Tài liệu Tổng quan FDI- Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Chương 1
Tổng quan FDI- đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm FDI
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với nhưng quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cở phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nư...
36 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1054 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tổng quan FDI- Đầu tư trực tiếp nước ngoài, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
Tổng quan FDI- đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm FDI
Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với nhưng quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chứ trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó
Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một doanh nghiệp về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cở phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các QG nào đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nươc khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng và giáy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư.
1.2. Mối quan hệ giữa cơ cấu FDI với cơ cấu ngành kinh tế.
FDI là nguồn lực từ bên ngoài được đưa và nước sở tại và sử dụng những nguồn lực nhất định của nước sở tại để tạo ra các sản phẩm hàng hoá, cung ứng các dịch vụ. FDI là nguồn vốn từ bên ngoài vào nên nó đòi hỏi nước sở tại phải có khả năng để cho nó vận động được. Đầu tư nước ngoài hình thành nên những ngành nghề mới tham gia vào sự phân công lao động quốc tế tạo nên sự phân công mới trong nền kinh tế do đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế. FDI gây nên đột biến trong cơ cấu kinh tế.
1.2.1. FDI làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế:
1.2.1.2 Dạng trực tiếp:
-FDI hình thành nên những ngành kinh tế mớ mà nước sở tại chưa có. Bản thân điều này làm thay đổi tỉ trọng cơ cấu của các ngành tỏng một nền kinh tế, dù được sản xuất theo tiêu chuẩn nhóm chung nào đó.
-FDI tạo ra những nhu cầu mới trong nước sở tại đòi hỏi phải cso những biện pháp đáp ứng quyết liệt những nhu cầu đầu vào cơ bản không thể lấy từ nước khác thong qua con đường thương mại như điện nước, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Không có những thứ này thì FDI không hoạt động được.
-FDI thúc đẩy nhiều lĩnh vực cung cấp hạ tầng phải đi trước một bước với tôcs độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và kèm theo đó là nhu cầu tăng lên về nhưng sản phẩm trong nghành đó.
-FDI sẽ làm thúc đẩy các lĩnh vực tiêu dùng tăng lên, tạo khả nưng tiêu dùng mới của toàn xã hội nên làm tăng công suất hay nhu cầu mới về các hàng hoá dịch vụ mới. Điều này thúc đẩy các lĩnh vực khác phải chuyển biến để đáp ứng nhu cầu biến đổi và đang tăng lên.
-FDI thúc đẩy các đầu tư mới trong nước sở tại và làm tăng dung lượng thị trường là tiền đề để thu hút các FDI mới.
-FDI mang lại sự cạnh tranh mới cho các nguồn lực của xã hội, mang lại sự vận động mới trong cơ cấu kinh tế khi hàng loạt các vấn đề mới của sự phát triển mở ra khi tập trung hoá sản xuất, khi hìh thành nhên những mối liên kết kinh tế mới giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước để bảo vệ quyền lợi chung của ngành nghề chẳng hạn đề nghị nhà nước có những biện pháp bảo hộ ngành nghề…
-FDI thay đổi cách hành xử, làm tăng sự lựa chọn của các doanh nghiệp trong nước sở tại.
1.2.1.2 Dạng gián tiếp:
-FDI làm tăng quy mô của nền kinh tế, hi làm tăng quy mô ngành về lương tuyệt đối, cả theo giá trị lẫn hiện vật, làm trình độ khoa học, quản lí chuyển lên mức cao hơn. Do đó làm tăng theo nhiều ngành nghề mới, đấp ứng với nhu cầu của sự tăng trưởng trong kinh tế với sự gia tăng thu nhập của các tầng lớp dân cư có liên quản tới FDI
-FDI hình thành nên những thị trường đr lớn để thúc đẩy sự ra đời và phát triển những ngành công nghiệp phụ trợ theo các ngành mới đó. Và thị trường lớn này đòi hỏi phát triển nhiệu thị trường khác và kèm theo đó là những đầu tư mới của cả trong lẫn ngoài nước.
1.2.2. FDI buộc nước nhận đâu tư phải điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế
Sự hoạt động cảu FDI làm cho nước sở tại tham gia mạnh mẽ hơn vào quá trình phân công lao động quốc tế, làm cho nước sở tại có những quan niệm mới về thế mạnh, thế yếu của mình theo mức độ phát triển và có đối sách mới phát triển các nghành kinh tế có liên quan điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong nước, đồng thời có những biện pháp điều chình cơ cấu FDI hướng thu hút FDI và những ngành nghề có hàm lượng khoa học công nghệ cao, bảo vệ được môi trường. Điều này làm nổi bật vai trò của đầu tư nước ngoài. Đối tác nước ngoài có nhu cầu thì học có tính toàn riêng. Nước nhận đầu tư sẽ có những vấn đề để tăng lợi thế địa điểm, có vai trò chủ động của nhà nước trong sự hình thành các thị trường trong nước.
1.3. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Khái niệm
Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là cách thức nhà đầu tư ở một nước có thể và được phép áp dụng để chuyển đổi quyền sở hữu vốn (bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào) của mìh thành quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát môt thực thể kinh tế ở một nước khác.
Các hình thức FDI phổ biến và đặc trưng cơ bản của chúng:
1.3.1 Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh với nươc ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay. Nó công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệ quả thông qua hoạt động hợp tác
Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh donah có tính chất quốc tế, hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thốgn tài chính, luật pháp và bản sác văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên về vốn, quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có thể xảy ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt đọng nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
Đối với nước tiệp nhận đầu tư
-Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hoá sp, đổi mới Công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho ngưòi lao động làm việc và học tập kinh nghiệm quản lí của nước ngoài
-Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo vác vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, thường xuất hiện mẫu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp; đối tác nước ngoài thương quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi lcú liên doanh phải chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.; thay đổi nhân sự ở cty mẹ có ảnh hưởng tới tương lai phát triển của liên doanh.
Đối với nhà dầu tư nước ngoài;
-Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại; được đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lình vực bị cấm hoặc hạn chế đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập được những thị trường truyền thống của nước chủ nhà. Không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ. Chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư
Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đtư, định giá tài sản góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong nước; không chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội kinh doanh khó giải quyết khác biệt vè tập quán, văn hoá.
1.3.2 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cũng là một hình thức doanh nghiệp có vốn đtư nước ngoài nhưng ít phổ biến hơn hình thức liên doanh trong hoạt động đầu tư quốc tế.
Khái niệm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư cáhc pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước sở tại.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng vẫn phải tuỳ thuộc vào các điều kiện về môi trường kinh doanh của nước sở tại, đó là các đk về chính trị, kt luạt háp văn hoá mức độ cạnh tranh…
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân là 1 thự thể pháp lý độc lập hoạt động theo luật pháp nước sở tại. Thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Đối với nước tiếp nhận:
-Ưu điểm: nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù DN bị lỗ; giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập trung thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những linh vực khuyến khích xuất khảu; tiếp cận được thị trường nước ngoài
-Nhược điểm: khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài đê nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh nghiệp trong nước.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài
-Ưu điểm: chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp thực hiện được chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh dự án đầu tư; được quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển chung của tập đoàn
-Nhược điểm: chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải chi phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước nước sở tại.
1.3.2. Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hình thức này là hình thức đầu tư trong đó các bên quy trách nhiệm và phân hia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được kí kết giứa đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, quy định rõ việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên
Đặc điểm là các bên kí kết hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong qúa trình kinh doanh các bên hợp doanh có thể thành lập ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phân chia kết quả kinh doanh: hình thức hợp doanh không phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro mà phân chia kết quả kinh doanh chung theo tỷ lệ góp vốn hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Các bên hợp doanh thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước sở tại một cách riêng rẽ. Pháp lý hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo luật pháp nước sở tại chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. quyền lợ và nghĩa vụ của các bên hơp doanh đowjc ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đối với nước tiếp nhận:
-Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, thiếu cnghệ, tạo ra thị trường mới nhưng vấn đảm bảo được an ninh quốc gia và nắm được quyền đièu hành dự án
-Nhược điểm: khó thu hút đầu tư chỉ thực hiện được đv một số ít lĩnh vực dễ sinh lời
Đối với nước đầu tư:
-Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của dối tác nước sở tại vào được những linh vực hạn chế đầu tư thâm nhập được nhưng thị trường truyền thống của nước chủ nhà; không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ; không bị tác động lớn do khác biệt về văn hoá; chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư.
-Nhược điểm: không được trực tiếp quản lý điều hành dự án, quan hệ hợp tác với đối tá nước sở tại thiếu tính chắc chắn làm các nhà đầu tư e ngại.
1.3.4. Đầu tư theo hợp đồng BOT
BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao) là một thuật ngữ để chỉ một số mô hình hay một cấu trúc sử dụng đầu tư tư nhan để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng vẫn được dành riêng cho khu vực nhà nước. Trong một dự án xây dựng BOT, một doanh nhân tư nhân được đặc quyền xây dựng và vận hành một công trình mà thường do chính phủ thực hiện. Công trình này có thể là nhà máy điện, sân bay, cầu, cầu đường… Vào cuối giai đoạn vận hành doanh nghiệp tư nhân sẽ chuyển quyền sở hữu dự án về cho chính phủ. Ngoài hợp đồng BOT còn có BTO, BT.
