Tài liệu Tổng hoạt độ phóng xạ alpha và beta trong một số mẫu nước giếng ở miền Nam Việt Nam - Phan Long Hồ: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 420
TỔNG HOẠT ĐỘ PHÓNG XẠ ALPHA VÀ BETA
TRONG MỘT SỐ MẪU NƯỚC GIẾNG Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
Phan Long Hồ*,**, Lê Đình Hùng*, Vũ Tuấn Minh*,Đặng Văn Chính*, Trần Thiện Thanh**,
Châu Văn Tạo**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Khảo sát mức độ nhiễm bẩn phóng xạ thông qua hoạt độ alpha/beta và suất liều hiệu dụng hằng
năm trong các mẫu nước là một trong những tiêu chí quan trọng nhằm cảnh báo nguy cơđể bảo vệ sức khỏe cho
cộng đồng.
Mục tiêu: Xác định giá trị tổng hoạt độ phóng xạ alpha/beta trong một số mẫunước giếng ở khu vực Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ tạimiền nam Việt Nam. Ước lượng suất liều hiệu dụng hằng năm mà người dân nhận
được khi sử dụng nguồn nước giếng cho mục đích ăn uống.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả. Thu thập mẫu ngẫu nhiên 226 mẫu,
trong đó 160 mẫu được lấy từ khu vực Đông Nam Bộ và 66 mẫu được lấy từ khu vực Tây Nam Bộ. Phân tích
tổng ...
9 trang |
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 960 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng hoạt độ phóng xạ alpha và beta trong một số mẫu nước giếng ở miền Nam Việt Nam - Phan Long Hồ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 420
TỔNG HOẠT ĐỘ PHÓNG XẠ ALPHA VÀ BETA
TRONG MỘT SỐ MẪU NƯỚC GIẾNG Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
Phan Long Hồ*,**, Lê Đình Hùng*, Vũ Tuấn Minh*,Đặng Văn Chính*, Trần Thiện Thanh**,
Châu Văn Tạo**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Khảo sát mức độ nhiễm bẩn phóng xạ thông qua hoạt độ alpha/beta và suất liều hiệu dụng hằng
năm trong các mẫu nước là một trong những tiêu chí quan trọng nhằm cảnh báo nguy cơđể bảo vệ sức khỏe cho
cộng đồng.
Mục tiêu: Xác định giá trị tổng hoạt độ phóng xạ alpha/beta trong một số mẫunước giếng ở khu vực Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ tạimiền nam Việt Nam. Ước lượng suất liều hiệu dụng hằng năm mà người dân nhận
được khi sử dụng nguồn nước giếng cho mục đích ăn uống.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả. Thu thập mẫu ngẫu nhiên 226 mẫu,
trong đó 160 mẫu được lấy từ khu vực Đông Nam Bộ và 66 mẫu được lấy từ khu vực Tây Nam Bộ. Phân tích
tổng hoạt độ phóng xạ alpha, tổng hoạt độ phóng xạ beta và suất liều hiệu dụng hằng nămtrong mẫu nước giếng.
Phương pháp xử lý mẫu được thực hiện theo kỹ thuật bay hơi theo tiêu chuẩn ISO 10704:2009 và đo trên hệ đo
WPC-1050 (Protean Instrument/Mỹ) đặt tại Viện Y tế Công cộng Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu: Mẫu nước giếng thu thập tại Đông Nam Bộ, hoạt độ alphacó giá trị trong khoảng từ
0,024 đến 0,593 Bq L-1 với mức trung bình là 0,149 BqL-1, trong đó có 19 mẫu vượt giới hạn cho phép (11,9%)
vàhoạt độ beta có giá trị trong khoảng từ 0,027 đến 0,632 BqL-1 với mứctrung bình là 0,152 BqL-1, tất cả đều đạt
giới hạn cho phép theo QCVN 09:2008/BTNMT. Đối vớimẫu nước giếng thu thập tại khu vực Tây Nam Bộ,hoạt
độ alpha có giá trị trong khoảng từ 0,026 đến 0,748 BqL-1 với mức trung bình là 0,311 BqL-1, trong đó có 10 mẫu
vượt giới hạn cho phép (15,2%) vàhoạt độ beta có giá trị trong khoảng từ 0,036 đến 0,519 BqL-1 với mức trung
bình là 0,153 BqL-1, không có mẫu nào vượt mức giới hạn cho phép.Ngoài ra, kết quả phân tích thống kê cho thấy
có sự khác biệt đáng kể giữa giá trị tổng hoạt độ alpha trong các mẫu nước giếng ở hai khu vực (p-value < 0,05),
trong khi đó khôngcó sự khác biệt đáng kể giá trị tổng hoạt độ beta trong các mẫu nước giếng giữa hai khu vực
Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ (p-value > 0,05).Kết quả tính toán suất liều hiệu dụngtrong mẫu nước giếng ở hai
khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ cho thấy có41/226 mẫu nước giếng có suất liều vượt ngưỡng theo
khuyến cáo của tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (0.1 mSv y-1).
