Tài liệu Tổng kết kinh nghiệm xử trí 169 chấn thương & vết thương tá tràng trong 25 năm tại Bệnh viện Chợ Rẫy: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
TỔNG KẾT KINH NGHIỆM XỬ TRÍ 169 CHẤN THƯƠNG
& VẾT THƯƠNG TÁ TRÀNG TRONG 25 NĂM TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Tấn Cường*, Bùi Văn Ninh**, Nguyễn Bá Nhuận*, Võ Tấn Long*,
Nguyễn Minh Hải*, Nguyễn Đình Song Huy*, Phạm Hữu Thiện Chí*, Trần Chánh Tín**,
Lê Châu Hoàng Quốc Chương**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề:Tổn thương tá tràng ít gặp trong chấn thương bụng kín và vết thương bụng (2,3-5%), tuy
nhiên biến chứng và tử vong cao, nhất là khi xử trí thì đầu thất bại. Chúng tôi phân tích cơ chế chấn thương,
thời điểm can thiệp phẫu thuật, vị trí và kích thước thương tổn tá tràng, các phương pháp phẫu thuật và giải áp
tá tràng nhằm rút ra các thông số liên quan đến biến chứng và tử vong.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu các trường hợp chấn thương và vết thương tá tràng nhập BV Chợ Rẫy
trong thơ...
18 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 04/07/2023 | Lượt xem: 386 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng kết kinh nghiệm xử trí 169 chấn thương & vết thương tá tràng trong 25 năm tại Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
TỔNG KẾT KINH NGHIỆM XỬ TRÍ 169 CHẤN THƯƠNG
& VẾT THƯƠNG TÁ TRÀNG TRONG 25 NĂM TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Tấn Cường*, Bùi Văn Ninh**, Nguyễn Bá Nhuận*, Võ Tấn Long*,
Nguyễn Minh Hải*, Nguyễn Đình Song Huy*, Phạm Hữu Thiện Chí*, Trần Chánh Tín**,
Lê Châu Hoàng Quốc Chương**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề:Tổn thương tá tràng ít gặp trong chấn thương bụng kín và vết thương bụng (2,3-5%), tuy
nhiên biến chứng và tử vong cao, nhất là khi xử trí thì đầu thất bại. Chúng tôi phân tích cơ chế chấn thương,
thời điểm can thiệp phẫu thuật, vị trí và kích thước thương tổn tá tràng, các phương pháp phẫu thuật và giải áp
tá tràng nhằm rút ra các thông số liên quan đến biến chứng và tử vong.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu các trường hợp chấn thương và vết thương tá tràng nhập BV Chợ Rẫy
trong thời điểm 1/80 –3/2004 (25 năm)
Kết quả: Có 169 trường hợp, trong đó 132 do chấn thương kín (78,1%), 37 do vết thương (21,9%). Trừ 1
trường hợp điều trị bảo tồn do hẹp vì tụ máu thành tá tràng, 168 trường hợp còn lại phải phẫu thuật. Trong 117
trường hợp mổ lần đầu, 32,5% có biến chứng, 16,2% tử vong trong khi mổ từ lần hai trở đi 62,7% có biến
chứng và 35,2% tử vong. Có đến 90% tổn thương tá tràng độ II và độ III theo phân độ của Hiệp hội Chấn
thương Hoa Kỳ (ASST). Biến chứng thường gặp nhất sau mổ là bục chỗ khâu tá tràng gây viêm phúc mạc và
rò tá tràng. Có hai trường hợp tổn thương tá tràng độ V thì cả hai đều tử vong sau mổ .
Kết luận: Các yếu tố tiên lượng nặng rút ra được từ sau tổng kết này là: vết thương do hoả khí, bỏ sót
thương tổn tá tràng, mổ muộn sau 24 giờ, vị trí tổn thương tá tràng DII dưới Oddi, vỡ mặt sau tá tràng, dẫn lưu
không thích hợp (nên loại bỏ phương pháp nối vị tràng và dẫn lưu trực tiếp chổ vỡ tá tràng ). Đối với tổn
thương tá tràng độ III trở đi cần phải có phương pháp xử trí phức tạp hơn để giảm biến chứng và tử vong.
SUMMARY
EXPERIENCES IN DIAGNOSIS AND MANAGEMENT OF 169 CASES OF BLUNT AND
PENETRATING DUODENAL INJURIES IN 25 YEARS AT CHORAY HOSPITAL
Nguyen Tan Cuong, Bui Van Ninh, Nguyen Ba Nhuan, Vo Tan Long, Nguyen Minh Hai,
Nguyen Dinh Song Huy, Pham Huu Thien Chi, Tran Chanh Tin, Le Chau Hoang Quoc Chuong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 8 * Supplement of No 3 * 2004: 15 - 32
Background: Duodenal injuries are rarely encountered in blunt and penetrating trauma of the abdomen
(2.3-5%), however complications and mortalities remain high, especially when primary management fail. We
analysed the mechanisms of injuries, timing of surgical interventions, sites and size of duodenal lesions,
operating procedures in order to assess factors relating complications and mortalities.
Methods: Retrospective analzysed blunt and penetrating duodenal injuries at Cho Ray hospital during 25
years (01/1980 to 03/2004)
Results: There were totally 169 cases of duodenal rupture, 132 (78,1%) due to blunt trauma, 37 (21,9%)
due to penetrating trauma. Except for one case of intramural hematoma, the rest 168 were subjected to
surgery. In 117 cases of primary operation, 32.5% had complications and 16.2% dead compared to 62,7%
complications and 35.2% dead when re-interventions were required. As high as 90% of the injuries classified
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 14
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
as type II and III subjected to AAST classification. The most common complications were suture dehiscences
causing peritonitis and duodenal fistula. Both cases of type V injuries died after operation .
Conclusions: Severe pronostic factors included: penetrating trauma, overlooked duodenal lesions during
surgery, late intervention over 24 hours, lesions in second part of duodenum below ampulla of Vater, rupture
of posterior wall of duodenum, improper drainage (gastro- intestinal bypass and direct drainage of suture line
should be excluded). More radical procedures were required for severe lesions type III and over in order to
reduce complications and mortality. .
*BV Chợ Rẫy
** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vỡ tá tràng là một tổn thương ít gặp, chiếm từ
0,2-15% trong chấn thương bụng kín (CTBK) và vết
thương thấu bụng (VTTB)( , , , , , , , )2 3 7 8 15 19 21 32 . Ở Việt Nam tỉ
lệ vỡ tá tràng từ 2,6-5,6% nhưng khuynh hướng ngày
càng tăng, và phần lớn nguyên nhân là do tai nạn
giao thông (TNGT)( , , , , )26 27 29 31 41 . Bệnh viện Chợ Rẫy là
một bệnh viện tuyến cuối, nhận bệnh nhân ở TP. Hồ
Chí Minh và từ các tỉnh thành phía Nam, do đó có
một lưu lượng bệnh nhân chấn thương và vết thương
tá tràng rất lớn.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 5/1980 đến tháng 03/2004 có 169
trường hợp vết thương và chấn thương tá tràng, gồm
116 BN đã được xử trí tại bệnh viện tuyến trước sau
đó chuyển bệnh viện Chợ Rẫy và 53 BN được điều trị
đầu tiên tại BV Chợ Rẫy.
Tỉ lệ tổn thương tá tràng phân bố theo từng năm:
trung bình 6,76 trường hợp/năm, ít nhất là 1 TH/năm
(năm 1987) và nhiều nhất là 20 TH/năm (năm 2002).
Tuổi
Tuổi trung bình 30.08 ± 10.486 (từ 6-65 tuổi)
Giới
Nam : Nữ = 153 (90.5%) : 16 (9.5%)
Bảng :- Nguyên nhân
N = 169 Số trường hợp Tỷ lệ %
Chấn thương bụng kín 132 78.1
Vết thương bụng do bạch khí 26 15.4
Vết thương bụng do hỏa khí 11 6.5
Bảng 2: Thời gian từ lúc chấn thương đến khi phẫu
thuật
N = 169 Số trường hợp Tỷ lệ %
< 12 giờ 13 7.7
12 – 24 giờ 111 65.7
> 24 giờ 42 24.8
Không rõ 3 1.8
BN được phẫu thuật trước 12 giờ là 7,7%, từ 12-
24 giờ là 65,7%, 24,8% được phẫu thuật muộn hơn 24
giờ, trong đó có 7 TH sau 2 ngày, 1 TH sau 3 ngày, 1
TH sau 4 ngày và 1 TH sau 7 ngày mới được chẩn
đoán vỡ tá tràng đoạn I (BN có chấn thương cột sống
cổ, liệt tứ chi).
Bảng 3: Triệu chứng lâm sàng qua các lần mổ
Thông số Mổ lần 1 (%) Mổ lần 2 (%) Mổ lần 3 (%)
Sốc a 3/71 (4.2) 4/16 (25) 2/8 (25)
Đau bụng 169/169 (100) 18/19 (94.7) 8/8 (100)
Sốt a 15/134 (11.2) 11/19 (57.9) 5/8 (62,5)
Đề kháng
thành bụng a
131/146 (89.7) 14/19 (73.7) 2/8 (25)
Máu ra tube
Levine a
2/71 (2.8)
a Các trường hợp còn lại không ghi nhận được
thông số trong bệnh án
Tỉ lệ sốc khi mổ lần 2 và 3 cao hơn hẳn so với các
trường hợp được mổ lần đầu với p= 0,007 (phép
kiểm Fisher)
Bảng 4- Cận lâm sàng
Siêu âm
N= 61
X quang
N= 53
CT- scan
N= 8
Liềm hơi dưới hoành 9 (17.0)
Hơi sau phúc mạc 11 (20.8) 1
Ổ bụng mờ (dịch ổ bụng) 55 9 (17.0) 1
Tụ máu sau phúc mạc 3
Bình thường 6 24 (45.3) 3
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 15
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
Bảng 5: Vị trí tổn thương tá tràng
DI DII trên Oddi DII dưới Oddi DIII DIV
Số trường hợp 36 76 70 54 16
Vị trí tổn thương thường gặp nhất là D II chiếm
86,39%, kế đến là vị trí D III (31,95%), vị trí D I (21,3%)
và ít bị tổn thương nhất là vị trí D IV (9,46%). Cần ghi
nhận là một bệnh nhân có thể tổn thương nhiều vị trí
tá tràng cùng lúc.
Bảng 6: Số vị trí tổn thương trên tá tràng
Số vị trí tổn thương trên tá tràng Số trường hợp Tỷ lệ %
Tổn thương 1 vị trí
Tổn thương 2 vị trí
101
54
59,8
31,9
Tổn thương 3 vị trí
Tổn thương 4 vị trí
13
1
7,7
0,6
Tổng 169 100
Bảng 7: Vị trí tổn thương theo mặt trước sau của tá
tràng
a Các trường hợp khác không ghi nhận được
trong bệnh án
Số trường hợp Tỷ lệ %
Mặt trước 75 56.8
Mặt sau 22 16.7
> 50% khẩu kính 35 26.5
Tổng a 132
D1: 21,3%
D2 trên Oddi
44,97%
D2 dưới Oddi
41,42%
D4: 9,46%
D3: 31,95%
3333318 3%
Hình .1 : Vị trí tổn thương tá tràng
Bảng 8- Phân độ tổn thương tá tràng theo hiệp hội
phẫu thuật chấn thương hoa kỳ (aast) (25)
Độ Mức độ tổn thương Số bn (%)
ĐỘ I
- Tụ máu nhỏ (1 phần tá tràng), rách
thanh cơ tá tràng
2 (1,2)
ĐỘ II
- Tụ máu rộng ( >1 phần tá tràng), vỡ
<50% khẫu kính
90 (53,3)
ĐỘ III
- Vỡ 50-75% khẩu kính của D2, vỡ 50-
100% khẩu kính của D1, D3, D4.