Hợp đồng BOT là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâgn cấp, hiện đại hoá công trình) và kin doanh trong một thời gian nhất định đẻ thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý, sau đó chuyển gioa không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Hợp đồng xây dựng chuyển giao kinh doanh BTO và hợp đồng xây dựng chuyển giao BT, được hình thành tương tự như hợp đồng BOT nhưng có điểm khác là: đối với hợp đồng BTO sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chinh phủ nước chủ nhà dành cho quyền kinh doanh công trình đó hoặc công trình khác trong một thời gian đủ để hoàn lại toàn bộ vốn đầu tư và có lợi nhuận thoả đáng về công trình đã xây dựng và chuyển giao.
Đối với hợp đồng BT, sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao lại cho nước chủ nhà và được chính phủ nước chủ nhà thanh toán bằng tiền hoặc bằng tài sản nào đó tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ ra và một tỉ lệ lợi nhuận hợp lí.
Doanh nghiệp được thành lập thực hiện hợp đòng BOT, BTO, BT mặc dù hợp đồng dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhưng đối tác cùng thực hiện hợp đòng là các cơ quan quản lí nhà nước ở nước sở tại. Lĩnh vực hợp đồng hẹp hơn các doanh nghiệp FDI khác, chủ yếu áp dụng cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng; được hưởng các ưu đãi đầu tư cao hơn sơ với các hình thức đầu tư khác và điểm đặc biệt là khi hết hạn hoạt đọng, phải chuyển giao không bồi hoàn công trình cơ sở hạn tầng đã được xây dựng và khai thác cho nước sở tại
Đối với nước chủ nhà:
-Ưu điểm: thu hút được vốn đầu tư vào những dự án co9ư sở hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời nhanh chóng có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các nguồn lực trong nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế.
-Nhược điểm: khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lí và khó kiểm soát công trình. Mặt khác, nhà nước phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu tư.
Đối với đầu tư nước ngoài:
-Ưu điểm: hiệu quả sử dụng vốn được bảo đảm; chủ động quản lí, điều hành và tự chủ kinh doanh lợi nhuận, hông bị chia sẻ và được nhà nước sở tại đảm bảo, tránh những rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát.
-Nhược điểm: việc đàm phán và thực thi hợp đồng BOT thương gặp nhiều khó khăn tốn kém nhiều thời gian và công sức.
1.3.5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con (Holding company)
Holding company là một trong những mô hình tổ chức quản lí được thừa nhận rộng rãi ở hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Holding company là một công ty sở hữu vốn trong một công ty khác ở mức đủ để kiểm soát hoạt động quản lí và điều hành công ty đó thông qua việc gây ảnh hưởng hoặc lựa chọn thành viên hợp đồng quản trị.
Holding company được thành lập dưới dạng công ty cổ phần và chỉ giới hạn hoạt động của mình trong việc sở hữu vốn, quyết định chiến lược và giám sát hoạt động quản lí của các công ty con, các công ty con vẫn duy trì quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của mình một cách độc lập, tạo rất nhiều thuận lợi:
-Cho phép các nhà đầu tư huy động vốn để triển khai nhiều dự án đầu tư khác nhau mà còn tạo điểu kiện thuận lợi cho họ điều phối hoạt động và hỗ trợ các công ty trực thuộc trong việc tiêps thị, tiệu thụ hàng hoá, điều tiết chi phí thu nhập và các nghiệp vụ tài chính.
-Quản lí các khoản vốn góp của mình trong công ty khác như một thể thống nhất và chịu trách nhiệm về vịec ra quyết định và lập kế hoạch chiến lược điều phối các hoạt động và tài chính của cả nhóm công ty.
-Lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm soát các luồng lưu chuyển vốn trong danh mục đầu tư. Holding company có thể thực hiện cả hoạt động tài trợ đầu tư cho các công ty con và cung cấp dịch vụ tài chính nội bộ cho các công ty này.
-Cung cấp cho các công ty con các dịch vụ như kiểm toán nội bộ, quan hệ đối ngoại, phát triển thị trường, lập kế hoạch, nghiên cứu và phát triển (R&D)…
1.3.6. Hình thức công ty cổ phần
Công ty cổ phần (công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn)là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp cổ đông có thể là tổ chức cá nhân với số lượng tối đa không hạn chế, nhưng phải đáp ứng yêu cầu về số cổ đông tối thiểu. Đặc trưng của công ty cổ phần là nó có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
Cơ cấu tổ chức, công ty cổ phần phải có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc. Thông thường ở nhiều nước trên thế giới, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phiếu thường có quyền tham gia gimá sát quản lý hoạt dộng của cty cổ phần. Đại hôi cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết là co quan quyết định cao nhất của cty cổ phần
Ở một số nước khác, cty cổ phần hữu hạn có vốn đầu nước ngoài được thành lập theo cách: thành lập mới, cổ phần hoá doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của doanh nghiệp trong nước cổ phần hoá.
1.3.7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài
Hình thức này được phân biệt với hình thức cty con 100% vốn nước ngoài ở chỗ chi nhánh không được coi là một pháp nhân độc lập trong khi cty con thường là một pháp nhân độc lập. Trách nhiệm của cty con thường giới hạn trong phạm vi tài sản ở nước sở tại, trong khi trách nhiẹm của chi nhánh theo quy định của 1 ố nước, không chỉ giới hạn trong phạm vi tài sản của chi nhánh, mà còn được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài.
Chi nhánh được phép khấu trừ các khoản lỗ ở nước sở tại và các khoản chi phí thành lập ban đầu vào các khoản thu nhập của cty mẹ tại nước ngoài. Ngoài ra chi nhánh còn được khấu trừ một phần các chi phí qunả lý của cty mẹ ở nước ngoài vào phàn thu nhập chịu thuế ở nước sở tại
Việc thành lập chi nhánh thường đơn giản hơn so với việc thành lập công ty con. Do không thành lập 1 pháp nhân độc lập, việc thành lập chi nhánh không phải tuân thủ theo các quy định về thành lập công ty, thường chỉ thông qua việc đăng kí tại các cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà
1.3.8. Hình thức công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về nghĩa vụ của cty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của cty trong phạm vi số vốn đã góp vào cty. Cty hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lsy công ty, còn thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ quy định tại điều lệ cty nhưng không được tham gia quản lý cty và hoạt động kinh doanh nhân danh cty.
Khác với doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hình thức đầu tư này mang đặc trưng của cty đối nhân tiền về thân nhân trách nhiệm vô hạn, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ. Hình thức đầu tư này trước hết rất phù hợp với các doanh nghiệp nhỏ, nhưng vì có những ưu điểm rõ rêt nên cũng được các doanh nghiệp lớn quan tâm.
Việc cho ra đời hình thức cty hợp danh ỏ các nước nhăm tao thêm cơ hội cho nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư cho phù hợp với yều cầu, lợi ích của họ. Thực tế cho thấy một số loại hình dịch vụ như tư vấn pháp luật, khám chữa bệnh, thiết kế kiến trúc.. đã và đang phát triển nhanh chóng. Đó là những dịch vụ mà người tiêu dùng không thể kiểm tra được chất lượng cung ứng trước khi sử dụng, nhưng lại có ảnh hưởng đến sức khởe tính mạng và tài sản của người tiêu dùng khi sử dụng. Việc thành lập công ty hợp danh là hình thức thức đầu tư phù hợp trong việc phát triển và cung cấp các dịch vụ nêu trên. Trong đó những người có vốn đóng vai trò là thành viên góp vốn và chịu trách nhiệm hữu hạn còn các nhà chuyên môn là thàn viên hợp danh tổ chức điều hành, cung ứng dịch vụ và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của họ.
1.3.9. Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A)
Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa các TNC lớn và tập trung vào các lĩnh vự công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài chính ở các nước phát triển.
Mục đích chủ yếu :
-Khai thác lợi thế của thị trươg mới mà hoạt động thương mại quốc tế hay đầu tư mới theo kênh truyền thống không mang lại hiệu quả mong đợi. Hoạt động M&A tạo cho các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng hoạt động ra thị trường nước ngoài.
-Bằng con đường M&A, các TNC có thể sáp nhập các ty của mình với nhau hình thnàh một công ty khổng lồ hoạt độg trong nhiều lĩnh vự hay các công ty khác nhau cùng hoạt động trông một lĩnh vực có thể sáp nhập lại nhằm tăng khả năng cạnh tranh toàn cầu của tập đoàn
-Các công ty vì mục đích quốc tế hoá sản phẩm muốn lấp chỗ trống trong hệ thống phân phối của họ trên thị trường thế giới
-Thông qua cong đường M&A các ty có thể giảm chi phí từng lĩnh vực nghiên cứu và phát triển sản xuất, phân phối và lưu thông.
-M&A tao điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và cơ cấu ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó, hình thức này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp ở mọi quốc gia.
Hoạt động phân làm 3 loại:
-MA theo chiều ngang xảy ra khi 2 cty hoạt động trong cùng 1 lĩnh vực sx kinh doanh muốn hình thành 1 cty lớn hơn để tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường của cùng 1 loại mặt mà trc đó 2 cty cùng sx.
-MA theo chiều dọc diễn ra khi 2 cty hoạt động ở 2 lĩnh vự khác nhau nhưng cùng chịu sự chi phối của 1 cty mẹ, laọi hình MA này thwongf xảy ra ở các cty xuyên quốc gia
-MA theo hướng đa dạng hoá hay kết hợp thường xảy ra khi các ty lớn tiến hành sáp nhập với nhau với mục tiêu tối thiểu hoá rủi ro và tránh thiệt hại khi 1 cty tự thâm nhập thị trường.