Kết luận: Kết quả của nghiên cứu cho thấy có 29/226 mẫu nước giếngở cả haikhu vực Đông Nam Bộ và
Tây Nam Bộ có giá trị tổng hoạt độ alpha vượt quy chuẩn theo QCVN 09:2008/BTNMT vàsuất liều hiệu
dụngcủa 41 /226 mẫu nước giếngvượt ngưỡng theo khuyến cáo của tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (0.1 mSv y-1).
Từ khóa: alpha, beta, nước giếng, suất liều
ABSTRACT
GROSS ALPHA AND GROSS BETA RADIOACTIVITY IN SOME OF GROUNDWATER SAMPLES
IN SOUTHERN VIET NAM
Phan Long Ho, Le Dinh Hung, Vu Tuan Minh, Dang Van Chinh, Tran Thien Thanh, Chau Van Tao
*Viện Y tế Công cộng Thành phố Hồ Chí Minh
**Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – VNU-HCM
Tác giả liên lạc: ThS. Phan Long Hồ ĐT: 0918 563 609 Email: phanlongho@iph.org.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 421
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 5 - 2019: 420 – 428
Background: Study of gross alpha, gross beta and annual effective dose in groundwater samples have an
important role toprotect public health.
Objectives: To determine of gross alpha and gross beta radioactive contamination in some of groundwater
samples in Southeast and Southwest region in Viet Nam; To estimate the annual effective dose from
drinkinggroundwater samplesused by the inhabitants of the surveyed areas.
Methods: A cross-sectional study was conducted. A total of 226 random groundwater samples were
collected, including 160 samplestaken from the Southeast and 66 samplestaken from the Southwest, to
determinate gross alpha/beta radioactive contamination and annual effective dose. The evaporation technique
according to ISO 10704: 2009 was selected to measure gross alpha/beta activities on Gas Flow Proportional
Counters(WPC-1050, Protean Instrument, USA) at Institute of Public Health, Ho Chi Minh City.
Result: In the Southeast, gross alpha activity concentrations in groundwater samples ranged from 0.024 to
0.593 Bq L-1with a mean of 0.149 Bq L-1, There were 19 ground water samples that had gross alpha activity
concentrations greater than recommended reference level of QCVN 09:2008/BTNMT (11.9%) and gross beta
activity concentrations ranged from 0.027 to 0.632 Bq L-1 with a mean of 0.152 Bq L-1, all of the groundwater
samples had gross betavalues lower than the recommended reference level.In theSouthwest, gross alpha activity
concentrations ranged from 0.026 to 0.748 Bq L-1 with a mean of 0.311 Bq L-1. There were 10 groundwatersamples
thathad gross alpha activity concentrations greater than the recommended reference level (15.2%) and gross beta
activity concentrations ranged from0.036 to 0.519 Bq L-1 with a mean of 0.153 Bq L-1, all of the groundwater
samples had gross beta concentrations lower than the recommended reference level. Beside that, the results of
statistical analysis showed that there wasa statistically significant difference in gross alpha activity
concentrationsbetween groundwater samplesfrom theSoutheast and fromthe Southwest (p-value < 0.05) but there
was no statistically significant difference in gross beta activitiesbetween the two regions’ samples (p-value >0.05).
In addition, of 226 groundwatersamples in the Southeast and Southwest, 41 had annual effective dose greater
than recommended reference level by WHO (0.1 mSvy-1).