62 (36,7)
ĐỘ IV - Vỡ>75% khẩu kính của D2, liên quan đến bóng Vater hoặc đoạn cuối OMC
13 (7,7)
ĐỘ V
- Hoại tử tá tràng (do tổn thương mạch
máu nuôi), vỡ khối tá- tụy phức tạp
2 (1,2)
Liên quan giữa tỉ lệ biến chứng với
các tổn thương kết hợp
Bảng 9: Tổn thương trong ổ bụng đi kèm
Biến chứng P
N
Không Có
Gan 28 16 12 0.866
Lách 6 1 5 0.034
Tụy 18 5 13 0.005
Dạ dày 14 4 10 0.017
Ruột non 12 5 7 0.217
Đại tràng 18 11 7 0.818
Túi mật 8 6 2 0.334
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 16
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
Biến chứng P
N
Không Có
ống mật chủ 4 0 4 0.016
tĩnh mạch lớn 9 5 4 0.85
động mạch chính 4 2 2 0.724
Hệ niệu 7 6 1 0.137
Trong các tổn thương nội tạng bụng kèm theo,
chỉ nhận thấy tổn thương lách, tụy, dạ dày và OMC
làm tăng tỉ lệ biến chứng một cách có ý nghĩa thống
kê (phép kiểm Fischer với thứ tự P = 0,034; P =
0,005; P = 0,017; p= 0,016).
Bảng 10: So sánh số thương tổn kèm theo ở nhóm có
và không có tử vong
Tổn thương ngoài ổ bụng
đi kèm
Số thương tổn trong
ổ bụng đi kèm
Có Không
Không tử
vong
0.67 ± 0.92 17 (65,4%) 116 (81,1%)
Có tử vong 1.33 ± 1.042 9 (34,6%) 27 (18,9%)
Như vậy BN có càng nhiều thương tổn ổ bụng đi
kèm thì tiên lượng càng xấu ; p = 0.001 (t-test) =>.
Ngược lại, tổn thương cơ quan ngoài ổ bụng đi kèm
tổn thương tá tràng không làm tăng tỉ lệ tử vong
p=0,071 (χ2 test).
Bảng 11 Chẩn đoán trước mổ
Chẩn đoán trước mổ Số trường hợp Tỷ lệ %
Xuất huyết nội 21 12.4
CTBK vỡ tạng rỗng 87 51.5
VTTB thủng tạng rỗng 28 16.6
Viêm phúc mạc 4 2.4
Vỡ tá tràng 17 10.1
CTBK vỡ lách 2 1.2
Viêm tụy hoại tử 1 0.6
Bụng ngoại khoa 9 5.3
Chẩn đoán được vỡ tá tràng trước mổ có17 /169
(10,1%).
Bảng 12- Bỏ sót thương tổn
bỏ sót thương tổn tổng
không có
Tuyến trước chuyển lên 107 (92.2%) 9 (7.8%) 116
BV Chợ Rẫy 52 (98.1) 1 (1.9%) 53
Tổng 159 10 169
Có 2 trường hợp bỏ sót thương tổn đại tràng, 10
trường hợp bỏ sót thương tổn tá tràng (9 mổ tại bệnh
viện tuyến trước, 1 mổ lần đầu tại BV Chợ Rẫy). Với p
= 0.133 (χ2 – test) : không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ
bỏ sót thương tổn ở BV Chợ Rẫy thấp hơn ở tuyến
trước nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 13: Vị trí thương tổn và sót tổn thương
N = 168* Mặt trước Mặt sau >50% khẩu kính
Không sót thương
tổn
101 (98.1%) 58 (87.9%) 43
Có bỏ sót thương
tổn
2 (1.9%) 8 (12.1%) 0
* Có 1 trường hợp tổn thương tá tràng độ 1, chỉ là
tụ máu thành tá tràng
Với p = 0.001 (χ2 test): như vậy vị trí thương tổn
mặt sau tá tràng bị bỏ sót nhiều hơn hẳn so với mặt
trước. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Bảng 14: Số lần mổ
Số trường hợp Biến chứng Tử vong (%)
Mổ 1 lần 117 38 (32.5) 19 (16,2)
Mổ nhiều lần
- 2 lần
51
22
32 (62,7)
11 (50)
18 (35,3)
4 (18,2)
- 3 lần 25 18(72) 12 (48)
- 4 lần 3 2(66,7) 1 (33,3)
- 5 lần 1 1 (100) 1 (100)
Tổng 168
P=0,003 (χ2 test): tỉ lệ biến chứng và tử vong ở
nhóm mổ nhiều lần cao hơn nhóm mổ 1 lần. Sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê
Bảng 15 Các phương pháp phẫu thuật và giải áp mổ
lần đầu
a Có 6 trường hợp mổ tại bệnh viện tuyến trước
nhưng chỉ khâu tạm rồi chuyển vào bệnh viện Chợ
Rẫy mổ lại trong vòng 24 giờ
Biến chứng
Phân độ tổn thương Khô
ng
Chảy
máu
Ntvm Bục Rò chỗ
khâu
Tử
vong
Không điều trị 1 1
Độ I
Khâu đơn thuần 1 1
Không điều trị 1 1 1
Khâu đơn thuần 25 16 4 5 1
Khâu + giải áp 49 35 7 7 5
Độ II
nối vị tràng 7 4 3
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 17
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
Biến chứng
Phân độ tổn thương Khô
ng
Chảy
máu Ntvm Bục
Rò chỗ
khâu
Tử
vong
DL bằng 1-3
ống
36 29 4 3 2
Đặt ống T qua
chỗ khâu
6 2 3 1 3
Nối tá – hỗng
tràng
5 3 2 1
Túi thừa hóa tá
tràng 9 4 4 1 2
Triệt môn vị 1 1
Khâu đơn thuần 6 1 3 2 4
Khâu + giải áp 25 19 1 4
nối vị tràng 8 4 5
Phối hợp
NVT+DL
3 2 4 1
DL bằng 1-3
ống 12 11 1 1 1
Đặt ống T qua
chỗ khâu 2 1 1 2
Nối tá – hỗng
tràng
13 8 1 4 4
Triệt môn vị 3 2 1 1
Độ
III
Túi thừa hóa tá
tràng
15 6 5 4 8
Khâu + giải áp
DL bằng 1-3
ống
9 4 2 1 2 2
Nối tá – hỗng
tràng 3 1 1 1 1
Độ
IV
Khâu triệt môn
vị 1 1 1
Khâu + NVT 1 1 1
Độ V
Whipple 1 1 1
Kết quả điều trị
Bảng 16
Số trường hợp Tỷ lệ %
Không biến chứng 87 51.5
Có biến chứng 45 26.6
Tử vong 37 21.9
Tổng 169 100
Bảng 17: Mổ lần 2
Mổ lần 2 Tổng
Không biến chứng Có biến chứng
Tuyến trước chuyển 75 (65.2%) 40 (34.8%) 115
Vào BV Chợ Rẫy 42 (79.2%) 11 (20.8%) 53
Tổng 117 51 168
Có 51 trường hợp được mổ lại lần 2, trong đó có
11 trường hợp (21.6%) được mổ tại BV Chợ Rẫy và 40
trường hợp (78.4%) được mổ lại tại các BV tuyến
trước.
Mặc dù biến chứng khi mổ lại lần hai tại bệnh
viện Chợ Rẫy thấp hơn mổ lần hai tại bệnh viện
tuyến trước, nhưng sự khác biệt này chưa có ý nghĩa
về mặt thống kê, với p = 0.066 (χ2 – test).
Bảng 18:Biến chứng sớm sau mổ
Số trường hợp Tỷ lệ %
Không biến chứng 99 58.6
Chảy máu 3 1.8
Nhiễm trùng vết mổ 3 1.8
Bục miệng nối (viêm phúc
mạc )
35 20.7
Rò tá tràng 27 16.0
Khác a 2 1.2
a Gồm 1 trường hợp bị áp xe tồn lưu và 1 trường hợp rò
ruột non.
Chúng tôi gặp 70 TH có biến chứng sau mổ,
chiếm 41,42%. Biến chứng thường gặp nhất là viêm
phúc mạc và áp xe sau phúc mạc do bục chổ khâu tá
tràng 20,7% (35TH), rò tá tràng 27% (16 TH).
Bảng 19: Biến chứng muộn
Biến chứng muộn Số trường hợp Tỷ lệ %
Không biến chứng 139 82.2
Rò tá tràng kéo dài > 3
tuần
17 10.1
Aùp xe tồn lưu 6 3.6
Nhiễm trùng nhiễm độc 6 3.6
Khác a 1 0.6
a Trường hợp này bị XHTH và TMMP
Rò tá tràng kéo dài, áp xe sau phúc mạc, nhiễm
trùng nhiễm độc thường xảy ra trên các bệnh nhân
đã mổ lại nhiều lần (từ 2-5 lần), tổng trạng suy kiệt
cần phải nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch
Bảng 20: Biến chứng toàn thân
Biến chứng toàn thân Số trường hợp Tỷ lệ %
Không biến chứng 145 85.8
Viêm phổi 1 0.6
Nhiễm trùng tiểu 3 1.8
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 18
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
Biến chứng toàn thân Số trường hợp Tỷ lệ %
Suy kiệt 9 5.3
Nhiễm trùng nhiễm độc 8 4.7
Tắc ruột 1 0.6
Suy hô hấp 2 1.2
Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả
điều trị và tiên lượng
Bảng 21: Liên quan giữa nguyên nhân vỡ tá tràng
với biến chứng và tử vong
biến chứng tử vong
không có không có
Chấn thương bụng kín 74
(56.1%)
58
(43.9%)
102
(77.3%)
30(22.7
%)
Vết thương bụng do
bạch khí
18
(69.2%)
8
(30.8%)
24(92.3%
)
2(7.7%)
Vết thương bụng do
hỏa khí
6 (60%) 4 (40%) 6
(54,5%)
5
(45,5%)
Bảng 22: Liên quan giữa tỉ lệ tử vong & biến chứng
với khoảng thời gian từ lúc chấn thương đến khi được
mổ
Biến chứng Tổng
Không Có
Trước 24 giờ 94 (75.8%) 30 (24.2%) 124
Sau 24 giờ 20 (47.6%) 22 (52.4%) 42
Tổng 114 52 166
Với p = 0.001 (χ2 – test) tỉ lệ biến chứng trong
nhóm được can thiệp phẫu thuật trước 24 giờ thấp
hơn so với nhóm sau 24 giờ và sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (có 3 trường hợp không ghi nhận được thời
điểm mổ).
Bảng 23: Kết quả tùy theo thời điểm mổ lại
Biến chứng Tổng
Không Có
Can thiệp lại trước 24
giờ
12 (80%) 3 (20%) 15
Can thiệp lại sau 24 giờ 12 (11.1%) 24 (88.9%) 36
Tổng 24 27 51
Biến chứng trong nhóm được mổ sau 24 giờ cao
hơn nhóm mổ trước 24 giờ ; p = 0.002 (χ2 – test).
Bảng 24: Liên quan giữa vị trí tổn thương với biến
chứng và tử vong
biến chứng tử vong Thương tổn
không có không có
Trên Oddi 58 (70.7%) 24 (29.3%) 66 (80.5%) 16
(19.5%)
Dưới Oddi 41 (47.1%) 46 (52.9%) 66 (75.9%) 21
(24.1%)
Tổng 99 70 132 37
Biến chứng do thương tổn dưới Oddi cao hơn hẳn
so với nhóm thương tổn trên Oddi (p = 0.002; χ2 ).