So với đầu tư truyền thống, từ quan điểm của nước tiếp nhận đầu tư:
-Về bổ sung vốn đầu tư trong khi hình thức đầu tư truyền thống bổ ngày một lượng vốn FDI nhất định cho đầu tư phát triển thì hình thức MA chủ yếu chuyển sở hữu từ các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà cho các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, về dài hạn, hình thức này cũng thu hút mạnh được nguồn vốn từ bên ngoài cho nước chủ nhà nhờ mở rộng quy mô hoạt độn của doanh nghiệp.
-Về tạo việc làm, hình thức đầu tư truyền thống tạo ngay được việc làm cho nước chủ nhà, trong khi hình thức M&A không những không tạo được việc làm ngay mà còn có thể làm tang thêm tình trạng căng thẳng về việc làm (tăng thất nghiệp) cho nước chủ nhà. Tuy nhiên về lâu dài, tình trạng này có thể được cải thiện khi các doanh nghiệp mở rông quy mô sản xuất.
-Về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đầu tư truền thống tác động trực tiếp dến thay dổi cơ cấu knh tế thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới trong khi đó M&A không có tác động trong giai đoạn ngắn hạn
-Về cạnh tranh và an ninh quốc gia, trong khi đầu tư truyền thống thúc đẩy cạnh tranh thì M&A không tác động đáng kể đến tình trạng cạnh tranh về mặt ngắn hạn nhưng về dài hạn có thể làm tăng canh tranh độc quyền. Mặt khác, M&A có thể ảnh hưởng đến an ninh của nước chủ nhà nhiều hơn hình thức đư truyền thống vởi vì tài sản của nước chủ nhà được chuyển cho người nước ngoài.
Chương 2
Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài- FDI vào Việt Nam
2.1.Thành tựu và đóng góp của dự án FDI vào Việt Nam
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành(1988) đến hết ngày 28/02/2006, Việt Nam đã thu hút được trên 6.090 dự án(còn hiệu lực) với mức vốn đăng ký đạt hơn 52,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 28 tỷ USD.Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc dân;
Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận hữu cơ năng động của nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế . Đầu tư nước ngoài đã đóng góp 27% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xã hội và hơn 14% GDP của cả nước, tạo them việc làm cho hơn 80 vạn lao động trực tiếp và hang chục vạn lao động gián tiếp khác.
Khu vực FDI đẫ làm tăng khả năng cung ứng hang hoá cho thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu hang hoá thiết yếu , góp phần bình ổn thị trường, nâng cao đời sống xã hội.Mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào thu ngân sách ngày càng tăng về giá trị tuyệt đối và tương đối, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi .Trong thơi gian vừa qua, dòng ngoại tệ vào Việt Nam thong qua FDI vẫn lớn hơn rất nhiều dòng ngoại tệ từ Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; cộng thêm việc mở rộng nguồn thu gián tiếp từ FDI (qua khách thăm quan, tìm hiểu cơ hội đầu tư, tiền cho thuê đất, tiền lương cho lao động thuộc khu vực đầu tư nước ngoài, tiền cung cấp nguyên vật liệu địa phương và các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ khác) đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước.
Mặc dù phần lớn doanh nghiệp FDI đang trong thời kỳ hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực FDI lien tục tăng, tính bình quân chiếm từ 7-8% nguồn thu ngân sách (nếu tính cả nguồn thu từ dầu khí, tỷ lệ này đạt gần 30% thu ngân sách).
Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây (2001-2005),các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu khoảng 74,061USD.Xuất khẩu cảu khu vực doanh nghiệp có vốn FDI tăng bình quân 20%/năm, đã làm cho tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước tăng lien tục trong các năm qua.So sánh giá trị xuất khẩu và đóng góp cho GDP như trên với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội mới thấy hết hiệu quả của khu vưc kinh tế có vốn ĐTNN.Chính vì vậy, cần phải khuyến khích các dự án ĐTNN hoàn thành và đưa vào sử dụng, vì những dự án này sẽ mang lại lơiích lớn về kinh tế cho đất nước, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước.Chỉ tính riêng trong năm 2005 đã đạt tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD( không kể dầu khí), ngang bằng năm 2004. Hơn nữa cả vốn và lao động được bồi bổ them đáng kể.Cụ thể là trong năm 2005, khu vực kinh tế ĐTNN đã thực hiện được 6,338 tỷ USD vốn đầu tư , tăng trên 50% so với năm 2004.
Nhờ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng cao hơn mà trong năm 2005, chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực ĐTNN đã đề nghị va được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng them vốn đầu tư để mở rộng quy mô hoạt động, với tổng vốn đầu tư tăng them 2,070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm trước. Điều đó cho thấy, nhiều nhà ĐTNN muốn làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
Theo một báo cáo của Bộ KH&ĐT, trong 5 tháng đầu năm nay cả nước đã thu hút them hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung của những dự án cũ.Trong đó, riêng phần mới cấp phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 2 tỷ USD,tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trước.Lĩnh vực công nghiệp và xây dưng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng số vốn đăng ký mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1%và 33,4%; phần còn còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm- thuỷ sản. Đáng chú ý, trong số dự án cấp giấy phép không chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, và còn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ cao, như tập đoàn Intel 605 triệu USD, Công ty Tây Hồ Tây 314 triệuUSD, Winvest Invesment 300 triệuUSD,công ty PanasonicCommution 76,36 triệu USD...
Cũng theo báo cáo trên,doanh thu (không kể dầu khí) cảu các doanh nghiệp FDI trong tháng 5/2006 ước đạt 2,55 tỷ USD, đưa tổng doanh thu của khu vực FDI trong năm tháng đầu năm 2006 lên 9,8 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2005.Trong năm tháng đầu năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao, đạt 18% so với cùng kỳ năm trước, vượt trội so với mức tăng trưởng chung 15,9% của toàn ngành công nghiệp.Kim ngạch xuất khẩu hang hoá của các doanh nghiệp FDI trong 5 tháng đầu năm 2006 tăng 29,5% so với cùng kỳ năm trước, cũng vượt trội so với mức tăng trưởng chung của cả nước là 24,3%.
Sau một năm, kể từ tháng 5/2005 đến nay, không kể dầu khí, tỷ trọng của doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước(theo giá sánh năm 1994) đã tăng từ 28,9% lên gần 30,3%; đồng thời trong tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cũng tăng từ 32,76% lên gần 35,77%. Mặt khác, tổng số lao động trực tiếp trong khu vực FDI đã gia tăng từ 819.000 người ở thời điểm cuối tháng 5/2005 lên 1.057.000 người hiện nay.
Kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, xu hưóng dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Các vùng trọng điểm kinh tế vẫn là đầu tàu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực phát triển kinh tế của nước ta,tạo sức lan toả của đầu tư nước ngoài sang những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.Chỉ tính riêng trong năm 2005(tinh đến ngày 20/12/2005)trong tổng số 798 dự án được cấp phép, ngoại trừ 1 dự án dầu khí ngoài khơi thì 797 dự án còn lại được thực hiện trên 40 ỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.Dẫn đầu là TPHCM với 243 dự án được cấp phép,tỉnh Bình Dương với 140 dự án,tỉnh Đồng Nai với87 dự ánvà tỉnh Tây Ninh với 26 dự án .Tại khu vực phía bắc, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên là các địa phương dẫn đầu vê số dự án FDI được cấp phép hoạt động, trong đó Hà Nội có 103 dự án,Vĩnh Phúc 24 dự án ,Hải Phòng có 21 dự án.Các tỉnh có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn cũng thu hút được các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài như Lào Cai 5 dự án,Cao Bằng 3 dự án, Đắc Nông 2 dự án…
Cơ cấu đầu tư nước ngoài trong năm nay đã có sự chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh vực dĩch vụ, chỉ tính riêng năm 2005(tính đến ngày 20/12/2005),số dự án ĐTNN đầu tư vào ngành dịch vụ cấp mới là 193 dự án chiếm 24,19% với tổng vốn đầu tư gần 1,5 tỷ USD và 50 dự án tăng vốn chiếm 9,77% với tổng vốn tăng thêm gần 228 triệu USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài(Bộ Kế hoạch và Đầu tư), nhiều dự án lớn về đầu tư nước ngoài sẽ đổ vào Việt Nam trong thời gian tới.Dự kiến năm 2007 cả nước sẽ thu hút trên 12 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong tháng 2/2007 có 38 lượt dự án bổ sung thêm vốn với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 360 triệu USD gấp 3 lần tổng vốn tăng thêm so với cùng kỳ 2006
Thái Lan là nhà đầu tư có số vốn đăng ký lớn nhất trong 2 tháng đầu năm 2007, chiếm 33,8% tổng vốn đăng ký(dự án giấy Kraf Vina của tập đoàn SCG SamCement tại Bình Dương với số vốn 220 triệu USD).
Vốn đầu tư đăng ký tập trung vào lĩnh vực công nghiệpchiếm 49% dich vụ chiếm 45% số còn lại thuộc lĩnh vưc nông-lâm – ngư nghiệp.
Bình Dương là địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư chiếm 35% tổng vốn đăng ký, tiêp theo là Bà Rịa Vũng Tàu 27% và Thái Nguyên 16%.
Bên cạnh đó, trong tháng 2/2007 các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp vốn thực hiện là 350 triệu USD tăng 34% so với cùng kỳ năm trước.Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong tháng 2/2007 ước tính đạt 1.980 triệu USD tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái và thu hút thêm 9000 lao động đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lên 1.145.000 người tăng 11% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung tình hình thu hút đầu tư nước ngoài 2 tháng đầu năm 2007 được đánh giá khả quan với vốn cấp mới và tăng thêm là 1,91 tỷ USD tăng 45% so với cùng kỳ năm trước.Nhiều người hy vọng 2007 là năm bội thu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Theo ông Phan Hữu Thắng Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, năm 2006 cả nước thu hút được 11 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và năm 2007 đang phấn đấu thu hút từ 12 tỷ trở lên.