Conclusions: The ressults of this study showed that there were 29/226 groundwater samples in Southeast
and Southwest Viet Nam had gross alpha activity concentrations greater than recommended reference level of
QCVN 09:2008/BTNMT and 41/226 groundwater samples in the Southeast and Southwest Viet Nam had
annual effective dose greater than recommended reference level by WHO (0.1 mSvy-1).
Keywords: alpha, beta, groundwater, dose
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước là thành phần quan trọng cho sự tồn
tại và phát triển của con người và các loài sinh
vật sống trên trái đất. Chất lượng nguồn nước
mà người dân sử dụng cho ăn uống được đánh
giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, một trong
những tiêu chí quan trọng là đánh giá hoạt độ
của các đồng vị phóng xạ có trong mẫu nước.
Các đồng vị phóng xạ có trong nước uống có thể
phát sinh từ nguồn gốc tự nhiên hoặc do con
người tạo ra, trong đó các đồng vị phóng xạ tự
nhiên chủ yếu tồn tại trong lớp đất đá và phát
tán vào môi trường nước thông qua quá trình
khuếch tán tự nhiên hoặc do các hoạt động khai
thác khoáng sản, xây dựng và sản xuất phân bón
của con người. Các đồng vị phóng xạ tự nhiên
phổ biến như U-238, Th-232, Ra-226, Po-210. Bên
cạnh đó, các đồng vị phóng xạ nhân tạo có mặt
trong nguồn nước ăn uống chủ yếu do sự rò rỉ từ
các nhà máy điện hạt nhân (Chernobyl,
Fukushima...) các vụ thử bom nguyên tử hoặc xả
thải công nghiệp và y tế, các đồng vị nhân tạo có
mặt trong nước ăn uống với hàm lượng không
đáng kể(4). Một số đồng vị phóng xạ nhân tạo
điển hình như Cs-137, I-131, Sr-90. Theo Ủy ban
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 422
khoa học Liên hiệp quốc về ảnh hưởng của bức
xạ nguyên tử (UNSCEAR) trong tổng số 2,4
mSvy-1 liều chiếu xạ mà dân chúng nhận được
thông qua chiếu xạ tự nhiên thì có khoảng 0,29
mSv y-1 liều nhận được thông qua ăn uống(6). Đối
với những người bịnhiễm một lượng nhỏ phóng
xạ vào trong cơ thể và bị chiếu xạ liên tục trong
khoảng thời gian dài nếu không phát hiện và
chữa trị kịp thời thì về lâu dài cơ thể sẽ mắc các
bệnh phóng xạ mãn tính như ung thư hoặc biến
đổi cấu trúc di truyền. Theo nghiên cứu của tổ
chức ICRP, với suất liều hàng năm khoảng 2
mSv sẽ gây ra khoảng hơn 80 trường hợp trong
số 1 triệu trường hợp tử vong do mắc bệnh ung
thư(1). Trên cơ sở đó, việc đánh giá mức độ
nhiễm bẩn phóng xạ trong nước uống, đặc biệt
là nguồn nước giếng, nước ngầm ở những khu
vực mà người dân chưa được tiếp cận được với
nguồn nước sạch đã qua xử lý là hết sức cần
thiết để đảm bảo an toàn về chất lượng nguồn
nước về phóng xạ cũng như nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân.
Mục tiêu
Khảo sát tổng hoạt độ phóng xạ alpha và
beta trong một số mẫu nước giếng ở khu vực
Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ của Việt Nam.
Ước lượng liều hiệu dụng trung bình hàng
năm và đánh giá ảnh hưởng của phóng xạ trong
các mẫu nước giếng tới sức khỏe người dân.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu gồm 226 mẫu nước giếng được lấy
ngẫu nhiên, trong đó có 160 mẫu nước giếng
được lấy từ khu vực Đông Nam Bộ được mã hóa
mẫu từ S1 đến S160 và 66 mẫu nước giếng được
lấy từ khu vực Tây Nam Bộ được mã hóa mẫu
từ S161 đến S226.
Phương pháp xử lý mẫu
Mẫu nước giếng sau khi lấy được đựng
trong các can nhựa và axit hóa bằng axit
HNO3(pH 2) để đảm bảo các đồng vị phóng xạ
không bị mất mát do lắng đọng vào thành bình
và đồng thời ngăn ngừa vi sinh vật phát triển.