Tử vong trong nhóm thương tổn dưới Oddi cũng cao
hơn nhóm thương tổn trên Oddi nhưng p = 0.467
(χ2)
Bảng 25: Liên quan giữa vị trí tổn thương theo mặt
trước-sau với thời điểm phẫu thuật, biến chứng và tử
vong
thời điểm pt biến chứng tử vong thương
tổn
tá tràng
24 giờ KHÔNG CÓ KHÔNG CÓ
Mặt
trước
85
(84.2%)
16
(15.8%)
67
(65%)
36
(35%)
84
(81.6%)
19
(18.4%)
Mặt sau 39
(60%)
26
(40%)
32
(48.5%)
34
(51.5%)
48
(72.7%)
18
(27.3%)
Tổng 124 42 99 70 132 37
Thương tổn mặt sau được mổ muộn hơn nhóm
có thương tổn mặt trước ;p = 0.001 (χ2). Biến chứng
do thương tổn mặt sau cao hơn hẳn so với thương tổn
mặt trước tá tràng; p = 0.033 (χ2 ), nhưng không có
sự khác biệt về tử vong giữa hai nhóm với p = 0.167
(χ2 – test)
Bảng 26: Liên quan giữa mức độ tổn thương với biến
chứng và tử vong
Biến chứng Tử vong Mức độ tổn
thương Không Có Không Có
Tổn thương tá
tràng nhẹ
61
(66.3%)
31 (33.7%) 80 (87%) 12 (13%)
Tổn thương tá
tràng nặng
38
(49.4%)
39 (50.6%) 52 (67.5%) 25
(32.5%)
Tổng 99 70 132 37
Biến chứng trong nhóm tổn thương tá tràng mức
độ nặng (độ III, IV & V) cao hơn so với nhóm tổn
thương tá tràng nhẹ (độ I & II) , p = 0.026 (χ2 – test).
Tử vong trong nhóm tổn thương tá tràng mức độ
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 19
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
nặng cũng cao hơn rõ rệt so với nhóm tổn thương tá
tràng nhẹ có ý nghĩa thống kê, p = 0.002 (χ2 – test).
Bảng 27: Liên quan giữasót tổn thương với biến
chứng & tử vong
Biến chứng Tử vong
Không Có Không Có
Không bỏ sót
thương tổn
97 (61%) 62 (39%) 126 (79.2%) 33 (20.8%
Có bỏ sót
thương tổn
2 (20%) 8 (80%) 6 (60%) 4 (40%)
Tổng 99 70 132 37
Biến chứng trong nhóm có bỏ sót tổn thương tá
tràng cao hơn so với nhóm không bỏ sót tổn thương
tá tràng; p = 0.011 (χ2 – test), nhưng không có khác
biệt có ý nghĩa với tỉ lệ tử vong , với p = 0.153 (χ2 –
test)
BÀN LUẬN
Vỡ tá tràng trong CTBK và VTTB là một tổn
thương tương đối ít gặp, tuy nhiên trong những năm
gần đây có chiều hướng gia tăng, cụ thể như sau:
Bảng 28 Số TH vỡ tá tràng ở BV chợ rẫy và BV Việt
Đức
Bệnh viện Thời gian Số ca
Nguyễn K. Dư( )28 12 năm (1980-1992) 11
Nguyễn T. Cường( )30 5 năm (1991-1996) 32
Trần Văn Đức( )40 5 năm (1996-2000) 35
Chợ Rẫy
Nguyễn T. Cường( )39 7 năm (1975-1982) 44
Chúng tôi 25 năm (1980-2004) 169
Vũ Mạnh( )44 10 năm (1981-1990) 18
Phạm Đức Huấn( )34 3 năm (1993-1995) 37 Việt Đức
Trịnh Văn Tuấn( )41 3 năm (1995-1998) 50
Mật độ giao thông ở nước ta ngày càng đông đúc,
tai nạn giao thông xảy ra thường xuyên mà đây là
một trong những nguyên nhân chủ yếu trong vỡ tá
tràng do CTBK.
Nguyên nhân
Bảng 29: So sánh nguyên nhân trong vỡ tá tràng
Tác giả Thời gian Số BN CTBK (%) VTTB (%)
Nguyễn T.Cường( )30
Phạm Đ. Huấn( )34
Kline( )23
Mansour( )24
Chúng tôi
1980-1992
1993-1994
1984-1993
1970-1979
1980-2004
32
37
101
75
169
71,8
62,2
8
25,3
78,1
28,2
37,8
92
74,7
21,9
Vỡ tá tràng do CTBK chiếm 78,1%, do VTTB
chiếm 21,9%, phù hợp với các tác giả trong nước.
Ngược lại, theo Degiannis( )7 thì nạn bạo lực và việc sử
dụng vũ khí tự do trong xã hội như Mỹ, Nam Phi v.v..
nên tỉ lệ vỡ tá tràng do VTTB nhiều hơn do
CTBK( , , , , )7 8 11 19 22 . Chúng tôi nhận thấy: biến chứng ở
nhóm CTBK là 43,9%, ở nhóm vết thương bạch khí là
30,8%, ở nhóm vết thương hoả khí là 40%. Giữa hai
nhóm CTBK và VTTB không có khác biệt (p =
0,081), tuy nhiên biến chứng và tử vong của nhóm
do hoả khí cao hơn rõ rệt nhóm bị vết thương bạch
khí (p = 0.02; χ2 ) (bảng 20).
Bảng 30: Thời gian từ lúc bị chấn thương đến khi
được mổ
Phần lớn BN được phẫu thuật trong 24 giờ đầu .
So sánh với các tác giả khác như sau:
Tác giả Số BN Mổ trong 24giờ Mổ sau 24 giờ
Tạ Kim Sơn( )37
Văn Ngọc Y( )42
Ngô Minh Nhựt( )26
Nguyễn T. Cường( )30
Chúng tôi
14
14
30
30
166a
10 (71,4%)
13 (92,6%)
26 (86,7%)
23 (76,7%)
124 (74,7%)
5 (29,6%)
1 (7,4%)
4 (13,3%)
7 (23,3%)
42 (25,3%)
a Có 3 trường hợp không ghi nhận được thời điểm
phẫu thuật
Trong mổ lần đầu, 124 trường hợp mổ trước 24
giờ biến chứng 24,2%; 42 trường hợp mổ sau 24 giờ
biến chứng 52,4%. Tỉ lệ biến chứng trong nhóm được
can thiệp phẫu thuật trước 24 giờ thấp hơn so với
nhóm sau 24 giờ và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p = 0.001; χ2 test) (có 3 trường hợp không ghi nhận
được thời điểm mổ).
Thời điểm can thiệp phẫu thuật cũng rất quan
trọng trong những TH mổ lại do bục, rò, nếu BN được
mổ lại trong 24 giờ đầu sẽ làm giảm đáng kể tỉ lệ biến
chứng và tử vong. Trong nghiên cứu này chúng tôi có
51 TH bục rò phải mổ lại 75 lần, nếu mổ lại trong 24
giờ đầu có biến chứng 20% , trong khi mổ lại sau 24
giờ có biến chứng đến 88,9%, ( p = 0.006) (bảng 24).
Những trường hợp rò tá tràng nếu chịu đựng được
quá 7 ngày và được nuôi dưỡng tốt thì mổ lại cũng
cho kết quả tốt. Thực tế khi vỡ tá tràng hoặc khi bị
bục rò vết khâu tá tràng được mổ lại càng muộn, thì
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 20
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
mức độ viêm nhiễm trong ổ bụng hay vùng sau phúc
mạc càng nặng nề. Trong nghiên cứu của chúng tôi
có 1 TH vỡ tá tràng sau phúc mạc được mổ muộn
hơn 24 giờ, thấy khoang sau phúc mạc hoại tử rộng,
có mùi hôi, BN tử vong trong ngày hậu phẫu thứ hai
do sốc nhiễm trùng nhiễm độc. Mặt khác, khi mổ
muộn thì quá trình viêm làm cho mép vết thương
phù nề, dầy hơn, tính chất mô giòn hơn nên việc
khâu nối gặp khó khăn và nguy cơ bục rò nhiều
hơn( )19 . Theo các tác giả khác( , , , , )1 5 10 11 13 can thiệp phẫu
thuật muộn hơn 24 giờ, là một yếu tố có liên quan với
sự tăng tỉ lệ biến chứng ở BN vỡ tá tràng.
Đặc điểm tổn thương tá tràng
Bảng 31- Vị trí tổn thương của tá tràng
Vị trí tổn thương (%)
Tác giả Số BN
D I D II D III D IV
Nguyễn Tấn Cường( )30
Nguyễn Khánh Dư( )29
Bourez( )5
Ivatury( )20
Chúng tôi
32
17
23
74
I69
3,3
11,8
17,4
12,1
21,3
53,3
70,6
56,5
54
86,4
28,1
11,8
17,4
14,8
31,9
9,3
5,8
8,7
18,9
9,5
So với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên,
kết quả của chúng tôi cũng tương tự: D II, D III là vị trí
tổn thương thường gặp nhất. Về mối liên quan giữa
biến chứng với vị trí tổn thương, chúng tôi nhận thấy
vỡ tá tràng dưới Oddi có tỉ lệ biến chứng là 52,9%, vỡ
tá tràng trên Oddi tỉ lệ biến chứng chỉ 29,3% (bảng
25). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, p = 0.002.
Tử vong trong nhóm thương tổn dưới Oddi cũng cao
hơn nhóm thương tổn trên Oddi (24,1% so với 19,5%)
nhưng sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê, p =
0.467. Tá tràng có dạng hình chữ C, thường đóng kín
hai đầu ở môn vị và góc Treitz. Lưu lượng dịch đi qua
tá tràng 5-6 lit /ngày nên áp lực ở tá tràng cao hơn ở
ruột non. Sau khi bị chấn thương và sau khi mổ, tá
tràng thường liệt vận động kéo dài nên dịch ứ đọng
nhiều, nhất là ở phần thấp của tá tràng từ nhú Vater
trở xuống. Do đó tỉ lệ bục rò đường khâu ở đoạn dưới
Oddi nhiều hơn( , , , )12 18 26 42 .
Liên quan đến vị trí tổn thương, chúng tôi có 166
TH được ghi nhận vị trí tổn thương theo mặt trước-
sau. Có 65 TH (39,2%) tổn thương ở mặt sau, 101 TH
(61,8%) tổn thương ở mặt trước. Thương tổn mặt sau
được can thiệp phẫu thuật muộn hơn nhóm có
thương tổn mặt trước (40% vỡ tá tràng mặt sau được
mổ muộn hơn 24 giờ, trong khi chỉ có 15,8% vỡ tá
tràng mặt trước được mổ muộn sau 24 giờ), sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê, với p = 0.001 (bảng 24). Tỉ
lệ biến chứng trong nhóm thương tổn mặt sau
(51,5%), cao hơn hẳn so với nhóm thương tổn mặt
trước tá tràng (35%) và sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê, với p = 0.033 , nhưng không có sự khác biệt về tử
vong giữa hai nhóm với p = 0.167. Vỡ tá tràng ở mặt
sau làm cho chẩn đoán chẩn đoán muộn hơn , do
dịch tá tràng không chảy vào khoang phúc mạc mà
vào khoang sau phúc mạc, vì vậy biểu hiện lâm sàng
thường không rõ ràng, thậm chí không làm cho BN
quan tâm đến việc đi khám bệnh sau chấn thương.