Cũng theo ông Thắng hiện nay có nhiều nhà đầu tư lơn đang tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Viêt Nam với các dự án lớn. Tại Hà Nội, Tập đoàn Gamuda(Malaixia) dự kiên đầu tư 1 tỷ USD xây dựng khách sạn,trung tâm hội nghị, văn phòng căn hộ cao cấp và Tập đoàn River(Nhật Bản) xin đầu tư xây dựng khách sạn 5 sao với vốn 500 triệu USD.
Tại Bắc Ninh và Bắc Giang, tập đoàn Foxcon(Đài Loan) dự kiến đầu tư 5 tỷ USD xây dựng thành phố công nghệ sản xuất các sản phẩm điện tử cao cấp, trong giai đoạn đầu (năm 2007) đầu tư 1 tỷ USD. Ngoài ra còn rất nhiều dự án lớn khác của tập đoàn Trung Quốc đầu tư vào Viêt Nam.
Thời gian tới Cục Đầu tư nước ngoài sẽ kết hợp với 14 tập đoàn truyền thong nước ngoài và trong nước tổ chức hội nghị về thu hút đầu tư nước ngoài tại TPHCM nhằm thong qua đó đẩy mạnh thu hút đầu tư vào Việt Nam.
2.2.Những thuận lợi của Việt Nam khi thu hút FDI
Thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những thành tích ấn tượng của Việt Nam trong năm 2006, với con số kỉ lục 10,2 tỷ USD. Vượt xa kế hoạch và con số dự báo. Tuy nhiên, cũng xin lưu ý con số hơn 10 tỷ USD mới chỉ dừng lại ở cam kết. FDI và ODA cùng đạt mức kỉ lục trong năm là những dấu hiệu rất quan trọng và tích cực đối với Việt Nam. Điều này chứng tỏ các tổ chức quốc tế, các chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá tích cực hơn về môi trường đầu tư của Việt Nam.
Đạt được kết quả này phải kể đến nỗ lực của nhà nước Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là sự nỗ lực hết mình để đáp ứng nhà đầu tư.
Nỗ lực tích cực về phía nhà nước Việt Nam được xem như là các điều kiện cần và đủ-chủ yếu liên quan đến các vấn đề chính sách vĩ mô-được xây dựng một cách rõ ràng và nhất quán để chuyển biến những tiềm năng thành hiện thực.
2.2.1.Những nỗ lực nhằm cải thiện chất lượng môi trường bên trong:
2.2.1.1.Điều đầu tiên phải nhắc đến là hai thế mạnh của Việt Nam: sự ổn định chính trị và an toàn những yếu tố đã được các nhà đầu tư nước ngoài thừa nhận. Bên cạnh đó nhà nước đã có chủ trương tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế. Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất, tạo ra “một sân chơi bình đẳng” và “có thể tiên đoán” được cho các nhà đầu tư và kinh doanh trong và ngoài nước.
Theo Luật Đầu tư mới, sẽ mở rộng phạm vi về ngành nghề, địa bàn, phương thức cho các nhà đầu tư lựa chọn. Từ đó, có thể tăng cường sức lan tỏa của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) trong nền kinh tế, thực hiện chuyển giao công nghệ. Cũng vì thế, luật đầu tư được đánh giá là thực sự cởi mở và thông thoáng hơn các luật hiện hành.
2.2.1.2.Thực hiện chủ trương chung của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới, việc phân công thực hiện đầu tư đã được tiến hành mạnh mẽ. Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc phân cấp này được giao trách nhiệm cho các địa phương, ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
Chẳng hạn, trước đây các nhà đầu tư có vốn đến 5 triệu USD được giao cho các địa phương cấp phép. Thì nay thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã được quyết định các dự án đầu tư lớn hơn. Ban quản lý các khu công nghiệp được quyết định các dự án có vốn đầu tư lên đến 40 triệu USD. Nhờ vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Thậm chí đã có những địa phương thí điểm cấp phép qua mạng, khiến việc cấp phép đầu tư được nhanh chóng hơn.
Trong luật đầu tư mới, phần lớn chỉ còn có đăng kí đầu tư với quy trình đơn giản và thời hạn ngắn, quy mô đầu tư phải xem xét được nâng lên mức cao. Chỉ với các dự án lớn, có vốn đến khoảng 200 triệu USD (300 tỉ đồng) chiếm chừng 2% doanh nghiệp mới cần phải thẩm định. Sẽ tăng cường khuyến khích đầu tư bằng biện pháp hậu kiểm cũng làm đơn giản hơn các thủ tục thẩm định. Các vấn đề tranh chấp cũng được xử lý theo thông lệ quốc tế.
2.2.1.3.Sự thay đổi lớn trong việc cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam là sự lắng nghe và tôn trọng của chính phủ xung quanh các ý kiến từ các doanh nghiệp. Cầu nối này trước đây chỉ thể hiện ở cấp chính phủ thì nay hầu hết các địa phương trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai… đều có.
Đây là điều mà không phải ở bất cứ quốc gia nào cũng có được. Khi một nhà đầu tư nước ngoài mang một số tiền lớn cùng với công nghệ và máy móc đến một nơi “đất khách quê người” làm ăn thì thái độ thiện chí của chủ nhà sẽ tạo nên sự an tâm cho họ.
Mặt khác, sự lắng nghe này còn có ý nghĩa quan trọng ở chỗ chính phủ đã biết vận dụng vào thực tế nhằm cải thiện môi trường đầu tư thông qua những điều chỉnh trong chính sách.
2.2.2.Chúng ta không chỉ phải lo tốt các điều kiện bên trong mà phải còn lo tốt hoạt động xúc tiến đầu tư, tiếp thị với nhà đầu tư bên ngoài và ngược lại. Bởi lẽ hai công việc này sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
Hiện cục đầu tư nước ngoài đang triển khai thiết lập ba trung tâm xúc tiến đầu tư tại cả 3 miền Bắc Trung Nam. Mục tiêu là xây dựng nên những địa chỉ tin cậy của các nhà đầu tư, quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của nhà đầu tư, cung cấp các dịch vụ miễn phí cho nhà đầu tư. Cục đầu tư nước ngoài cũng đang khảo sát và sẽ sớm tổng kết những vướng mắc, từ các loại hình dịch vụ cho đến hệ thống luật lệ, chính sách, quản lý điều hành… trình lên chính phủ để rà soát điều chỉnh lại, làm sao xây dựng cho được một môi trường đầu tư hết sức thông thoáng, thoải mái... Nếu chúng ta tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ các nhà đầu tư đang làm ăn phát đạt tại Việt Nam thành công, tức là làm tốt được “chân trong” sẽ tạo hiệu ứng tốt cho công tác xúc tiến đầu tư ra bên ngoài.
Lấy sự thành công của khu chế xuất Linh Trung làm ví dụ. Hiện công ty hạ tầng đã làm hoàn tất Khu chế xuất Linh Trung 1,2 và đang xây dựng Linh Trung 3 tại Tây Ninh. Sự thành công này có được là do đơn vị kinh doanh hạ tầng đã không bỏ mặc nhà đầu tư, không thực hiện theo kiểu cho thuê đất xong rồi thôi mà họ đã đồng hành hỗ trợ nhà đầu tư tất cả các khâu: cung cấp dịch vụ, làm visa, giải quyết các quan hệ lao động. Từ kinh nghiệm của Khu chế xuất Linh Trung có thể thấy rằng sau khi cấp phép chúng ta không thể để các nhà đầu tư phải tự xoay xở những vướng mắc nhỏ nhặt nhưng lại gây khó chịu, ảnh hưởng tâm lý nhà đầu tư…l
Những nỗ lực như trên thực sự đã được các nhà đầu tư nước ngoài công nhận, khi ông Norio Hattori, Đại sứ Nhật tại Việt Nam, ghi nhận Việt Nam hiện là Quốc gia có khả năng cạnh tranh cao về thu hút FDI trong khu vực. Trong khi chỉ cách đây 3 năm, môi trường đầu tư tại đây không có gì hấp dẫn so với các lân cận.Như vậy, thị trường Việt Nam thực sự sẽ tự do hơn, mở cửa hơn và tính cạnh tranh cũng cao hơn rất nhiều. Để các nhà đầu tư nước ngoài đã, đang, sẽ đến Việt Nam. Và sẽ tuyệt vời hơn khi Việt Nam giữ chân họ, khiến họ có thể kéo thêm những người khác “xếp hàng” đến đây.
2.3.Một số hạn chế trong thu hút FDI tại Việt Nam.
Mặc dù đã đạt mức tăng trưởng cao, nhưng kết quả thu hút đầu tư nước ngoài trong năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, vẫn thấp hơn mức đạt được của năm 1996 (8,8 tỷ USD). Môi trường đầu tư và kinh doanh tuy đã tiếp tục được cải thiện nhưng vẫn có những dự án vì những lý do nào đó, sau khi nhà đầu tư khảo sát tại Việt Nam đã thôi không đầu tư nữa hoặc chuyển sang đầu tư nước khác.
Việt Nam là một trong số rất ít các nước đang phát triển được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về các lợi thế đầu tư, đặc biệt là trên 4 phương diện: sự ổn định chính trị, vị trí địa lý, khả năng khống chế tỷ lệ lạm phát và quản lý tỷ giá. Tuy nhiên, Việt Nam cũng là một trong các quốc gia còn yếu trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hiệu quả của các dịch vụ hành chính, cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế và khung pháp luật cho hoạt động đầu tư nước ngoài, một số nhà đầu tư có tâm lý chờ đợi các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới. Ngoài ra, các tình trạng đình công chưa được ngăn chặn kịp thời; tình trạng tranh chấp kéo dài và triển khai dự án chậm chưa được xử lý dứt điểm cũng gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường đầu tư.