Mẫu được bảo quản trong phòng lưu mẫu ở
nhiệt độ từ 25 đến 300C.
Phương pháp xử lý mẫu được thực hiện theo
kỹ thuật bay hơi theo tiêu chuẩn ISO 10704:2009,
thể tích mẫu xử lý để đo tổng hoạt độ alpha/beta
là 250ml. Mẫu nước được đựng trong các becher
và làm bay hơi trên bếp hồng ngoại tới thể tích
khoảng từ 2 - 3 ml, sau đó phần mẫu sau cô cạn
được chuyển sang khay đếm sạch đã xác định
khối lượng. Khay đếm chứa mẫu phân tích được
sấy khô tới khối lượng không đổi dưới đèn hồng
ngoại ở nhiệt độ 850C và được lưu trữ trong
bình hút ẩm tới nhiệt độ phòng(2). Tổng hoạt độ
phóng xạ alpha và beta của lớp cặn lắng trên
khay đếm được xác định bằng cách đo trên hệ
đo tổng alpha/beta WPC – 1050 của hãng
Protean Instrument. Thời gian đo mỗi mẫu là
120 phút.
Các thông số đặc trưng của hệ đo tổng
alpha/beta WPC-1050
Phông tổng alpha và phông tổng beta được
xác định bằng cách đo khay đếm sạch trên hệ
đo trong khoảng thời gian 3600 phút. Kết quả
đo cho thấy tốc độ đếm phông alpha là
0,030,01 cpm và tốc độ đếm phông beta là
0,910,02 cpm.
Hiệu suất đếm alpha và hệ số xuyên âm
alpha-beta được xác định bằng cách đo ba nguồn
chuẩn alpha (241Am) hoạt độ 10,0 0,1Bq trong
khoảng thời gian 120phút. Kết quả cho thấy hiệu
suất đếm alpha là 19,2 0,2% và hệ số xuyên âm
alpha-beta là 31,6 1,2%. Trong khi đó, hiệu suất
đếm beta được xác định bằng cách đo các nguồn
hiệu chuẩn beta sử dụng đồng vị Sr-90/Y-90 hoạt
độ 10,3 0,2 Bq trong khoảng thời gian 120 phút.
Kết quả đo và tính toán cho thấy hiệu suất đếm
beta 70,9 0,8%.
Hệ số tự hấp thụ alpha (fa) được xác định
thông qua việc đo dãy 7 nguồn chuẩn alphasử
dụng dung dịch chuẩn của đồng vị 241Am với
cùng hoạt độ 3,5 Bq và khối lượng mẫu tăng dần
từ 0 đến 100mg (đảm bảo mật độ cặn trên khay
đếm dưới 5mg cm-2) để xây dựng mối liên hệ
giữa khối lượng mẫu và hiệu suất đo tổng hoạt
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 423
độ alpha. Hệ số hấp thụ alpha theo khối lượng
từ thực nghiệm được làm khớp dưới dạng
fa=0,991Exp(-0,0141m), với m (mg) là khối
lượng cặn của mẫu phân tích.
Tính toán kết quả và giới hạn phát hiện
Tổng hoạt độ alpha và tổng hoạt độ beta
trong các mẫu được tính toán dựa theo tiêu
chuẩn ISO 10704:2009 và được xác định theo
công thức như sau:
gα1
α
α aα
0αr r
,
V×ε × f
Bq A L
gβ 01
β
β β
β gα 0αr r r r
A ,
V×ε ×
χ
Bq L
f
Với: V là thể tích mẫu phân tích tổng hoạt độ
alpha/beta (Lít); , là hiệu suất đếm alpha,
beta; falà hệ số tự hấp thụ alpha trong mẫu đo;
Đôi với nguồn mỏng (< 5mg cm-1) sự tự hấp thụ
là không đáng kể, β 1f ; rg, rg là tốc độ đếm
alpha, beta (cps); r0, r0 là tốc độ đếm phông
alpha, beta (cps); là hệ số xuyên âm alpha-beta;
Giới hạn phát hiện trong các mẫu đo được
tính theo công thức như sau:
* 2
g
2
rel
1
2
2A k w / t
LOD,
1 k u
Bq
w
i
i
L
Với: c* là ngưỡng quyết định trong phép đo
tổng hoạt độ alpha/beta; k = 1,65; tg là thời gian
đo mẫu;
α aαV×ε × f
1
w và β
αV×ε
1
w .
