidney transplantation: A review of
pathophysiology, diagnosis, and treatment
options. Pharmacotherapy. 2014. doi:
10.1002/phar.1426.
4. Lars Pape, Jan U Becker, Stephan
Immenschuh. Acute and chronic antibody-
mediated rejection in pediatric kidney
transplantation. Thurid Ahlenstiel in Pediatric
Nephrology. 2015.
5. Leah Krischock, Stephen D Marks.
Succesful rescue of refractory acute antibody-
mediated renal allograft rejection with
splenectomy: A case report. Pediatr
Transplant. March 2012, 16 (2), pp.49-52.
6. Marilia Cascalho, Jeffrey L Platt. Basic
mechanisms of humoral rejection. Pediatr
Transplant. February 2005, 9 (1), pp.9-16.
7. Robert B Colvin. Antibody-mediated
renal allograft rejection: Diagnosis and
pathogenesis. J Am Soc Nephrol. 2007, 18,
pp.1046-1056.
8. Sarah Kizilbash et al. Bortezomib in the
treatment of antibody-mediated rejection in
pediatric kidney transplant recipients: A
multicenter Midwest pediatric nephrology
consortium study. Pediatric Transplantation.
2017. doi: 10.1111/petr.12873.
9. Stanley C Jordan, Nancy Reinsmoen,
Alice Peng, Chih-Hung Lai. Advances in
diagnosing and managing antibody-mediated
rejection. Pediatr Nephrol. 2010. doi:
10.1007/s00467-009-1386-4.
10. Tracy Coelho, Michael Tredger,
Anil Dhawan. Current status of
immunosuppressive agents for solid organ
transplantation in children. Pediatr Transplant.
March 2012, 16 (2), pp.106-122.
11. Valeriya Zarkhina, Geetha Chalasanib,
Minnie M Sarwala. The yin and yang of B cells
in graft rejection and tolerance. Transplantation
Reviews. 2010, 24, pp.67-78.
12. West L.J, Pollock-Barziv S.M, Dipchand
A.I et al. ABO-incompatible heart transplantation
in infants. N Engl J Med. 2001, 344, pp.793-800.
13. North American pediatric renal trials and
collaborative studies. Annual Transplant Report.
2010, Available at emmes.com.
14. Wiebe et al. Rates and determinants of
progression to graft failure in kidney allograft
recipients with de novo donor-specific antibody.
American Journal of Transplantation. 2015,
15, pp.2921-2930.
15. Cooper J.E, Gralla J, Chan L,
Wiseman A.C. Clinical significance of post
kidney transplant de novo DSA in otherwise
stable grafts. Clin Transpl. 2011, pp.359-364.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tong_quan_thai_ghep_the_dich_o_tre_em.pdf