Một điều nữa là chính sách thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực quả thật có những điểm hấp dẫn hơn. Nếu nhìn lại, có thể thấy trong vấn đề này Trung Quốc có lợi thế hơn ta khi thị trường trong nước của họ lớn hơn ta rất nhiều. Đấy cũng là lý do khiến một số nhà đầu tư rút khỏi Việt Nam để chuyển hướng sang Trung Quốc.
-Tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước ngoài, thì Châu Âu và Hoa Kỳ đầu tư chưa lớn và chưa tương xứng với tiềm năng của họ.
-Nhìn chung, tiến độ thực hiện dự án còn chậm so với luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Những dự án được cấp trước thời kỳ khủng hoảng tài chính khu vực vẫn không triển khai hoặc mới chỉ triển khai một số ít hạng mục. Nhiều dự án bất động sản vẫn dậm chân tại chỗ do vướng cơ chế chính sách. Một số dự án gặp vướng mắc kéo dài chưa được xử lý dứt điểm gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Kết quả là chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện còn lớn; tốc độ tăng vốn thực hiện chưa cao.
-Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không thực hiện đúng những quy định của luật pháp về việc sử dụng lao động là người Việt Nam; như kéo dài thời gian học nghề, trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, không thực hiện đúng chế độ bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian lao động trong ngày, thậm chí có những hành động xử phạt trái với pháp luật và đạo lý. Trong khi đó, nhiều người lao động không nắm được quy định của pháp luật, cộng thêm việc thiếu các tổ chức công đoàn, các cán bộ của Bên Việt Nam không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của người lao động..., đó chính là những nguyên nhân chủ yếu xảy ra các tranh chấp về lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
-Tỷ lệ các dự án giải thể trước thời hạn vẫn còn ở mức cao, nhất là các dự án được cấp phép trong những năm trước khủng hoảng.
-Chủ trương phân cấp đầu tư trong thời gian qua đã cho thấy đây là một chính sách đúng đắn cần được phát huy và mở rộng, nhưng cũng đã bộc lộ những vấn đề mới, như việc ban hành văn bản vượt khuôn khổ pháp luật, việc quản lý về đầu tư nước ngoài tại các địa phương còn khác nhau, không được xử lý một cách thống nhất, cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương đã ảnh hưởng đến lợi ích chung..
-Cơ sở hạ tầng yếu kém( thiếu sân bay, bến cảng hệ thống giao thông…), việc đi lại khó khăn.
-Chưa tạo ra được động lực để kích thích hướng dẫn cho các nhà đầu tư, môi trường cạnh tranh chưa có , quy mô các dự án còn nhỏ .
-Chưa xác định được rõ nơi đâu (nước nào ) và ai là những nhà đầu tư tiềm năng để đưa ra chiên lược thích ứng , có trọng điểm kêu gọi đầu tư. Vẫn chưa xác định những lợi thế đang có, để hoạch định chiến lược dài hạn ; còn rất nhiều lúng túng ,thiếu tự tin khi giới thiệu tiềm năng và nguồn nhân lực .
-Cơ cấu nghành nghề còn đơn điệu , chưa có những chương trình giới thiệu và quảng bá hình ảnh đất nước một cách thuyết phục , hệ thống thông tin dữ liệu còn nghèo nàn , chưa được quan tâm đúng mức .
-Hoạt động xúc tiến đầu tư phân tán , rời rạc , thiếu tính liên kết ; còn nặng về hình thức, nhưng thiếu tính chuyên nghiệp . Các giải pháp thu hút đầu tư thiên về ban phát , mời mọc ban đầu , nhẹ xây dựng thiết kế và tinh thần trách nhiệm của bộ máy .
-Thiếu thân thiện cởi mở với các nhà đầu tư, vẫ còn lắm thủ tục nhiễu khê, phiền phức trong việc đón tiếp ,làm việc với người nước ngoài
-Về nhận thức , mới chỉ thấy đầu tư nước ngoài là cần , nhưng vẫn chưa thấy đến mức phải tập trung chỉ đạo từ phân tích đánh giá đến xây dưng chương trình (đồng bộ ) và tổ chức thực hiện . Kinh nghiệm về thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thiếu
-Một yếu tố nữa cũng làm cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua là ĐTNN vẫn còn tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm . Tại các vùng kinh tế có lợi thế về điều kiện tự nhiên và kết cấu hạ tầng và thị trường tiêu thụ hấp dẫn các nhà đầu tư còn các vùng thứ yếu chưa được quan tâm . Điều này cho thấy các chính sách khuyến khích đầu tư vào các tỉnh miền núi , vùng sâu , vùng xa chưa mang lại kết quả . Điều này đòi hỏi trong thời gian tới cần có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa nhằm hạn chế tình trạng mất cân đối về ĐTNN giữa các vùng kinh tế .
Chương 3
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước từ đó rút ra bài học và giải pháp đối với Việt Nam
3.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc.
FDI là nhân tố đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển ở nhiều quốc gia. Việc nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học cho Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ có hiệu quả công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá hiện nay là một việc có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.
Trong số các quốc gia đang phát triển ở khu vực Châu Á, Trung Quốc được coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá; và đã đạt được những thành tựu đáng kể về thu hút FDI sau hơn 20 năm cải cách và mở cửa. So sánh với Việt Nam, Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng cơ bản về điều kiện phát triển và sự lựa chọn những mô hình kinh tế chuyển đổi.Hơn nữa, Việt Nam đã chậm hơn so với Trung Quốc gần 10 năm trong việc thu hút FDI. Vì vậy, việc xem xét, học tập kinh nghiệm thu hút FDI phục vụ quá trình hiện đại hoá ở Trung Quốc là rất bổ ích đối với nước ta.
3.1.1 Lựa chọn và qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lí
Việc lựa chọn và qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lí là một phương thức để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đều chú trọng lựa chọn hình thức này và các nhà đầu tư cũng chú trọng lựa chọn hình thức đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của mình.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế (1978) và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, Trung Quốc đã đưa ra các qui định về các hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài được phép thực hiện tại Trung Quốc.Các hình thức đầu tư được Trung Quốc áp dụng khá đa dạng và liên tục được bổ sung, sửa đổi phù hợp với mục tiêu thu hút đầu tư của Trung Quốc.Các hình thức này bao gồm:
3.1.1.1 Xí nghiệp liên doanh:
Đây là hình thức đầu tư được thành lập giữa đối tác nước ngoài là công ty, cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài với đối tác Trung Quốc để tiến hành các hoạt động đầu tư.Các bên cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo mức độ góp vốn.Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được qui định trong hợp đồng liên doanh.
Đây là hình thức được Trung Quốc coi trọng thành lập và tạo điều kiện thuận lợi nhằm tranh thủ đầu tư nước ngoài để học tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo tay nghề cho người lao động Trung Quốc, phát triển thị trường nội địa, mở rộng xuất khẩu, tiếp nhận công nghệ nước ngoài…
Trong giai đoạn đầu thu hút vốn đầu tư, hình thức này đã được hưởng khá nhiều chính sách ưu đãi hơn so với các hình thức đầu tư khác như: miễn thuế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan…và chỉ một số lĩnh vực thương mại và dịch vụ mới được phép thành lập xí nghiệp dưới hình thức liên doanh.
Tuy nhiên, hình thức đầu tư này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, như: phía Trung Quốc đễ bị thiệt hại do thiếu kinh nghiệm liên doanh, đặc biệt là những thua thiệt trong quá trình đàm phán để kí kết hợp đồng liên doanh.
3.1.1.2. Xí nghiệp liên doanh hợp tác:
Đây là hình thức đầu tư, trong đó bên nước ngoài đóng góp toàn bộ hoặc phần lớn tiền vốn và kĩ thuật, còn phía Trung Quốc góp vốn bằng đất đai, nhà xưởng hiện có và một phần nhỏ vốn đầu tư. Hai bên cùng phối hợp hoạt động hoặc cùng hợp tác sản xuất kinh doannh.Tỷ lệ và phương thức phân phối lợi nhuận giữa các bên hợp tác được áp dụng khá linh hoạt.
Xí nghiệp được thành lập theo hình thức này có thể là thực thể kinh tế độc lập có ban giám đốc điều hành, cũng có thể do các bên tiến hành hợp tác với tư cách là pháp nhân độc lập của từng bên thành thực thể kinh tế kết hợp mà các bên cùng phối hợp với nhau để thực hiện các hoạt động quản lí kinh doanh.Khi các bên không thành lập một pháp nhân mới, việc giám sát, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của hình thức đầu tư này khá phức tạp, đặc biệt về các mặt tài chính.
Các giao dịch tài chính không rõ ràng, việc trốn thuế, thiếu trung thực trong các báo cáo tài chính, báo cáo thu nhập, lãi, lỗ…dễ xảy ra đối với hình thức đầu tư này.
3.1.1.3. Xí nghiệp sở hữu nước ngoài hoàn toàn:
Đây là hình thức đầu tư trong đó toàn bộ vốn góp thuộc sở hữu nhà đầu tư nước ngoài. Loại hình này thường được tổ chức theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Việc thành lập loại hình xí nghiệp này được đánh giá là mang lại nhiều lợi ích cho phía Trung Quốc. Cụ thể là: Trung Quốc sẽ tiếp nhận được trình độ kĩ thuật khá cao; không phải quan tâm nhiều đến việc chuẩn bị vốn đầu tư để góp vốn vào dự án với nhà đầu tư nước ngoài; không phải chịu rủi ro từ hoạt động đầu tư, mà chỉ thu tiền thuế của các hoạt động kinh doanh của xí nghiệp loại này; không có những sự xung đột, tranh chấp về quản lý và điều hành kinh doanh trong xí nghiệp giữa phía Trung Quốc và phía nước ngoài.