Tiêu chí đánh giá
Theo tiêu chuẩn QCVN 09:2008/BTNMT,
giới hạn tổng hoạt độ alpha trong các mẫu nước
ngầm là 0,1 Bq L-1 và giới hạn tổng hoạt độ beta
là 1 BqL-1(5).
Suất liều hiệu dụng trung bình hằng năm đối
với các đồng vị phóng xạ có trong mẫu nước
theo khuyến cáo của tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) là 0,1 mSv y-1(7).
KẾT QUẢ
Kết quả thẩm định phương pháp
Tổng số 20 mẫu nước giếng thêm chuẩn
alpha (Am-241) với dãy nồng độ từ 0,05 – 1 Bq.
L-1và 20 mẫu thêm chuẩn beta (Sr-90/Y-90) với
dãy nồng độ từ 0,5 – 8 Bq. L-1 để xác định độ lặp
lại, độ tái lặp, hiệu suất thu hồi và khoảng tuyến
tính của phương pháp. Trong đó, các thông số
liên quan được tính như sau:
Độ lặp lại được xác định thông qua giá trị độ
lệch chuẩn tương đối RSD(%)
n 2
i
i-1
A A
RS nD, % = 1 100
A
×
Với iA , Bq L-1 là hoạt độ của mẫu thêm
chuẩn, n là số mẫu thêm chuẩn; A , Bq L-1 là hoạt
độ trung bình của các mẫu thêm chuẩn.
Trong khi đó, hiệu suất thu hồi được tính
toán tại 3 khoảng nồng độ khác nhau và được
xác địnhtheo công thức sau:
spike
A
R, % = ×100
A
Với A , Bq L-1 là hoạt độ trung bình; spikeA ,
Bq L-1 là hoạt độ thêm vào.
Từ thực nghiệm xác định được giá trị hiệu
suất thu hồi trong phân tích tổng hoạt độ alpha
trong khoảng từ 94,86% đến 98,40% với độ lệch
chuẩn tương đối 7,45%. Bên cạnh đó, hiệu suất
thu hồi tổng hoạt độ beta trong khoảng từ
86,09% đến 94,45% với độ lệch chuẩn tương đối
là 3,20%.
Kết quả phân tích tổng hoạt độ alpha và tổng
hoạt độ beta trong các mẫu nước giếng
Tổng hợp kết quả phân tính tổng hoạt độ
alpha và tổng hoạt độ beta của 226 mẫu nước
giếng lấy từ hai khu vực Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ được cho trong Bảng 1.
Dựa vào bảng số liệu tổng hợp kết quả phân
tích tổng hoạt độ alpha và tổng hoạt độ beta ở
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 424
hai khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ cho
thấy: Ở khu vực Đông Nam Bộ, trong tổng số
160 mẫu nước giếng phân tích có 56 mẫu có phát
hiện hoạt độ alpha chiếm tỉ lệ 35,0% và 81 mẫu
có phát hiện hoạt độ beta chiếm tỉ lệ 50,6%, trong
đó có 19 mẫu có hoạt độ alpha vượt giới hạn cho
phép theo QCVN 09:2008/BTNMT chiếm tỉ lệ
11,9%. Đối với các mẫu có phát hiện hoạt độ
alpha/beta, giá trị tổng hoạt độ alpha nằm trong
khoảng từ 0,024 ± 0,009 Bq L-1đến 0,593±0,078 Bq
L-1với mức hoạt độ alpha trung bình là
0,149±0,028 Bq L-1,giá trị tổng hoạt độ beta nằm
trong khoảng từ 0,027±0,009 Bq L-1 đến
0,632±0,029Bq L-1với mức hoạt độ beta trung
bình là 0,152±0,014 Bq L-1. Giới hạn phát hiện
trung bình trong phân tích tổnghoạt độ alpha là
0,043 Bq L-1và beta là 0,033 Bq L-1. Trong khi đó,
ở khu vực Tây Nam Bộ, trong tổng số 66 mẫu
nước giếng phân tích có 15 mẫu có phát hiện
hoạt độ alpha chiếm tỉ lệ 22,7% và 40 mẫu có
phát hiện hoạt độ beta chiếm tỉ lệ 60,6%, trong
đó có 10 mẫu có hoạt độ alpha vượt giới hạn cho
phép (0,1 Bq L-1) theo quy chuẩn QCVN
09:2008/BTNMT chiếm tỉ lệ 15,2%. Đối với các
mẫu có phát hiện, giá trị tổng hoạt độ alpha nằm
trong khoảng từ 0,026±0,010 Bq L-1đến
0,748±0,097 Bq L-1với mức hoạt độ alpha trung
bình là 0,311±0,054 Bq L-1, giá trị hoạt độ beta
nằm trong khoảng từ 0,036±0,010 Bq L-1đến
0,519±0,025 Bq L-1với mức hoạt độ beta trung
bình là 0,153±0,016 Bq L-1. Giới hạn phát hiện
trung bình hoạt độ alpha là 0,068 Bq L-1 và hoạt
độ beta là 0,036 Bq L-1.