Mặt khác, tổn thương ở mặt sau làm cho các phẫu
thuật viên khó phát hiện hơn khi thám sát ổ bụng,
nhất là các phẫu thuật viên ít kinh nghiệm. Chúng tôi
có 1 TH bị trâu húc làm thủng mặt trước và mặt sau
tá tràng D II. BN được mổ khâu vết thương mặt trước
tá tràng, bỏ sót vết thương mặt sau. Đến ngày thứ 4
sau mổ BN bị viêm phúc mạc và được mổ lại lần thứ
hai nhưng vẫn không phát hiện có vết thương ở mặt
sau. Sau đó BN bị viêm phúc mạc nặng nề, được
chuyển đến BV Chợ Rẫy mổ lại lần 3 mới thấy vết
thương ở mặt sau tá tràng, sau đó BN bị rò tá tràng
nhưng điều trị nội ổn định sau 38 ngày. Trong số
10/166 TH bỏ sót tổn thương tá tràng trong khi mổ,
8/65 (12,3%) TH tổn thương ở mặt sau, chỉ có 2/101
(2%) TH tổn thương ở mặt trước. Sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê (p = 0,006; phép kiểm χ2).
Như vậy tổn thương mặt sau tá tràng làm cho
chẩn đoán khó khăn hơn dẫn đến can thiệp phẫu
thuật muộn và tăng tỉ lệ bỏ sót tổn thương của tá
tràng trong khi thám sát ổ bụng làm tăng đáng kể tỉ
lệ biến chứng.
Bảng 32: Mức độ tổn thương tá tràng
Mức độ tổn thương tá tràng (%) Tác giả Số BN
Độ I Độ II Độ III Độ IV ĐộV
Đào Q. Minh (13)
Trần V. Đức (40)
Timaran (38)
12
35
152
16,7
5,7
6,7
33,3
65,7
36
33,3
28,6
56
8,3
0
1,3
8,3
0
0
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 21
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
Mức độ tổn thương tá tràng (%) Tác giả Số BN
Độ I Độ II Độ III Độ IV ĐộV
Kline (23)
Velmahos (43)
Chúng tôi
101
91
166
4,9
7.7
1,2
30,7
52,7
53,3
39,6
26,4
36,7
11,8
5,5
7,7
12,8
7,7
1,2
Dựa theo bảng phân độ tổn thương tá tràng của
Hiệp hội phẫu thuật chấn thương Hoa Kỳ, phần lớn
tổn thương tá tràng của chúng tôi ở độ II và độ III
(90%), tổn thương độ I hoặc độ V chỉ chiếm 1,2%, còn
lại là độ IV (7,7%) (bảng 8). So với các tác giả khác:
Trần Văn Đức( )40 trong 35 TH vỡ tá tràng có tỉ lệ biến
chứng là: 0% đối với độ I, 17,4% đối với độ II và 50%
đối với độ III. Ngô Minh Nhựt( )26 trong 30 TH, tỉ lệ
biến chứng là: 7,1% khi vỡ < 75% khẩu kính tá tràng,
50% khi vỡ > 75% khẩu kính. Tương tự, Nguyễn Tấn
Cường( )30 trong 32 TH, biến chứng 26% khi vỡ <75%
khẩu kính và 57% khi vỡ trên 75% khẩu kính. Kết quả
của chúng tôi cũng cho thấy tỉ lệ biến chứng là 33,7%
khi tổn thương độ I-II, 50,6% khi tổn thương độ III-V
(bảng 25). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p =
0,026. Tỉ lệ tử vong trong nhóm tổn thương tá tràng
mức độ nặng cũng cao hơn rõ rệt so với nhóm tổn
thương tá tràng nhẹ (32,5% so với 13%) và sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê, p = 0.002 . Như vậy trong
nghiên cứu này mức độ tổn thương của tá tràng có
liên quan đến tỉ lệ biến chứng và tử vong .
Bảng 33- Các tổn thương kết hợp:
Tác giả Số BN Tổn thương kết hợp (%)
Ngô Minh Nhựt( )18
Vũ Mạnh( )44
Phạm Đức Huấn( )34
Tạ Kim Sơn( )37
Flint( )16
Ballard( )3
Snyder( )4
Chúng tôi
30
18
37
14
75
30
247
169
60
77
62
64
79
90
95
50,3
Tá tràng nằm sâu trong ổ bụng, được bảo vệ vững
chắc ở phía sau bởi cột sống và khối cơ thắt lưng
chậu, ở phía trước được che chở bởi nhiều tạng, có
liên quan rất chặt chẽ với tụy, tĩnh mạch chủ dưới,
đoạn cuối OMC... do vậy chấn thương gây vỡ tá tràng
thường kèm theo tổn thương các tạng lân cận. Trong
y văn, trên 50% các TH chấn thương tá tràng có kèm
theo chấn thương một hoặc nhiều tạng khác trong ổ
bụng (bảng 10). Tổn thương nội tạng kết hợp với
thương tổn tá tràng của chúng tôi là 50,3% (85 TH),
trong đó 16,57% (28 TH) tổn thương 1 tạng, 33,72%
(57 TH) tổn thương ≥ 2 tạng. Số thương tổn đi kèm
trung bình : 0.81 ± 0.982 thương tổn, nhiều nhất là
4 thương tổn. Qua phân tích và so sánh về tỉ lệ tử
vong, cho thấy BN có càng nhiều thương tổn ổ bụng
đi kèm thì tiên lượng càng xấu. ( p = 0.001; t-test)
(bảng 9)
Khi có nhiều tổn thương kết hợp trong ổ bụng,
phẫu thuật viên dễ bỏ sót tổn thương của tá tràng
nên làm tăng tỉ lệ biến chứng. Hackam phân tích 83
TH cũng nhận thấy nhóm có tổn thương kết hợp
trong ổ bụng, có tỉ lệ biến chứng cao hơn nhóm
không có tổn thương kết hợp. Tác giả cho rằng
những tổn thương kèm theo làm cho tình trạng mất
máu nhiều hơn, thời gian cuộc mổ kéo dài hơn nên
nguy cơ biến chứng nhiễm trùng trong ổ bụng và bục
rò đường khâu cao hơn. Như vậy số lượng tổn thương
kết hợp trong ổ bụng là một trong những yếu tố làm
tăng tỉ lệ biến chứng.
Trong số các tổn thương kết hợp trong ổ bụng,
chúng tôi thường gặp nhất là gan 28 TH, tụy 18TH
(28%), đại tràng 18 TH trong đó 10 TH (16,7%) đứt
ống tụy (phần lớn ở thân và đuôi tụy), kế đến là ruột
non 12 TH, tĩnh mạch lớn 9 TH , túi mật 8 TH, hệ
niệu 7 TH, Lách 6 TH, ống mật chủ 4 TH (bảng 9).
Trong các tổn thương trong ổ bụng kèm theo, chỉ
nhận thấy tổn thương lách, tụy, dạ dày và OMC
làm tăng tỉ lệ biến chứng một cách có ý nghĩa
thống kê (phép kiểm Fischer với thứ tự P = 0,034; P
= 0,005; P = 0,017; p= 0,016). Kết hợp chấn
thương tá tràng và tụy là một tổn thương nặng nề,
phức tạp nhất trong các tổn thương do chấn thương ở
đường tiêu hóa( , )16 24 .
Các tổn thương kèm theo ngoài ổ bụng gặp ít
hơn, chỉ có 26 TH (15.4%) , trong đó gặp nhiều nhất
là chấn thương cơ quan vận động, chấn thương sọ
não hoặc chấn thương cột sống (bảng 10). p=0,071:
tổn thương cơ quan ngoài ổ bụng đi kèm tổn thương
tá tràng không làm tăng tỉ lệ tử vong
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 22
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
Timaran( )38 phân tích 152 TH vỡ tá tràng cũng
cho thấy chấn thương tụy kèm theo là một yếu tố
nguy cơ cho các biến chứng áp-xe hay nhiễm trùng
trong khoang bụng, Behrman( )4 nhận thấy 4 TH bục
đường khâu trong số 12 TH vết thương tá tràng đều
có chấn thương tụy kèm theo (p<0,05). Trong
nghiên cứu này, chúng tôi có tỉ lệ biến chứng ở nhóm
có chấn thương tụy kèm theo là 72,2% (13/18 TH) so
với nhóm không có chấn thương tụy kèm theo là
27,8% (5/18 TH). Sự gia tăng tỉ lệ biến chứng ở nhóm
có chấn thương tụy có mức ý nghĩa p = 0,005 (bảng
9). Tương tự có 4 TH kèm theo tổn thương đoạn cuối
OMC, cả 4 TH đều có biến chứng sau mổ (100%), sau
đó tử vong 1 TH. So với nhóm không tổn thương
OMC tỉ lệ biến chứng chỉ 35,7%, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê p = 0,016 . Các TH có tổn thương
đoạn cuối OMC là những tổn thương nặng (độ IV),
thường kèm theo tổn thương đầu tụy hay bóng Vater
nên rất khó khăn trong phẫu thuật (thường là cắm lại
OMC vào tá tràng) nên tỉ lệ biến chứng cao. Snyder( )35
trong 274 TH, có 13 TH có tổn thương OMC (6%), tác
giả cũng cho rằng tổn thương OMC kèm theo sẽ tăng
tỉ lệ biến chứng một cách có ý nghĩa thống kê.
Bỏ sót tổn thương của tá tràng
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 10 TH bỏ sót
tổn thương của tá tràng, trong đó 9 trường hợp bỏ sót
tại bệnh viện tuyến trước, 1 trường hợp bỏ sót khi xử
trí thì đầu tại bệnh viện Chợ Rẫy . Sau đây chúng tôi
xin nêu 2 bệnh án tiêu biểu
Trường hợp thứ nhất: BN được bệnh viện tuyến
trước mổ vì vết thương thấu bụng . Mở bụng thấy có
nhiều máu và dịch mật, có khối máu tụ ở sau phúc
mạc lan đến mào chậu, tá tràng vỡ ở mặt trước D2,
rách thanh mạc cơ hỗng tràng. BN được khâu lại tá
tràng, hỗng tràng và dẫn lưu ổ bụng (không thám sát
khối máu tụ sau phúc mạc). Bốn ngày sau BN được
mổ lại (cũng ở bệnh viện này) với chẩn đoán tắc ruột
sớm và xử trí bằng cách nối vị tràng. Đến ngày thứ 5
(sau mổ lần 2) BN được chuyển đến BV Chợ Rẫy với
tình trạng viêm phúc mạc toàn bộ và được mổ lại.
Vào ổ bụng có nhiều mủ và giả mạc, vùng sau phúc
mạc của D2 có một khối áp-xe to, mủ hôi thối. Sau
khi làm sạch thấy đường khâu mặt trước bị bục hoàn
toàn và một lỗ thủng ở mặt sau D2 bị bỏ sót. BN được
xử trí bằng cách cắt bỏ đoạn tá tràng tổn thương và
đoạn hỗng tràng qua khỏi miệng nối vị tràng. Lấy
đầu hỗng tràng còn lại nối vị tràng và cắm đầu gần
của tá tràng vào quai đi của miệng nối vị tràng. Mở
thông hỗng tràng ra da 2 lỗ: đặt một ống ngược dòng
qua khỏi miệng nối tá-hỗng tràng, một ống xuôi dòng
để nuôi ăn. Sau mổ BN bị rò tá tràng, nhưng điều trị
nội khoa ổn định sau 38 ngày.