Tuy nhiên, với hình thức đầu tư này, Trung Quốc cũng phải chịu những thua thiệt nhất định, cụ thể là: Trung Quốc không chủ động tiến hành cải tạo các doanh nghiệp hiện có; nhiều nhà đầu tư nước ngoài trốn thuế nghiêm trọng, thậm chí thay đổi cả mục tiêu dự án; khó đạt được mục tiêu tiếp nhận công nghệ nguồn của các công ty xuyên quốc gia.
3.1.1.4. Hình thức hợp tác phát triển:
Đây là cách rút gọn của hình thức hợp tác nghiên cứu và khai thác dầu khí trong đất liền và ngoài khơi. Hình thức này chủ yếu được áp dụng trong khai thác các nguồn khoáng sản tự nhiên.
Hình thức này chiếm tỉ trọng nhỏ trong các hình thức đầu tư, vì tuy lợi nhuận thu được khá cao nhung mức độ rủi ro cũng khá cao, và nguồn vốn đầu tư lớn.
3.1.1.5. Công ty cổ phần đầu tư nước ngoài:
Đây là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài có thể thành lập công ty cổ phần ngay từ thời điểm thành lập hoặc lựa chọn các công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn đầu tư nước ngoài để chuyển đổi thành công ty cổ phần.Qui định này tạo điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi hình thức đầu tư, thực hiện việc cổ phần hoá doanh nghiệp và tham gia thị trường chứng khoán.
Trên thực tế, hình thức đầu tư này chưa thật phát triển mạnh do hoạt động quản lí trên thị trường chứng khoán Trung Quốc còn khá phức tạp và kinh nghiệm quản lí của Trung Quốc trên lĩnh vực này chưa nhiều.
3.1.1.6. Hình thức công ty đầu tư
Đây là hình thức nhằm khuyến khích các công ty nước ngoài có quy mô lớn, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia có vốn đầu tư lớn, công nghệ nguồn, thương hiệu mạnh, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và khả năng cạnh tranh cao tiến hành các hoạt động đầu tư.Các công ty xuyên quốc gia thông qua các công ty đầu tư thực hiện các dự án có quy mô lớn, kĩ thuật cao, phương thức quản lý khoa học và có hiệu quả. Đây là động lực và nền tảng cơ bản để nâng cao trình độ kĩ thuật của các xí nghiệp Trung Quốc, nâng cấp và đổi mới thế hệ sản phẩm, cải thiện cơ cấu ngành nghề.
3.1.1.7. Hình thức BOT:
Để mở rộng lĩnh vực đầu tư và thị trường đầu tư, Trung Quốc đã tích cực thực hiện các phương thức đầu tư mới như: BOT, BTO, BT nhằm khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng như đường sá, bến cảng, cơ sở năng lượng… Tuy nhiên hình thức này có thời hạn thu hồi vốn dài và tỷ lệ thu hồi vốn không cao.
3.1.1.8. Hình thức sát nhập và mua lại công ty:
Đây là việc Trung Quốc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia được phép thực hiện các hoạt động sát nhập và mua lại các công ty Trung Quốc. Đồng thời thông qua hoạt động này, các nhà đầu tư trong nước có thể có được các bí quyết công nghệ và các qui trình sản xuất mà các hình thức khác khó thực hiện được.
Hình thức này đang được triển khai áp dụng ở Trung Quốc và gắn với các qui định pháp luật về cạnh tranh và các qui định chống độc quyền.
3.1.1.9. Một số hình thức khác
Ngoài các hình thức trên, Trung Quốc cũng đã áp dụng nhiều phương thức thu hút đầu tư nước ngoài khác có tính đặc thù như: thành lập các đặc khu kinh tế, thành phố mở cửa, khu công nghiệp chế xuất …
Đặc khu kinh tế là những khu vực kinh tế đặc biệt chuyên cung cấp những ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài nhưng vẫn chịu sự chỉ đạo của Nhà nước.Hoạt động kinh tế của nó chịu sự chi phối trực tiếp của thị trường thế giới. Sự phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào thu hút và sử dụng vốn, công nghệ và kiến thức quản lí nước ngoài.
Thành phố mở cửa là những thành phố có hoạt động kinh doanh phát triển toàn diện, có truyền thống buôn bán lâu đời, có tiềm năng kinh doanh nguyên liệu, năng lượng, và các thành phố có cảng vận tải. Thành phố mở cửa bao gồm thành phố mở cửa ven biển và thành phố mở cửa ven biên giới.
Khu chế xuất, khu công nghiệp là các khu chuyên môn hoá sản xuất hàng công nghiệp để xuất khẩu hoặc tiêu thụ trên thị trường trong nước. Các xí nghiệp hoạt động trong các khu này được hưởng các ưu đãi về tài chính, cơ sở hạ tầng, dịch vụ kinh doanh và các điều kiện lao động…
3.1.2 Thực hiện chính sách mở cửa từng bước
Trong những năm qua, Trung Quốc đã thực hiện chính sách mở cửa từng bước, khuyến khích đầu tư nước ngoài theo quy hoạch phát triển vùng lãnh thổ phù hợp với từng giai đoạn phát triển:
Năm 1979, Đảng cộng sản và Quốc vụ viện Trung Quốc đã quyết định hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại đặc thù, nhằm tích cực thu hút nguồn vốn của Hoa Kiều và kinh nghiệm quản lý kĩ thuật tiên tiến của nước ngoài.
Năm 1980, Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân Trung Quốc thông qua “Điều lệ về Đặc khu kinh tế Quảng Đông” và quyết định thành lập 3 Đặc khu kinh tế: Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Dầu, đồng thời quyết định cho tỉnh Phúc Kiến xây dựng Đặc khu kinh tế Hạ Môn.
Năm 1984, Trung Quốc thành lập tỉnh đảo Hải Nam và toàn tỉnh thành lập khu kinh tế thứ 5 (Đặc khu kinh tế Hải Nam)
Năm 1988, Trung Quốc mở cửa tiếp 14 thành phố ven biển với tổng diện tích 10 vạn km2, dân số khoảng 45,38 triệu người. 14 thành phố này đều là nơi có nền kinh tế phát triển.
Việc Trung Quốc mở cửa những thành phố này là nhằm mở rộng hơn việc hợp tác kĩ thuật và giao lưu kinh tế với nước ngoài, tận dụng FDI, nhằm đưa khoa học kĩ thuật tiên tiến vào Trung Quốc.
3.1.3 Phát triển và mở rộng hệ thống khuyến khích đầu tư đa dạng.
Trung Quốc chủ động sử dụng nguồn vốn nước ngoài một cách hợp lí và hiệu quả; coi đầu tư nước ngoài là một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển của đất nước, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng thông thoáng và hấp dẫn.
Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các vùng khó khăn của Trung Quốc ( miền Trung và miền Tây) bằng cách: khi đầu tư vào các khu vực khó khăn, các nhà đâu tư sẽ được hưởng chính sách thuế ưu đãi hơn trong 10 năm sau khi bắt đầu thực hiện dự án.
Việc mở cửa các thị trường tài chính được thực hiện trên nguyên tắc tin cậy và thận trọng từng bước
Thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư vào các ngành, cụ thể là: Thời kì đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc đã mở cửa ngành công nghiệp nhẹ cho các nhà đầu tư nước ngoài là chủ yếu, sau đó từng bước mở rộng sang các lĩnh vực khác như: năng lượng, nguyên liệu thô, xây dựng cơ sở hạ tầng. Cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Trung Quốc có sự điều chỉnh chính sách thu hút FDI hướng về xuất khẩu, nên cơ cấu FDI có những thay đổi lớn, các dự án công nghiệp chiếm hơn 90% tổng số dự án và trên 70% tổng số vốn FDI cam kết. Trong những năm 90 của thế kỉ XX, cơ cấu FDI được khuyến khích mở rộng, chuyển sang các hoạt động dịch vụ như kinh doanh tiền tệ, ngoại thương, tư vấn, bảo hiểm…
3.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Thái Lan và Malaysia
3.2.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Thái Lan
Về các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, theo qui định pháp luật của Thái Lan, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được áp dụng tương tự như các hình thức đầu tư trực tiếp của Trung Quốc và mức độ đa dạng khá cao.Các hình thức này bao gồm: hợp tác kinh doanh trên cơ sỏ hợp đồng, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn, các hình thức BOT, BT, BTO, hình thức sáp nhập và mua lại và phương thức thành lập các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất.
Thái Lan không có giới hạn về thời hạn thuê đất đối với các dự án đầu tư nước ngoài và trong các liên doanh, bên nước ngoài chỉ được góp vốn tối đa là 49%.
Thái Lan chú trọng phát triển các dự án công nghệ cao, đặc biệt là các dự án công nghệ thông tin thông qua việc thành lập “ Thung lũng công nghệ cao” gắn với việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ và chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ cao.
Thái Lan cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Bangkok với những qui định khá chặt chẽ để tránh tình trạng rơi vào khủng hoảng tài chính - tiền tệ như năm 1997. Tuy nhiên khả năng quản lí các hình thức đầu tư trên thị trường chứng khoán của Thái Lan còn khá hạn chế.