Ngoài ra, khi sử dụng phương pháp phân
tích thống kê F-test và t-testcho thấycó sự khác
biệt đáng kể giữa giá trịtổng hoạt độ alpha trong
các mẫu nước giếng ở hai khu vựcĐông Nam Bộ
và Tây Nam Bộ với p-value <0,05. Trong khi đó,
kết quả phân tích thống kê đôi vớitổng hoạt độ
beta cho thấy không có sự khác biệtgiữa các mẫu
nước giếngởkhu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam
Bộ với p-value là 0,95 (Hình 1).
Bảng1: Kết quả phân tích tổng hoạt độ alpha và tổng hoạt độ beta trong các mẫu nước giếng
Thông tin mẫu
Tổng hoạt độ alpha, Bq L
-1
Tổng hoạt độ beta, Bq L
-1
Đông Nam Bộ Tây Nam Bộ Đông Nam Bộ Tây Nam Bộ
Tổng số mẫu phân tích 160 66 160 66
Số mẫu có phát hiện 56 15 81 40
Tỉ lệ mẫu có phát hiện 35,0% 22,7% 50,6% 60,6%
Số mẫu vượt chuẩn 19 10 0 0
Tỉ lệ mẫu vượt chuẩn 11,9% 15,2% 0% 0%
Giới hạn phát hiện 0,043 (0,022 - 0,093) 0,068 (0,023 - 0,091) 0,033 (0,023 - 0,045) 0,036 (0,027 - 0,082)
Hoạt độ trung bình
0,149 ± 0,028
(0,024 - 0,593)
0,311 ± 0,054
(0,026 - 0,748)
0,152 ± 0,014
(0,027 - 0,632)
0,153 ± 0,016
(0,036 - 0,519)
F-test
F F Crit (0,77 > 0,64)
P(F ≤ f) = 0,007 P(F ≤ f) one-tail = 0,16
t-test
|t|> tCrit (3,39> 1,99) |t|< tCrit (0,07 < 1,98)
P(T ≤ t) = 0,001 P(T ≤ t) = 0,95
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 425
Hình 1: Giới hạn phát hiện tổng hoạt độ alpha và beta ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ
Tương quan tổng hoạt độ alpha và tổng hoạt
độ beta trong các mẫu nước giếng
Mục đích của đánh giá hồi qui tương quan là
ước lượng mức độ liên hệ giữa các biến độc lập
đến biến phụ thuộc, hoặc ảnh hưởng của các
biến độc lập với nhau. Trong trường hợp này,
khi cả tổng hoạt độ phóng xạ alpha và beta trong
mẫu đều thấp, việc đánh giá hồi quy tương quan
để dự đoán thành phần đồng vị phóng xạ đóng
góp trong mẫu là lựa chọn phù hợp. Dựa vào giả
định các đồng vị phát beta nhưng không phát
alpha như: K-40, Sr-90, Cs-137 hoặc đồng vị phát
alpha nhưng không phát beta như Am-241, Pu-
239 thì sự tương quan giữa alpha và beta là
không đáng kể. Nếu trong thành phần mẫu có
chứa U-238 và Th-232 bao gồm các nhân con
cháu của chúngthì sự tương quan giữa alpha và
beta là đáng kể, vì chuỗi U-238 và Th-23 đều
phát alpha và beta đồng thời.