Trường hợp thứ 2: Đây là trường hợp duy nhất bỏ
sót thương tổn được mổ lần đầu tại bệnh viện Chợ
Rẫy. Lần thứ nhất, phẫu thuật viên thấy vỡ gan, vỡ
lách nông, dập tá tràng, dập tụy, tụ máu đầu tụy và
quanh tá tràng. Xử trí là khâu gan, khâu lách, không
thám sát khối máu tụ đầu tụy và quanh tá tràng, dẫn
lưu ổ tụy và dưới gan. Sau mổ 4 ngày ống dẫn lưu ra
dịch tiêu hoá, 7 ngày mới mổ lại lần hai, phát hiện vỡ
mặt sau tá tràng D II độ II , lỗ vỡ tá tràng được khâu lại
và dẫn lưu 3 ống, sau vài ngày ống dẫn lưu lại ra dịch
tiêu hoá và bệnh nhân được mổ lại lần thứ ba. Lần
này chỗ khâu tá tràng bị bục và chân ống dẫn lưu
hỗng tràng nuôi ăn cũng bị rò, xử trí là khâu lại lỗ vỡ
tá tràng, cắt đoạn dạ dày, cắt bỏ hỗng tràng chỗ chân
ống nuôi ăn bị rò, đưa đầu dưới hỗng tràng lên nối với
dạ dày kiễu Roux-en-Y. Sau mổ 4 ngày lại xì dịch tiêu
hoá, bệnh nhân suy kiệt, sốc, ngưng tim, được hồi
sức và mổ lại sau 7 ngày. Lần mổ thứ tư bệnh nhân
rất suy kiệt, khi mổ thấy mõm tá tràng và miệng nối
vị- tràng đều bị xì, vì tình trạng bệnh nhân nặng nên
chỉ khâu lại các chỗ xì này. Sau mổ 1 ngày lại xì dịch
tiêu hoá, mổ lại lần thứ năm đưa tất cả các chỗ xì ra
da, bệnh nhân nặng, gia đình xin về.
Qua các trường hợp trên đây chúng tôi nhận
thấy:
- tỉ lệ bỏ sót thương tổn tá tràng được xử trí tại
bệnh viện tuyến trước là 7,8% (9/116), tỉ lệ bỏ sót tại
bệnh viện Chợ Rẫy là 1,9% (1/53), tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê, p = 0.133 .
- Đến 80% (8/10) các TH bỏ sót có vị trí tổn
thương ở mặt sau tá tràng, tất cả đều là lỗ vỡ dưới
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 23
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
50% khẫu kính.
- 100% (10/10 TH) có tổn thương kết hợp trong ổ
bụng hoặc đa chấn thương, các TH này khi vào ổ
bụng đều thấy có dịch mật hoặc tụ máu sau phúc
mạc ở vùng tá tràng hoặc đầu tụy nhưng phẫu thuật
viên không thám sát khối máu tụ hoặc tụ dịch mật.
- Những TH do VTTB khi đã thấy thủng mặt
trước tá tràng thì phải thận trong kiểm tra mặt sau vì
khả năng xuyên thấu của nó sẽ làm thủng mặt sau,
100% (2/2 TH) trong nhóm này thủng mặt trước tá
tràng do VTTB đều có thủng mặt sau.
Bỏ sót tổn thương tá tràng trong khi mổ có ảnh
hưởng rất lớn đến kết quả điều trị. Chúng tôi có10 TH
bỏ sót thì 8 bị biến chứng rò (80%; so với 39% ở
nhóm không có bỏ sót tổn thương) (p =0,011) và 4
tử vong (40%; so với 20,8% ở nhóm không bỏ sót
thương tổn) (p = 0.153) . Chun Ki Sung (36) phân
tích 12 TH bỏ sót tổn thương trong số 607 TH CTBK,
cho thấy các TH này cũng đều có tổn thương kết hợp
trong ổ bụng. Tỉ lệ biến chứng ở nhóm này rất cao so
với nhóm không có bỏ sót tổn thương (83% so với
36%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê.
Vì vậy bí quyết để chẩn đoán là phải biết nghi
ngờ. Có khi hơi vỡ ra sau phúc mạc lan xuống vùng
quanh trực tràng có thể khám thấy khi thăm trực
tràng. Theo Harrison và Debas (6), quan trọng nhất
giúp chẩn đoán là chụp X quang . Chụp phim bụng
không sửa soạn có thể thấy hơi xì ra sau phúc mạc,
viền rõ bóng thận phải và cơ psoas phải, có thể thấy
liềm hơi dưới hoành khi vỡ tá tràng trong phúc mạc.
Hiếm hơn có thể thấy hình lỗ chỗ như tổ ong của hơi
ở vùng khung tá tràng hoặc toàn bộ vùng sau phúc
mạc bên phải. Dùng chất cản quang uống
(Gastrograffin) sẽ phát hiện chất cản quang chảy vào
ổ bụng. Tại bệnh viện Chợ Rẫy gần đây chúng tôi áp
dụng uống cản quang tan trong nước và đã phát hiện
một số trường hợp vỡ tá tràng kín đáo mà trước đó
các phương tiện chẩn đoán khác không chẩn đoán ra.
Trong 53 trường hợp được chụp X quang bụng và có
ghi nhận kết quả trong bệnh án thì chỉ có 11 (20.8%)
trường hợp chẩn đoán được vỡ tá tràng với hình ảnh
hơi sau phúc mạc. Siêu âm có 55/61 (90,2%) ghi
nhận có dịch tự do ổ bụng , không trường hợp nào
chẩn đoán được vỡ tá tràng. CT scan bụng được thực
hiện trong 8 trường hợp, có 5 (62.5%) chẩn đoán
được vỡ tá tràng (3 TH có tụ máu sau phúc mạc, 1 TH
có hơi sau phúc mạc, 1 TH có dịch tự do trong ổ
bụng). Như vậy CT scan bụng là phương tiện đáng tin
cậy nhất để chẩn đoán xác định vỡ tá tràng trước mổ.
Nếu nghi ngờ tổn thương tá tràng sau phúc mạc
thì nên dùng thủ thuật Kocher lật tá tràng DII ra khỏi
phúc mạc thành sau để thám sát mặt sau tá tràng DII-
III, ống mật chủ và tụy . Khi nghi ngờ tổn thương DIII
hoặc DIV thì hoặc bóc tách góc gan của đại tràng
ngang , hoặc dùng thủ thuật Cattel-Braach (9) để lật
đại tràng phải và 1 phần ruột non cộng mạc treo ruột
non lên trên để bộc lộ DIII và DIV.
Các phương pháp phẫu thuật.
Số lần mổ
Trong 168 TH vỡ tá tràng được mổ, chúng tôi có
192 lần phẫu thuật liên quan đến tá tràng. Số lần
phẫu thuật và kết quả được phân bố như sau:
- 117 BN chỉ qua một lần mổ, trong đó 38
(32,5%) có biến chứng bục chỗ khâu tá tràng hoặc rò
tá tràng, 19 tử vong (16,2%)
- 22 BN phải mổ lại lần thứ hai, 11 (50%) có biến
chứng : 7 bị bục chỗ khâu tá tràng gây viêm phúc
mạc trong đó 1 bị nhiễm trùng nhiễm độc và suy
thận cấp, 2 rò tá tràng, 1 nhiễm trùng vết mổ phải
rạch tháo mủ và cắt lọc, 4 TH (18,2%) tử vong trong
đó có 1 trường hợp tử vong trên bàn khi mổ lại vì xuất
huyết do tổn thương tĩnh mạch chủ
- 25 BN mổ lần thứ ba, 18 (72%) có biến chứng:
13 bị bục chỗ khâu tá tràng, 1 rò ruột non, 4 rò tá
tràng, 12 tử vong (48%) chủ yếu do nhiễm trùng
nhiễm độc, suy thận, suy hô hấp, suy đa cơ quan
- 3 BN mổ lại lần thứ tư, 2 (66,6%) có biến chứng
rò tá tràng kéo dài , suy hô hấp, viêm phổi, 1 tử vong
(33,3%)
- 1 BN mổ lại lần thứ năm trong tình trạng vô
vọng, trước mổ có ngưng tim, suy kiệt, nhiễm độc.
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 24
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
Mổ xong trở nặng, người nhà xin về (100%)
Như vậy tỉ lệ biến chứng và tử vong ở nhóm mổ
nhiều lần cao hơn nhóm mổ 1 lần. Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê , P=0,003 (χ2 test)
Các phương pháp phẫu thuật và giải áp
tá tràng
Để tiện việc phân tích đánh giá, chúng tôi chia
làm hai nhóm phẫu thuật: nhóm phẫu thuật đơn giản
gồm các phương pháp khâu lỗ vỡ tá tràng kèm theo
giải áp tá tràng bằng đặt ống thông mũi- dạ dày
xuống đến chổ khâu, kèm theo nối vị tràng, mở
thông dạ dày ra da hoặc mở thông hỗng tràng ra da
hoặc cả hai, v.v.. Nhóm phẫu thuật phức tạp gồm các
phương pháp nối quai hỗng tràng vào chổ vỡ của tá
tràng theo kiểu Roux-en Y, cắt đoạn tá tràng,nối tá-
hỗng tràng theo kiểu Roux-en Y, phương pháp túi
thừa hóa tá tràng và phương pháp triệt môn vị.
Bảng 3:- So sánh phương pháp phẫu thuật đơn giản
và phức tạp
Phương pháp PT p
Đơn giản Phức tạp
Biến chứng 46 (39%) 24 (47.1%) 0.32
Tử vong 20 (16.9%) 17 (33.3) 0.018
χ2 test
Không có sự khác biệt về tỉ lệ biến chứng giữa
hai nhóm phẫu thuật đơn giản và phức tạp (p=0,32;
χ2 test) . Tỉ lệ tử vong trong nhóm được PT với các
phương pháp đơn giản thấp hơn nhóm được PT bằng
các phương pháp phức tạp , sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p=0,018; χ2 test ).
Bảng 35: Các phương pháp phẫu thuật đơn giản :
liên quan giữa biến chứng và tử vong với mức độ tổn
thương tá tràng
Múc độ tổn thương tá tràng p N = 118
nhẹ nặng
Biến
chứng
24 (31.2%) 22 (53.7%) 0.017
Tử vong 9 (11.7%) 11 (26.8%) 0.037
χ2 test
Biến chứng và tử vong trong nhóm tổn thương tá
tràng nhẹ thấp hơn trong nhóm có tổn thương tá
tràng nặng và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Như
vậy các phương pháp phẫu thuật đơn giản chỉ thích
hợp cho tổn thương tá tràng nhẹ (độ I-II), nếu áp
dụng cho tổn thương tá tràng nặng (độ III-IV-V) thì
biến chứng và tử vong sẽ cao hơn hẳn.
Bảng 36: Liên quan giữa mức độ tổn thương tá tràng
với xử trí bằng các phương pháp phẫu thuật phúc tạp
MÚC ĐỘ TỔN THƯƠNG TÁ
TRÀNG
p N = 51
NHẸ NẶNG
Biến
chứng
7 (46.7%) 17 (47.2%) 0.97
Tử vong 4 (26.7%) 13 (36.1%) 0.53
χ2 test
Phẫu thuật triệt để phức tạp được tiến hành ở
những trường hợp tổn thương tá tràng nặng nề
không làm tăng thêm biến chứng và tử vong.
(p>0,05; χ2 test)
Bảng 37- Phẫu thuật khâu tá tràng đơn thuần : liên
quan giữa mức độ tổn thương tá tràng với biến chứng
và tử vong
Biến chứng Tử vong
Không Có Không Có
Tổn thương tá
tràng nhẹ
20
(66.7%)
10
(33.3%)
22 (73.3%) 8 (26.7%)
Tổn thương tá
tràng nặng
1 (20%) 4 (80%) 2 (40%) 3 (60%)
Tổng 21 14 24 11
Khâu tá tràng đơn giản chỉ có hiệu quả đối với
tổn thương tá tràng múc độ nhẹ, nếu áp dụng cho
các tổn thương mức độ nặng thì biến chứng sẽ cao
hơn hẳn có ý nghĩa thống kê ( p = 0.049; χ2 test) , tử
vong cũng cao hơn nếu áp dụng khâu đơn giản cho
tổn thương tá tràng nặng nhưng sự khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p = 0.137; χ2 test).