3.2.2. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Malaysia
Malaysia có khá nhiều điểm tương đồng với Thái Lan trong việc thực hiện các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Pháp luật Malaysia cũng qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: hợp tác kinh doanh trên cơ sỏ hợp đồng, liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn, các hình thức BOT, BT, BTO, hình thức sáp nhập và mua lại và phương thức thành lập các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất.
Cả hai nước đều chú trọng phát triển các dự án công nghệ cao, đặc biệt là các dự án công nghệ thông tin thông qua việc thành lập “ Thung lũng công nghệ cao” gắn với việc khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ và chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ cao.
Malaysia cũng cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Kuala Lumpur. Chảng hạn, các nhà đầu tư nước ngoài có tài khoản tạo các công ty môi giới địa phương chỉ được đầu tư vào 3 quỹ đã niêm yết là Quỹ Kwang Hua Growth, Quỹ NITC Fuyuan và Quỹ Citizen.
Mailaysia coi trọng việc phát triển các liên doanh trong lĩnh vực công nghiệp nặng như công nghiệp ô tô, công nghiệp đóng tàu… để tiếp nhận công nghệ chế tạo nước ngoài, nâng cao trình độ quản lí của đội ngũ cán bộ … phù hợp với chiến lược phát triển ngành công nghiệp.
3.3. Bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển ở trình độ thấp cho nên nhiều giao dịch quốc tế, trong đó có các giao dịch về đầu tư chưa phát triển đủ mức định hình một cách rõ nét về các hình thức đầu tư để qui định chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật. Hơn nữa, việc khai thác, sử dụng và phát triển có hiệu quả các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề rất quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách phát triển của Việt Nam và chúng có tính nhạy cảm cao trong thu hút đầu tư nước ngoài. Đây vừa là một vấn đề có tính chất kinh tế kinh doanh, vừa là vấn đề chính trị có liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia, mức độ độc lập, tự chủ… trong chính sách đối ngoại.
Bên cạnh đó, vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau như mục tiêu đặt ra trong chính sách của Chính phủ, chiến lược nhà đầu tư nước ngoài, bối cảnh kinh tế trong khu vực mà đặc biệt là năng lực kiểm soát, quản lí hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài ở nước sở tại và sự phát triển của tư duy pháp lí trong ban hành các qui định pháp luật về đầu tư nước ngoài của nước sở tại…
Từ thực tiễn áp dụng các hình thức đầu tư nước ngoài của các nước vừa nghiên cứu ở trên, có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm quan trọng cho Việt Nam.
3.3.1. Cần thống nhất về mặt nhận thức rằng việc qui định các hình thức FDI phù hợp là công cụ để kiểm soát và quản lí có hiệu quả các hoạt động FDI
Cần có phương thức sử dụng các hình thức đầu tư một cách có hiệu quả tương ứng với năng lực quản lí hoạt động đầu tư.
Cần sử dụng các công cụ này một cách linh hoạt, sang tạo, đa dạng, và mềm dẻo tuỳ thuộc vào điều kiện của từng giai đoạn và thậm chí của từng khu vực trong một đất nước nếu cần thiết, thông qua một hệ thống các qui định, chỉ dẫn và các biện pháp khuyến khích.
3.3.2. Cần đa dạng hoá hình thức đầu tư theo quan điểm lợi ích – chi phí phù hợp với xu hướng mở cửa thị trường đầu tư và tự do hoá đầu tư nước ngoài
Để tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư, cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư với phương thức hợp lí gắn với điều kiện từng nước và từng giai đoạn. Đồng thời, để đạt được mục tiêu đặt ra lâu dài của chính sách đầu tư, trong nhiều trường hợp, các chính phủ phải chấp nhận sự thua thiệt ở mức độ nhất định các khoản lợi ích ngắn hạn.
Việc cho phép thành lập các xí nghiệp nước ngoài sở hữu hoàn toàn nhằm tăng khối lượng vốn đầu tư thu hút từ bên ngoài, cải tiến chất lượng sản phẩm, thu hút được công nghệ nguồn… nhưng đổi lại các lợi ích thu được là những thua thiệt về lợi ích của nước sơ tại do hoat động chuyển giá nội bộ công ty xuyên quốc gia, việc trốn lậu thuế và khả năng lũng đoạn thị trường của các xí nghiệp này.
Các hình thức đầu tư nên được tạo điều kiện phát triển mạnh hiện nay ở Việt Nam là sáp nhập và mua lại, phát triển hình thức quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ tương hỗ, quỹ bảo hiểm đầu tư… và các hình thức đầu tư khác trên thị trường chứng khoán.
3.3.3. Cần coi trọng việc bảo hộ lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài
Việc nhà đầu tư nước ngoài lựa chon một hình thức đầu tư nào đó là sự thể hiện đầy đủ quan điểm của nhà đầu tư mà trực tiếp là các khoản lợi ích thu được tối ưu của họ từ hoạt động đầu tư được tiến hành. Việc bảo hộ lợi ích, thể hiện ở việc cho phép nhà đầu tư có đủ các quyền năng để thực hiện các hình thức đầu tư hợp lí ở những lĩnh vực tạo lợi ích lớn nhất cho họ. Cụ thể là:
Đối với lĩnh vực khai thác, thăm dò đầu khí ngoài khơi - một lĩnh vực có nhiều rủi ro, hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm là hình thức hợp lí.
Đối với lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, các lĩnh vực cung ứng các dịch vụ, tiện ích công cộng, bảo vệ môi trường sinh thái, cung cấp nguồn nước, năng lượng… hìnht hức BOT, BTO, BT là những hình thức nên áp dụng
Đối với lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận độc quyền hoặc độc quyền nhóm trên một đoạn thị trường nhất định vốn là thế mạnh của các công ty xuyên quốc gia, có thể sử dụng được danh tiếng và thương hiệu mạnh của các tập đoàn này, khai thác năng lực cạnh tranh cao của chúng, bảo hộ được tài sản trí tuệ, bí quyết công nghệ, bí quyết thương mại… hình thức tổ chức kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài là hợp lí.
Đối với lĩnh vực có khả năng phân chia thị trường, khó có khả năng thu lợi nhuận độc quyền mà chỉ có khả năng thu lợi nhuận bình quân, chia sẻ rủi ro hoặc để tận dụng kiến thức và kinh nghiệm của đối tác về thị trường, kĩ năng quản lí, chuyển giao công nghệ… hình thức liên doannh là hình thức bộc lộ những ưu thế cao hơn so với các hình thức khác.
Đối với lĩnh vực dịch vụ đặc thù như cung ứng dịch vụ tư vấn, nghiên cứu – phát triển… hình thức công ty hợp danh là sự lựa chọn tối ưu…
3.3.4. Việc qui định hình thức đầu tư cần gắn với các điều kiện thực hiện hình thức đó và cần có cơ chế điều tiết, kiểm soát thích hợp.
Các điều kiện thực hiện bao gồm điều kiện về tổ chức, biện pháp khuyến khích về tài chính, đội ngũ nhân sự bao gồm cán bộ quản lí và công nhân, mức độ ủng hộ của chính phủ thông qua việc cho phép các hoạt động đầu tư diễn ra ở các lĩnh vực nhất định… tức là mức độ mở cửa thị trường để đầu tư.
Đồng thời cần đào tạo và phát triển những nhân sự có đủ những phẩm chất, năng lực cần thiết để cùng tham gia điều hành hoạt động liên doanh, có khả năng để học hỏi kinh nghiệm của đối tác nước ngoài và phối hợp hữu hiệu trong việc ra quyết định.
Cần có cơ chế điều tiêt, kiểm soát các hình thức này một cách phù hợp để hướng hoạt động đầu tư theo đúng mục tiêu đặt ra theo từng ngành, từng khu vực…, tạo điều kiện để nhà đầu tư chuyển đổi hình thức đầu tư khi cần thiết, tránh tình trạng tuỳ tiện áp đặt các hình thức đầu tư không phù hợp, gây tốn kém chi phí để điều chỉnh trong tương lai.
Cần có đội ngũ cán bộ quản lí nhà nước có đủ năng lực thực hiện và bộ máy quản lí nhà nước ở cấp trung ương và địa phương có đủ hiệu lực thực hiện.
Cần thay đổi cơ bản nhận thức phổ biến hiện nay trong các nhà hoạch định chính sách đầu tư Việt Nam là “ khả năng quản lí đến đâu tạo điều kiện phát triển các hình thức đầu tư đến đó”.Chính nhận thức này làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng và đa dạng hoá linh hoạt các hình thức đầu tư, làm tăng them mức độ trì trệ của bộ máy quản lí, khó đưa ra được những thay đổi có tính chất đột phá nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay
3.3.5. Cần phát triển mạnh khoa học pháp lí về đầu tư nước ngoài để tăng tính chủ động và sang tạo của các nhà hoạch định chính sách trong việc đưa ra các hình thức đầu tư nước ngoài ohù hợp với điều kiện Việt Nam.
Việc phát triển khoa học pháp lí cần dựa trên thực tiễn hoạt động kinh tế và kinh doanh quốc tế có liên quan đến đầu tư tại Việt Nam, các chính sách kinh tế, tập quán kinh doanh, trình độ phát triển các giao dịch về đầu tư nước ngoài, thực tiễn đầu tư của các nước trên thế giới cũng như các qui định quốc tế về đầu tư được qui định trong các hiệp định quốc tế hoặc các thông lệ quốc tế. Vì thế, cần chú trọng đào tạo đội ngũ luật gia, trang bị kiến thức pháp luật, phương pháp luật tư duy pháp lí sang tạo, linh hoạt, hìnht hành tầm nhìn xa, khả năng trông rộng về tính chất pháp lí của các giao dịch kinh tế cho các nhà quản lí doanh nghiệp và quản lí nhà nước, đầu tư nhiều hơn vào phát triển khoa học pháp lí thông qua việc triển khai hệ thống các đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và tổng kết thực tiễn, nghiên cứu tình huống có tính đặc thù về các vấn đề như quyền sở hữu, quyền hưởng lợi, quyền lựa chọn và chuyển đổi hình thức đầu tư tài sản, quyền tham gia thị trường chứng khoán, vấn đề bảo hộ đầu tư nước ngoài, các qui định về cạnh tranh, bản chất sinh lợi của các loại tài sản…
Cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm các nước về ban hành pháp luật, qui định về hinnhf thức đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nước có nền khoa học pháp lí phát triển về lĩnh vực đầu tư để đón đầu trong việc đưa ra các qui định hợp lí, tiếp nhận có chọn lọc các kinh ngiệm quốc tế này để áp dụng vào Việt nam.
Cần có cơ chế giảm thiểu những rủi ro trong nghiên cứu và rút ngắn tối đa khoảng cách tụt hậu về tư duy khoa học pháp lí trong xây dựng, ban hành và áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
3.4. Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới
Thời gian qua chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng đáng biểu dương song bên cạnh đó vẫn còn không ít mặt hạn chế mà chúng tôi đã trình bày trong những nội dung trước.Vì vậy trong thời gian tới để tăng cường lượng vốn FDI nên tiến hành các nhóm biện pháp lớn sau đây:
3.4.1.Về pháp luật chính sách:
Cần triển khai thực hiện tốt Luật doanh nghiệp và luật đầu tư chung, ban hành các Nghị định và thông tư hướng dẫn hai luật nói trên,tuyên truyền ,phổ biến nội dung của các luật mới;kịp thời hướng dẫn cụ thể về chuyển đổi thủ tục hành chính ,củng cố,hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của luật mới.Coi trọng việc giữ vững sự ổn định,không làm ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI khi áp dụng các luật mới .
Ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích mọi thành phần kinh tế,nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở hạ tầng, kinh doanh bất động sản đáp ứng nhu cầu và thực tế hội nhập kinh tế quốc tế.
Bổ sung cơ chế,chính sách xử lý các vấn đề pháp lý có liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình AFTA và các cam kết đa phương và song phương trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,nhất là mở cửa trong lĩnh vực dịch vụ như:bưu chính viễn thông ,vận chuyển hàng hoá, y tế giáo dục đào tạo v.v…
Đẩy mạnh việc đa dạng hoá hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới như cho phép thành lập công ty hợp danh, đầu tư nước ngoài theo hình thức mua lại và sáp nhập….Sớm ban hành quy chế công ty quản lý vốn để điều hành chung các dự án.Tổng kết việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để nhân rộng.
3.4.2.Về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư nước ngoài
Đối với các nhà đầu tư những ưu đãi về thuế,tiền thuê đất,về thời hạn thuê đất ,về thời hạn của dự án,về giá nhân công rẻ…vẫn rất quan trọng nhưng quan trọng hơn là hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước,từ Trung ương đến địa phương .Quản lý nhà nước còn bao gồm cả việc xử lý vi phạm pháp luật,nhưng cần tách bạch giữa vi phạm của cá nhân thực hiện dự án với ,hoặc liên quan đến dự án với chính lợi ích khi được triển khai của dự án sẽ mang lại .Cần coi việc xử lý vi phạm là bắt buộc chứ không phải là để đối phó với các nhà đầu tư,cản trở các hoạt động kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp.Cân nhận thức rõ,bản chất của vốn FDI là của tư nhân ,do đó họ có quyền trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư.Chỉ cầc phải chờ đợi hoặc gặp trở ngại mà không rõ khi nào xử lý xong họ sẽ chuyển đầu tư của mình sang địa điểm khác .
Đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước giữa chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; chú trọng vào công tác, hướng dẫn kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các đia phương tránh tình trạng ban hành chính sach ưu đãi vượt khung; giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương đến địa phương thong qua tổ chưc tập huấn, đào tạo ngắn hạn.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc chỉ thị 13 củ thủ tướng chính phủ,trong đó có việc tiến hành đều đặn chương trình giao ban vùng,duy trì,nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư,kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
Thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi;khuyến khích họ đầu tư có chiều sâu,mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn. Đây là cách tốt nhất để chứng minh có sức thuyết phục về môi trường đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đối với các nhà đầu tư tiềm năng .
Hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài bằng cơ chế chính sách khuyến khích, ưu đãi trong lập quỹ,vay vốn đầu tư, đơn giản hoá thủ tục hành chính trong việc cấp phép, mở rộng chế độ đăng ký cấp phép.
Tiếp tục mở rộng việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả điều hành hoạt động đầu tư nước ngoài ở cả trung ương lẫn địa phương .
3.4.3.Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư
Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động và xúc tiến đầu tư chú trọng các đối tác chiến lược,cũng như tăng cường quảng bá hình ảnh của đất nước Việt Nam đối với các nhà đầu tư quốc tế.Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên cứu,qua các kinh nghiệm đầu tư, cần tăng cườn vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể .Có thể nói hướng thu hút đầu tư có hiệu quả nhất của Việt Nam là tập trung vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa,các ngành có sử dụng nhiều nhân công,các ngành chế biến và lắp ráp. Đặc biệt cần đẩy mạnh hơn nữa thu hút đầu tư của các ngành sử dụng nhiều nhân công vì giá nhân công thấp là điểm hấp dẫn nhất của Việt Nam (giá nhân công ở Trung Quốc cũng có xu hướng nâng lên và hiện đã cao hơn ở Việt Nam).Một số ngành có thể lưu ý là :dệt may, lắp ráp điện tử máy móc.Một khi thu hút được các nhà máy lắp ráp sẽ gián tiếp thu hút các nhà sản xuất và cung cấp.
Bên cạnh việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư trên các mặt chính sách và pháp luật,hạ tầng cơ sở, đào tạo nhân lực thì một yếu tố quyết định thành công là việc giải quyết kịp thời các vướng mắc của các nhà đầu tư.Vì sự hài long và thành công của các nhà đầu tư là một minh chứng sinh động nhất để tiếp tục thuyết phục và thu hút các nhà đầu tư khác vào Việt Nam
Ngoài việc có những ưu đãi đầu tư thuận lợi, Việt Nam cần có những chương trình xúc tiến phù hợp kể cả việc các nhà lãnh đạo cao cấp tiếp cận và gặp gỡ để bàn bạc trực tiếp,có thể kết hợp với những chuyến đi thăm,làm việc nước ngoài của những nhà lãnh đạo Đảng , chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư,mời các nhà lãnh đạo Đảng ,Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của chính phủ đối với đầu tư nước ngoài.Các cơ quan nhà nước phải coi xúc tiến đầu tư là chức năng đầu tiên của mình ,thành lập quỹ xúc tiến đầu tư chung trên phạm vi toàn quốc,với việc xúc tiến đầu tư theo từng thời kỳ,có từng địa chỉ cụ thể ,tập trung vào vận dụng các đối tác đầu tư phù hợp với mục tiêu đặt ra ,nhất là các đối tác có công nghệ cao ,công nghệ nguồn:
Đối với các đối tác lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản,EU…cần có các dự án lớn định hướng vào các tập đoàn xuyên quốc gia hang đầu của từng nước để trao đổi trực tiếp nhằm trong một thời gian ngắn các nhà đầu tư có thể đi đến quyết định đầu tư
Phối hợp triển khai đề án kết nối kinh tế Việt Nam-Singapore nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài
Nâng cao trang thông tin website về đầu tư nước ngoài .Biên soạn lại các tài liệu về đầu tư nước ngoài như:guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài …
Nghiên cứu các địa bàn tiềm năng ở nước ngoài để hướng dẫn hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả .
3.4.4.Giải pháp về lao động tiền lương
Sớm xem xét bổ sung ban hành các chính sách về tiền lương,bảo hiểm, nhà ở và một số chính sách xã hội khác, đồng thời tăng cường công tác thanh tra việc thực hiện các chính sách đó để bảo vệ lợi ích chính đáng,cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân,lao động làm việc cho trong các doanh nghiệp FDI
3.4.5.Giải pháp về thuế
Chính sách và luật thuế phải đáp ứng được quá trình hội nhập và mở cửa thị trường.Chính sách pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi bổ sung theo hướng giảm điều tiết nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế, tiến gần đến mục tiêu đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng,bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,giữa người trong nước và người nước ngoài, thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT/AFTA, EU, Hoa Kỳ và đặc biệt là WTO.
Để đảm bảo chính sách nhất quán mở cửa thị trường nói chung và thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ chính sách pháp luật thuế theo hướng đồng bộ, cơ cấu hợp lý,khuyến khích đầu tư,xuất khẩu, đổi mới công nghệ , đồng thời hiện đại hoá công tác quản lý thuế ,hải quan nhằm đảm bảo chính sách động viên FDI phù hợp với điều kiện Việt Nam và tiến dần tới thông lệ quốc tế.
Tóm lại quyết tâm xây dựng để tạo nên sự bền vững của dòng vốn FDI vào Việt Nam trong giai đoạn sắp tới còn rất nhiều việc phải làm. Dòng vốn đó nếu được đón nhận bằng môi trưòng thuận lợi về pháp lý và về quản lý nhà nứoc sẽ đảm bảo sự tăng trưởng với tốc độ cao và sự bền vững
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 69488.DOC