Bảng 38: So sánh phương pháp khâu lỗ vỡ + các
kiểu giải áp đường khâu
BIẾN CHỨNG TỔNG
KHÔNG CÓ
Nối vị tràng 5 (33.3%) 10 (66.7%) 15
Dẫn lưu bằng ống 44 (75.9%) 14 (24.1%) 58
Giải áp bằng ống T 2 (25%) 6 (75%) 8
Tổng 51 30 81
Tỉ lệ biến chứng trong nhóm được giải áp bằng
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 25
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
ống T là nhiều nhất, giải áp bằng nối vị tràng cũng có
biến chứng cao hơn dẫn lưu bằng 1 – 3 ống và sự
khác biệt là có ý nghĩa thống kê, với p = 0.001 (χ2 –
test).
Bảng 39- So sánh phương pháp cắt nối tá-hỗng tràng
kiểu roux-en y với phương pháp dẫn lưu bằng 1 – 3
ống trong tổn thương tá tràng nặng
N = 37
Cắt Nối Tá –
Hỗng Tràng Roux
– En – Y
Dẫn lưu bằng
ống p
Biến chứng 4 (26.7%) 6 (27.3%) 0.96
Tử vong
χ2 test
4 (26.7%) 3 (13.6%) 0.32
Như vậy trong tổn thương tá tràng nặng phương
pháp dẫn lưu tá tràng bằng 1 - 3 ống và phương pháp
cắt nối tá - hỗng tràng có tỉ lệ biến chứng và tử vong
tương đương nhau. Tuy nhiên, phương pháp nối tá -
hỗng tràng roux-en-Y thường áp dụng cho các tổn
thương phức tạp hơn và việc sử dụng hương pháp này
sẽ tránh được những khó chịu cho bệnh nhân do việc
dẫn lưu hỗng tràng hoặc dạ dày gây ra.
Bảng 40: So sánh phương pháp khâu triệt môn vị và
túi thừa hóa tá tràng
BIẾN CHỨNG TỬ VONG
KHÔNG CÓ KHÔNG CÓ
Túi thừa hóa tá tràng 11 (44%) 13(56%)
18
(75%)
6
(25%)
Khâu triệt môn vị 2 (40%) 3 (60%)
5
(100%)
0
Tổng 13 16 23 6
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
biến chứng (p = 0.9; Fisher test) và tử vong (p =
0.55; Fisher test) giữa hai nhóm khâu triệt môn vị và
túi thừa hoá tá tràng
Bảng 41: So sánh phương pháp khâu triệt môn vị và
dẫn lưu bằng ống trong trường hợp tổn thương tá
tràng nặng
PHƯƠNG PHÁP PT p
Khâu triệt môn vị Dẫn lưu bằng
ống
Biến
chứng
4 (100%) 6 (27.3%) 0.014
Tử vong 3 (75%) 3 (13.6%) 0.028
Fisher’s
test
Như vậy khâu triệt môn vị trong tổn thương tá
tràng nặng có tỉ lệ biến chứng và tử vong cao hơn so
với phương pháp dẫn lưu bằng ống và sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (p<0,05; Fisher’s test).
Bảng 42: So sánh phương pháp túi thừa hóa tá tràng
và dẫn lưu bằng ống trong trường hợp tổn thương tá
tràng nặng
PHƯƠNG PHÁP PT p
Túi thừa hóa tá
tràng
Dẫn lưu bằng
ống
Biến
chứng
10 (58.8%) 6 (27.3%) 0.047
Tử vong 9 (52.9%) 3 (13.6%) 0.008
χ2 test
Túi thừa hóa tá tràng trong tổn thương tá tràng
nặng có tỉ lệ biến chứng và tử vong cao hơn so với
phương pháp dẫn lưu bằng ống và sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê (p<0,05; χ2 test).
Bảng 43 - So sánh phương pháp túi thừa hóa tá tràng
hoặc khâu triệt môn vị và dẫn lưu bằng ống trong
trường hợp tổn thương tá tràng nặng
PHƯƠNG PHÁP PT p
Túi thừa hóa tá tràng
hoặc Khâu triệt môn vị
Dẫn lưu
bằng ống
Biến chứng 14 (66.7%) 6 (27.3%) 0.01
Tử vong 11 (52.4%) 3 (13.6%) 0.007
χ2 -
test
Túi thừa hóa tá tràng hoặc khâu triệt môn vị
trong tổn thương tá tràng nặng có tỉ lệ biến chứng và
tử vong cao hơn so với phương pháp dẫn lưu bằng
ống và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05;
χ2 test)
Như vậy các TH tổn thương độ I có thể khâu chỉ
cần khâu đơn giản và dẫn lưu giải áp tá tràng bằng
ống thông mũi-dạ dày là đủ. Các tổn thương từ độ II
trở lên thì phương pháp khâu đơn giản không an
toàn, tỉ lệ bục, rò là 36% (9/25); nếu áp dụng cho tổn
thương tá tràng độ III thì tỉ lệ bục, rò tăng lên 83,3%.
Phương pháp đặt ống T dẫn lưu trực tiếp vào chỗ
khâu tá tràng có biến chứng nhiều nhất (75%), cho
dù mức độ tổn thương tá tràng nhẹ hay nặng.
Phương pháp khâu + nối vị tràng có tỉ lệ bục rò khá
cao (66,7%%). Trong các phương pháp khâu và giải áp
thì mở thông dạ dày hay hỗng tràng ra da (1 đến 3
ống theo phương pháp của Stone và Fabian) cho kết
quả tốt nhất (tỉ lệ bục và rò thấp hơn cả). Khâu kèm
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 26
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
theo mở thông dạ dày hoặc mở thông hỗng tràng ra
da hoặc cả hai có tỉ lệ bục rò là 24,1%. So sánh tỉ lệ
biến chứng giữa 3 loại phẫu thuật này cho thấy sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0.001 (χ2 –
test).
Phương pháp giải áp bằng cách đặt sonde mũi dạ
dày có những nhược điểm như: khẩu kính ống sonde
nhỏ nên dễ bị bít nghẹt, đường đi từ tá tràng lên đến
mũi quá xa, nên khả năng thoát dịch kém. Sonde mũi
dạ dày được lưu lại ít nhất 5-7 ngày sau mổ cản trở
khí đạo và làm ứ đọng đàm dãi tạo cho BN cảm giác
khó chịu. Hơn nữa sonde này được cố định không
vững chắc, nên dễ tụt ra ngoài. Chỉ cần đầu dưới của
ống sonde tụt lên khỏi lỗ môn vị là không có tác dụng
giải áp cho tá tràng. Theo chúng tôi, ống sonde mũi
dạ dày chỉ nên xem như là một phương tiện hỗ trợ
cho các phương pháp giải áp khác, chứ không là
phương pháp chủ lực trong việc giải áp cho khung tá
tràng.
Dẫn lưu trực tiếp qua chổ khâu tá tràng gây bục
và rò tá tràng nhiều nhất : 8 lần xử trí thì 6 lần bị bục
(75%). Lý do là vì - sau chấn thương tá tràng bị liệt
kéo dài nên khung tá tràng lúc nào cũng ứ đọng dịch
tụy và dịch mật - các ống dẫn lưu đặt ở DII-DIII gần
như là dẫn lưu vùng thấp nhất tạo nên một lỗ rò
không bao giờ lành -bản thân ống dẫn lưu là một
ngoại vật, có thể gây phản ứng viêm chung quanh nó
khiến vết khâu không lành được. Theo chúng tôi, nên
loại bỏ hẳn cách dẩn lưu này vì biến chứng quá cao,
nhất là nếu tổn thương nằm ở đoạn thấp (tá tràng DII
dưới Oddi và tá tràng DIII)
Phẫu thuật nối vị tràng nhằm mục đích thoát lưu
dịch dạ dày, giảm áp cho tá tràng. Tuy nhiên trong
những ngày đầu sau mổ tá tràng liệt nhu động,
không đẩy nổi lượng dịch trong lòng tá tràng qua
miệng nối vị tràng. Vì vậy một lượng lớn dịch mật,
dịch tụy và một phần dịch vị đi qua môn vị còn đọng
lại ở tá tràng. Mặt khác khi nối vị tràng để quai tới quá
dài (như khi nối trước đại tràng ngang) làm cho tình
trạng ứ đọng ở tá tràng càng nhiều, áp lực càng cao.
Nghiên cứu của các tác giả trong nước cũng có tỉ lệ
bục rò tá tràng rất cao khi khâu lỗ vỡ tá tràng kèm
theo nối vị tràng, hầu hết các tác giả này khuyến cáo
không nên sử dụng phương pháp này.
Bảng 44
Tác giả Số lần
nối vị tràng
Số lần bục
rò tá tràng
Nguyễn Khánh Dư (29)
Vũ Mạnh (44)
Trần Văn Đức (40)
Chúng tôi
1
4
9
9
1
3
9
5
Phương pháp giải áp bằng mở thông dạ dày hoặc
hỗng tràng 1-3 ống được sử dụng nhiều nhất trong
các phương pháp giải áp trong nghiên cứu của chúng
tôi , 71,6% (58/81 lần), trong đó có 14 lần bục rò
chiếm tỉ lệ 24,1% (bảng 34.4), thấp hơn so với
phương pháp giảm áp bằng sonde mũi dạ dày hoặc
nối vị tràng (p = 0.001). Theo Carrillo( )7 trong 237
TH khâu lỗ vỡ tá tràng kèm theo phương pháp giảm
áp này chỉ có 1 TH bục đường khâu. Hasson và cộng
sự( )22 cho thấy tỉ lệ tử vong 19,4% và rò tá tràng 11,8%
trong nhóm không có dẫn lưu giải áp tá tràng, trong
khi đó tỉ lệ tử vong 9% và rò tá tràng 2,3% trong
nhóm có giải áp tá tràng theo phương pháp này.
Theo chúng tôi, phương pháp này có nhiều ưu
điểm so với đặt sonde mũi dạ dày hay nối vị tràng là:
Thứ nhất, ống dẫn lưu có đường kính lớn hơn
(thường dùng ống Pezzer hoặc ống Malecot), đường
đi từ tá tràng ra da ngắn hơn nên tháo lưu dịch dễ
hơn. Nếu chúng ta sử dụng 3 ống: 1 ống từ chổ mở
thông dạ dày đi xuống, 1 ống từ chổ mở thông hỗng
tràng đi lên và một ống mở thông hỗng tràng đi
xuống để nuôi ăn thì hiệu quả giảm áp rất tốt, BN
được nuôi dưỡng sớm bằng đường tiêu hóa qua ống
mở hỗng tràng nuôi ăn nên thuận lợi cho quá trình
lành vết thương. Thứ hai, các ống dẫn lưu được cố
định vững chắc vào thành bụng bằng chỉ khâu nên
không sợ bị tụt ra và có thể cho hút liên tục. Thứ ba,
các ống dẫn lưu này ít gây khó chịu cho BN, không
ảnh hưởng đến đường hô hấp và sự ăn uống nên BN
dễ chấp nhận hơn. Vì thế chúng ta có thể lưu ống dẫn
lưu lâu hơn trong giai đoạn hậu phẫu. Tuy nhiên theo
nhiều tác giả khác( , , )7 15 35 thì phương pháp này có
nhược điểm là tạo nhiều lỗ thủng mới trên đường tiêu
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 27
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
hóa (ở dạ dày và hỗng tràng) và có thể làm tăng tỉ lệ
biến chứng. Chúng tôi cũng đã gặp 1 TH rò hỗng
tràng sau khi rút ống dẫn lưu và ống nuôi ăn qua chổ
mở hỗng tràng ra da, BN sau đó phải mổ lại để khâu
lỗ rò.
Chúng tôi nhận thấy, đối với những vết thương tá
tràng rộng hoặc bị hoại tử ở mép vết thương nhiều,
nếu khâu lại vết thương sẽ làm hẹp khẩu kính tá
tràng, làm cho đường khâu căng nên nguy cơ bục, rò
rất cao. Trong tình huống này theo Perissat( )33 nên lấy
một quai hỗng tràng đem lên nối trực tiếp vào chổ vỡ
theo kiểu Roux-en Y nếu tổn thương ở đoạn DII, nếu
tổn thương nằm ở DIII-DIV thì nên cắt bỏ đoạn tổn
thương, nối tá hỗng tràng kiểu tân-tận. Nhiều tác giả
cũng tán đồng cách xử trí tương tự( , , )7 22 35 . Trong
nghiên cứu này chúng tôi có 21 lần xử trí theo
phương pháp này, trong đó 5 tổn thương tá tràng độ
II, có 2 bị bục, rò (40%), 1 tử vong (20%); 13 tổn
thương độ III (6 lần nối quai hỗng tràng trực tiếp vào
chổ vỡ theo kiểu Roux-en Y, 7 lần cắt đoạn tổn
thương nối tá hỗng tràng kiểu Roux-en Y), có 4 bị
bục, rò (30,8%) và 4 tử vong (30,8%); 3 lần tổn
thương độ IV có 1 bị bục, rò (33,3%) và 1 tử vong
(33,3%). Tuy nhiên so sánh cho thấy sự khác biệt này
không có ý nghĩa thống kê (p = 0,55).
Về phẫu thuật túi thừa hóa tá tràng và triệt môn
vị, chúng tôi có 24 lần (14,3%) thực hiện phẫu thuật
túi thừa hóa tá tràng (9 lần độ II, 15 lần độ IV), 5 lần
(5%) thực hiện phẫu thuật triệt môn vị (1 lần độ II, 3
lần độ III, 1 lần độ IV) (bảng 15). Kết quả ở bảng 31.6
cho thấy tỉ lệ bục rò ở nhóm phẫu thuật túi thừa hóa
tá tràng là 56% (13/24 lần), ở nhóm phẫu thuật triệt
môn vị là 60% (3/5). So sánh cho thấy sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (phép kiểm Fischer
với p = 0,55) . Phân tích các bệnh án chúng tôi nhận
thấy, nhóm phẫu thuật túi thừa hóa tá tràng và phẫu
thuật triệt môn vị thường được thực hiện ở những BN
có kèm theo chấn thương tụy hoặc ống mật chủ hay
tổn thương tá tràng nặng, (tổn thương tá tràng ở gần
bóng Vater). Chính vì vậy tỉ lệ bục rò nhiều ở nhóm
phẫu thuật túi thừa hóa tá tràng là điều hợp lý. Berne
năm 1968 báo cáo 16 TH thực hiện phẫu thuật túi
thừa hóa tá tràng, kết quả có 3 TH rò tá tràng
(18,7%), không có tử vong. Theo tác giả phương pháp
này có tỉ lệ tử vong và biến chứng thấp nhất so với
các báo cáo trước đó, được chỉ định cho những TH
tổn thương tá tràng ở mức độ nặng, hoặc có kết hợp
chấn thương tụy hay OMC. Theo Degiannis( )11 , phẫu
thuật triệt môn vị, về nguyên tắc tác dụng cũng
giống như túi thừa hóa tá tràng, nhưng kỹ thuật đơn
giản hơn, thời gian phẫu thuật nhanh hơn. Theo
Carrillo( )41 phương pháp này được chỉ định trong
những TH chấn thương nặng ở khối tá tụy (độ IV, V).
Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi, phương
pháp triệt môn vị áp dụng cho các trường hợp thương
tổn tá tràng nặng đưa lại kết quả không được khích lệ
lắm, tỉ lệ bục và rò lên đến 60% (3/5 TH), ngang bằng
với phương pháp túi thừa hoá tá tràng (56%) và kém
hơn phương pháp dẫn lưu bằng 1-3 ống của Stone và
Fabian (p<0,05; bảng 34.8)
Như vậy, các TH tổn thương độ II chỉ cần sử
dụng những phẫu thuật đơn giản cũng có kết quả tốt
như các phẫu thuật phức tạp. Các TH tổn thương độ
III thì giữa phẫu thuật đơn giản và phức tạp có kết
quả không khác nhau, nhưng các TH tổn thương độ
IV thì xử trí đơn giản có tỉ lệ biến chứng nhiều hơn xử
trí phức tạp. Chúng ta biết rằng khi tổn thương độ IV
là vỡ trên 75% khẩu kính tá tràng hoặc có tổn thương
đoạn cuối OMC, thì việc khâu lại đơn thuần sẽ làm
căng đường khâu và hẹp lòng tá tràng nên khả năng
bục rò rất dễ xảy ra. Một nghiên cứu của Velmahos( )43
cho thấy các TH tổn thương độ I, II 87% được xử trí
theo phương pháp phẫu thuật đơn giản, trong khi các
tổn thương độ III, IV có tới 69% phải cần các phẫu
thuật phức tạp. So sánh tỉ lệ biến chứng giữa hai
nhóm phẫu thuật tác giả cũng cho thấy các tổn
thương độ III, IV nếu chỉ sử dụng những phẫu thuật
đơn giản thì tỉ lệ bục rò cao hơn có ý nghĩa thống kê.
Trong nghiên cứu này có 47,8% (11/23 lần) tổn
thương độ IV, có 11 lần xử trí bằng phẫu thuật đơn
giản thì hết 10 lần bị bục rò. Kline( )23 trong 3 TH tổn
thương độ IV được xử trí đơn giản thì có 2 TH bục rò,
tác giả cũng khuyên nên làm phẫu thuật phức tạp
cho những tổn thương độ IV.
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 28
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
So sánh kết quả điều trị chấn thương và vết tá
tràng tại bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian 5 năm
gần đây (2000-2004) với kết quả điều trị 20 năm
trước đó (1980-1999), chúng tôi có bảng sau đây:
Bảng 45: Kết quả điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy qua
hai giai đoạn 1980-1999 và 2000-2004
KHOẢNG THỜI GIAN p
1980-1999 2000-2004
Biến
chứng
3/22 (13.6%) 6/31 (19.4%) 0.585
Tử vong 4/22 (18.2%) 1/31 (3.2%) 0.066
χ2 - test
Các trường hợp xử trí thì đầu tại bệnh viện Chợ
Rẫy trong 25 năm qua (53 bệnh nhân ) có tỉ lệ biến
chứng là 13,6% (3/22) trong giai đoạn 20 năm từ
1980-1999; trong khi giai đoạn 5 năm gần đây biến
chứng là 19,4%(6/31), cao hơn cả giai đoạn trước. Tuy
nhiên khi phân tích độ nặng giữa 2 thời kỳ thì thời kỳ
1980-1999 có 4/22 (18,2%) trường hợp rơi vào độ
nặng (từ độ III-V) trong khi giai đoạn 5 năm gần đây
thì có 17/31 (54,8%) trường hợp có độ nặng từ III-V.
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,007).
Trong khi đó, tỉ lệ tử vong ở giai đoạn 2000-2004
giảm hạ hẳn so với giai đoạn 1980-1999 (3,2% so với
18,2%, p=0,056; χ2 – test)
Bảng 46: Kết quả điều trị tại bệnh viện Chợ Rẫy so
với bệnh viện tuyến trước trong 5 năm 2000-2004
BỆNH VIỆN p
BV tuyến trước BV Chợ Rẫy
Biến
chứng
16 (57.1%) 6 (19.4%) 0.003
Tử vong 7 (25%) 1 (3.2%) 0.015
χ2 – test
So sánh cùng giai đoạn 5 năm gần đây 2000-
2004 thì số biến chứng và tử vong xử trí thì đầu tại
bệnh viện Chợ Rẫy và bệnh viện tuyến trước có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Như vậy đã có sự cải
thiện về chẩn đoán xử trí phẫu thuật và hồi sức nuôi
dưỡng bệnh nhân trong thời gian gần đây tại bệnh
viện Chợ Rẫy
KẾT LUẬN
Vỡ tá tràng sau chấn thương bụng đang có chiều
hướng tăng lên, nguyên nhân phần lớn là do tai nạn
giao thông. Đa số BN vỡ tá tràng ở độ tuổi trẻ, giới
nam. Kết quả điều trị còn hạn chế, tỉ lệ biến chứng và
tử vong cao do bục, rò đường khâu, miệng nối của tá
tràng. Qua phân tích chúng tôi ghi nhận một số yếu tố
có ảnh hưởng đến tỉ lệ biến chứng và tử vong như sau:
1)- Vết thương tá tràng do hoả khí có biến chứng
và tử vong cao hơn vết thương bạch khí và chấn
thương bụng kín. Khi vết thương thấu bụng thủng
mặt trước tá tràng , phải thám sát mặt sau để tránh
bỏ sót tổn thương. Thời gian từ lúc bị chấn thương
đến khi được can thiệp phẫu thuật trên 24 giờ và
những trường hợp bục tá tràng được mổ lại sau 24 giờ
sẽ làm tăng đáng kể tỉ lệ biến chứng và tử vong. Vị trí
tổn thương dưới Oddi làm tăng tỉ lệ bục rò đường
khâu tá tràng. Tổn thương mặt sau làm khó khăn cho
chẩn đoán trước mổ cũng như trong mổ, làm cho BN
được mổ muộn hơn, dễ làm cho phẫu thuật viên bỏ
sót tổn thương trong khi mổ, nên làm tăng đáng kể
biến chứng và tử vong. Vết thương tá tràng từ 50%
khẩu kính trở lên (độ III trở lên) cũng làm tăng tỉ lệ
biến chứng và tử vong. Tổn thương kết hợp trong ổ
bụng càng nhiều, tỉ lệ biến chứng càng cao, đặc biệt
là khi có kèm theo vỡ lách, vỡ dạ dày , tổn thương tụy
hoặc đoạn cuối ống mật chủ Bệnh nhân càng mổ lại
nhiều lần, biến chứng và tử vong càng cao.
2)- Các trường hợp tổn thương độ II chỉ cần khâu
lại vết thương tá tràng là đủ, các trường hợp tổn
thương độ III trở lên, nếu chỉ khâu lại vết thương mà
không kèm theo một trong các biện pháp giải áp sẽ
làm tăng tỉ lệ biến chứng và tử vong. Phương pháp
khâu lỗ vỡ kèm giải áp bằng cách đặt ống thông trực
tiếp vào chỗ khâu, hoặc nối vị tràng có kết quả xấu
nhất, giải áp bằng sonde mũi dạ dày không đáng tin
cậy. Phương pháp khâu lỗ vỡ tá tràng kèm theo giải
áp bằng cách mở dạ dày hoặc hỗng tràng ra da hoặc
kết hợp cả hai cho kết quả tốt hơn. Nối tá- hỗng
tràng, khâu triệt môn vị hoặc túi thừa hoá tá tràng là
những phẫu thuật phức tạp áp dụng cho tổn thương
tá tràng nặng, không làm tăng thêm biến chứng và
tử vong. Phẫu thuật Whipple cấp cứu là một phẫu
thuật dành riêng cho các thương tổn rất nặng, kết
quả sau mổ thường là tử vong.
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 29
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Allen.G.S, Moore.F.A, Cox.C.J et al (1998), “Hollow
visceral injuries and blunt trauma”, J Trauma: Injury,
Infection and Critical Care, Lippincott Williams &
Wilkins Inc, Vol 45(1), pp: 69-77
2. Asensio.J.A, Buckman.R.F (1996), “Duodenal injuries”,
Shackelford’s Surgery Of The Alimentary Tract, W.B.
Saunders Company, Philadelphia, 4th ed, Vol II, pp:
110-123
3. Ballard.R.B, Badellino.M.M, Eynon.C.A et al (1997),
“Blunt duodenal rupture: A 6-years statewide
experience”, J Trauma: Injury, Infection and Critical
Care, Lippincott Williams & Wilkins Inc, Vol 43(2)
August 1997, pp: 229-233
4. Behrman.S.W , Bertken.K.A, Stifanacci.H.A,
Parks.S.N (1998), “Breakdown of intestinal repair
after laparotomy for trauma: Incidence, risk factors,
and strategies for prevention”, J Trauma: Injury,
Infection and Critical Care, Lippincott Williams &
Wilkins Inc, Vol 45(2) August 1998, pp: 227-233
5. Buorez.J, Triboulet.J.P, Combemale.B. Lagach.G
(1983), “Les traumatismes duodénaux, a l’exclusion des
tramatismes chirugicaux, etude de 23 observations”,
Lyon Chirugical, tome 79 N02 Mars-Avril 1983, pp:
81-85
6. Cameron M., Harrison and Haile T. Debas. Surg. Clin.
Nor. Amer., Vol.52, No.3, June 1972
7. Carrillo.E.H, Richardson.J.D, Miller.F.B (1996),
“Evolution in management of duodenal injuries”, J
Trauma: Injury, Infection and Critical Care,
Lippincott Williams & Wilkins Inc,Vol 40(1) June
1996, pp: 1037-1046
8. Carrio.C.J, Jurkovich.G.J (1992), “Pancreatic and
duodenal injuries”, Current Surgical Therapy, Mosby-
YearBook, St Louis-MO, 4th ed, pp: 851-853
9. Cattel, W.B, and Braasch, J.W: A techniqua for the
exposure of the third and fourth portions of the
duodenum. Surg. Gynec. Obstet 111: 378-9, 1960
10. Cone.J.B, Eidt.J.F, Little.R.A (1994), “Delayed
diagnosis of duodenal rupture”, Am J Surg, Excerpta
Medica Inc, Vol 168(6), December 1994, pp: 676-679
11. Degiannis.E, Bofford.K (2000), “Duodenal injuries”, Br
J Surg, Blackwell Science Ltd, Vol 87(11) , November
2000, pp: 1437-1479
12. Dempsey.D.T, Ritchi.W.P (1996), “Anatomy and
physiology of the duodenum”, Shackelford’s Surgery Of
The Alimentary Tract, W.B. Saunders Company,
Philadelphia, 4th ed, Vol II, pp: 15-31
13. Đào Quang Minh, Lê Văn Điềm, Hoàng Công Đắc
(2003), “Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật thương
tổn tá tràng trong chấn thương tại khoa ngoại Bệnh
viện Saint Paul từ 1993-1997: Nhân 12 trường hợp đã
phẫu thuật”, Tạp Chí Thông Tin Y Dược, Bộ Y Tế -
Viện thông tin thư viện y học trung ương, Số 8, tr: 27-
29
14. Errougini.A, Ameur.A, Chkoff.R et al (1997), “Les
traumatisme duodéno-pancréatiques – A propos de 30
obserations”, J Chir (Paris), Masson Paris,Vol 134(1),
pp: 9-13
15. Feliciano.D.V (1990), “Abdominal trauma”, Maingot’s
Abdominal Operations, Appleton & Lange, London,
9th ed, Vol I, pp:486-493
16. Feliciano.D.V, Martin.T.D, Cruse.P.A and al (1987),
“Management of combined pancreatoduodenal
injuries”, Ann Surg, J.B. Lippincott Company,Vol
205(6) June 1987, pp: 673-680
17. Flint.L.M, Mccoy.M, Richardson.D et al (1980),
“Duodenal injuries – Analysis of common
misconceptions in diagnosis and treatment”, Ann
Surg, J.B. Lippincott Company,Vol 191(6) June 1980,
pp: 697-702
18. Guyton.A.C (1991), “Secretory functions of the
alimentary tract”, Textbook Of Medical Physiolosy,
W.B. Saunders Company, Philadelphia, 8th ed, pp:
709-725
19. Hoyt.D.B, Coimbra.D, Winchell.R.J (2001),
“Management of acute trauma”, Sabiston’s Textbook of
Surgery, W.B. Saunders Company, Philadelphia, 16th
ed, Vol I, pp: 333-335
20. Ivatury.R.R, Nallathambi.M, Gaudino.J et al (1985),
“Penetrating duodenal injuries - Analysis of 100
consecutive cases”, Ann Surg, J.B.Lippincott
Company, Vol 202(2) August 1985, pp: 153-158
21. Jordan.J.L (1991), “Injury to the pancreas and
duodenum”, Trauma, Appleto & Lange, London, 2th
ed, pp: 499-518
22. Jurkovich.G.J (1996), “Injury to the duodenum and
pancreas”, Trauma, Appleton & Lange, London, 3th
ed, pp: 573-592
23. Kline.G, Lucas.C.E, Legerwood.A.M, Saxe.J.M (1994),
“Duodenal organ injury severity and outcome”, Am J
Surg, Excerpta Medica Inc, Vol 60, pp: 500-504
24. Mansour.M.A, Moore.J.B, Moore.F.A (1989),
“Conservative management of combined
pancreatoduodenal injuries”, Am J Surg, Excerpta
Medica Inc,Vol 158 December 1989, pp: 531-535
25. Moore.EE, Cogbill.T.H, Malangoni.M.A et al (1990),
“Duodenal Organ Injury Scal”, J Trauma, Vol 30, pp:
1427-1429
26. Ngô Minh Nhựt (2001), “Nhận xét về chẩn đoán và
điều trị vỡ tá tràng”, Luận văn Thạc sĩ y học, Trường
Đại Học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh, tr: 40-84
27. Nguyễn Bá Sơn và cộng sự (2000), “Một số nhận xét
về chẩn đoán, tổn thương và xử trí chấn thương bụng
kín thời bình”, Tạp chí y học quân sự, Cục Quân Y, Số
chuyên đề kỷ niệm 25 năm ngày truyền thống Bệnh
viện 175 (26/05/200), tr: 75-79
28. Nguyễn Khánh Dư và cộng sự (1983), “Nhân 11 trường
hợp vỡ tá tràng”, Tạp Chí Ngoại Khoa, Hội Ngoại
Khoa Việt Nam, Số tháng 05/1983, Tập X, tr: 148-154
29. Nguyễn Khánh Dư và cộng sự (1992), “Nhân 17 trường
hợp vỡ tá tràng”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa
học 17 năm Bệnh viện Chợ Rẫy (1975-1992), tr: 256-
258
30. Nguyễn Tấn Cường (1997), “Chấn thương và vết
thương tá tràng, qua 32 trường hợp trong 13 năm tại
Bệnh viện Chợ Rẫy”, Hội nghị ngoại khoa Trường Đại
Học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh, năm 1997
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 30
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 8 * Phụ bản của Số 3 * 2004 Nghiên cứu Y học
31. Đoàn Thành Công, Đỗ Văn Sơn, Trần Hồng Vu (2002),
“Nhân 126trường hợp tổn thương tạng rỗng do chấn
thương và vết thương thấu bụng”, Kỷ yếu toàn văn các
đề tài khoa học- Hội nghị ngoại khoa quốc gia Việt
Nam lần thứ XII, Tạp Chí Ngoại Khoa, Hội Ngoại
Khoa Việt Nam, Số tháng 05/2002, tr: 94-99
38. Timaran.C.H, Martinez.O, Ostima.J.A (1999),
“Prognostic factors and management of civilian
penetrating duodenal trauma”, J Trauma: Injury,
Infection and Critical Care, Lippincott Williams &
Wilkins Inc, Vol 47(2), August 1999, pp: 330-335
39. Trần Chánh Tín, Nguyễn Tấn Cường, Đỗ Quang Huy
(2000), “Chấn thương và vết thương tá tràng: phân
tích các yếu tố ảnh hưởng đến thành công và thất bại
của phẫu thuật”, Hội nghị khoa học chào mừng thiên
niên kỷ thứ III, Hội Ngoại Khoa Việt Nam, Số tháng
12/2000, tr: 72
32. Obeid.F.N, Kralovich.K.A, Grasparri.M et al (1999),
“Sphincteroplasty as an adjunct in penetrating
duodenal trauma”, J Trauma: Injury, Infection and
Critical Care, Lippincott Williams & Wilkins Inc, Vol
47(1) July 1999, pp: 22-24
33. Perissat.J, Collet.D, Arnoux.R et al (1991),
“Traumatiques du duodéno-pancréas – Principles de
technique et de tactique chirugicales”, Techniques
Chirugicales, Appareil Digestif, Techniques -
Encycl.Médi.Chir (Paris, France), 40898, pp: 1-15
40. Trần Văn Đức (1997), “Chấn thương tá tràng - Góp
phần bàn luận về chẩn đoán và xử trí”, Luận văn thạc
sĩ khoa học y dược, Trường Đại Học Y Dược Tp.Hồ Chí
Minh.
41. Trịnh Văn Tuấn, Hà Văn Quyết, Tôn Thất Bách
(2000), “Nhận xét chấn thương tá tụy tại bệnh viện
Việt Đức trong 5 năm (1995-1999)”, Hội nghị chào
mừng thiên niên kỷ thứ 3, Hội Ngoại Khoa Việt Nam,
Số tháng 12/2000, tr: 71-72
34. Phạm Đức Huấn, Nguyễn Anh Tuấn, Trịnh Văn Tấn,
Đỗ Đức Vân (1995), “Một số nhận xét về lâm sàng và
điều trị vỡ tá tràng”, Tạp Chí Ngoại Khoa, Số chuyên
đề hội nghị ngoại khoa về cấp cứu bụng và cơ quan
vận động, Hội Ngoại Khoa Việt Nam, Số tháng
09/1995, tr: 157-163
42. Văn Ngọc Y, Trương Công Tín (2002), “Tổn thương tá
tràng 14 trường hợp trong 12 năm qua tại Bệnh viện
đa khoa tỉnh Bình Định”, Kỷ yếu toàn văn các đề tài
khoa học- Hội nghị ngoại khoa quốc gia Việt Nam lần
thứ XII, Tạp Chí Ngoại Khoa, Hội Ngoại Khoa Việt
Nam, Số tháng 05/2002, tr: 89-93
35. Snyder.W.H, Weigelt.J.A, Watkins.W.L et al (1980),
“The surgical management of duodenal trauma-
Precepts based on a review of 247 cases”, Arch Surg,
Vol 115, April 1980, pp: 422-429
36. Sung.C.K, Kim.K.H (1996), “Missed injuries in
abdominal trauma”, J Trauma: Injury, Infection and
Critical Care, Lippincott Williams & Wilkins Inc, Vol
41(2) August 1996, pp: 276-278
43. Velmahos.G.C, Kamel.E, Chan.L.S et al (1999),
“Complex repair for management of duodenal
injuries”, Am J Surg, , Excerpta Medica Inc, Vol
65(10) Oct 1999pp: 972-975
37. Tạ Kim Sơn, Phùng Ngọc Tuấn, Đỗ Huy Hùng (2002),
“Nhận xét chấn thương tá tụy trong 4 năm (1996-200)
tại Bệnh viện tỉnh Phú Thọ”, Kỷ yếu toàn văn các đề
tài khoa học- Hội nghị ngoại khoa quốc gia Việt Nam
lần thứ XII, Tạp Chí Ngoại Khoa, Hội Ngoại Khoa
Việt Nam, Số tháng 05/2002, tr: 48-50
44. Vũ Mạnh, Nguyễn Thành Long, Lương Từ Hải Thanh
(1991), “Nhận xét về điều trị vỡ tá tràng tại Bệnh
viện Việt Đức từ 1981-1990”, Tạp Chí Ngoại Khoa, Hội
Ngoại Khoa Việt Nam, Số tháng 04/1991, Tập XXI, tr:
33-40.
Chuyên đề Bệnh lý & Chấn thương Tá - Tụy 31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tong_ket_kinh_nghiem_xu_tri_169_chan_thuong_vet_thuong_ta_tr.pdf