Để mô tả mức độ liên hệ giữa hai biến này
chúng ta cần phải xác định hệ số tương quan
giữa chúng (Correlation coefficient). Hệ số tương
quan của hai biến ngẫu nhiên x và y được xác
định theo công thức:
n
i i
i =1
2 2n n
i i
i =1 i =1
x x y y
r =
x x y y
Với: r là hệ số tương quan giữa hai biến x và
y; x , y là các giá trị trung bình của biến x và y.
Giá trị của r sẽ thay đổi trong khoảng từ 0
đến ± 1 tương ứng với mức độ không tương
quan đến tương quan hoàn chỉnh. Trong đó, dấu
của r chỉ chiều của sự tương quan. Nếu r >0, thì
đa số các giá trị lớn của y tương ứng với các giá
trị lớn của x và ngược lại tức là tỉ lệ thuận với x,
đây là tương quan dương hoặc tương quan tỉ lệ
thuận. Nếu r <0, ta có tương quan âm hay tương
quan tỉ lệ nghịch; Nếu r = 0, thì hai biến x và y
không có sự tương quan hay độc lập với nhau(3).
Bảng 2: Ý nghĩa của hệ số tương quan.
STT Giá trị hệ số tương quan Mức độ tương quan
1 0 r 0, 3 Không tương quan
2 0, 3 r 0,5 Tương quan yếu
3 0,5 r 0, 7 Tương quan trung bình
4 0, 7 r 0,9 Tương quan mạnh
5 0,9 r 1 Tương quan rất mạnh
Trên cơ sở đó, kết quả phân tích tương quan
giữa tổng hoạt độ alpha và tổng hoạt độ beta
trong các mẫu nước giếng có phát hiện đồng
thời tổng hoạt độ alpha/beta ở hai khu vực Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ được cho trong Hình 1.
Dựa trên kết quả phân tích hệ số tương quan
cho thấy có mối tương quan khá tốt giữa tổng
hoạt độ alpha và tổng hoạt độ beta ở cả hai khu
vực với giá trị hệ số tương quan ở khu vực Tây
Nam Bộ là r = 0,75 và ở khu vực Đông Nam Bộlà
r = 0,66. Điều này cho thấy nguyên nhân chính
gây ra tổng hoạt độ beta chủ yếu do đóng góp từ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 426
các đồng vị trong các chuỗi phóng xạ U-238, Th-
232 và sự đóng của đồng vị K-40 vào tổng beta là
không đáng kể (Hình 2).
Hình 2: Tương quan giữa tổng hoạt độ alpha và tổng hoạt độ beta trong các mẫu nước giếng
Suất liều hiệu dụng hàng năm trong mẫu nước
giếng
Phóng xạ trong nước ngầm có nguồn gốc từ
các đồng vị trong hai chuỗi phóng xạ U-238, Th-
232 và đồng vị K-40. Trong đó, tổng hoạt độ
alpha trong nước ngầm chủ yếu do sự đóng góp
từ các đồng vị phát bức xạ alpha như Ra-226, Ra-
224, Po-210 và một phần nhỏ từ đồng vị Th-232.
Trong khi đó đối vớitổng hoạt độ beta là do sự
đóng gópcủa các đồng vị phát bức xạ beta
nhưK-40, Ra-228và Pb-210. Trên cơ sở phân tích
mối tương quan giữa tổng alpha và tổng beta
trong các mẫu nước giếng ở hai khu vực Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ đã cho thấy có sự tương
quan khá tốt giữa tổng alpha và tổng beta với hệ
số tương quan lần lượt là 0,66 và 0,75, điều này
chỉ ra rằng nguồn gốc tổng beta trong các mẫu
nước giếng phần lớn đóng góp từ các đồng vị
trong hai chuỗi phóng xạ tự nhiên U-238 và Th-
232 và sự đóng góp từ K-40 là không đáng kể.
Hơn nữa khi tính toán cho thấy hệ số chuyển đổi
suất liều của đồng vị K-40 đối với người trưởng
thành rất nhỏ khi so sánh với các đồng vị phát
beta như Ra-228 và Pb-210 (CFK-40 = 6,2 x 10-6 mSv
Bq-1)(1). Do đó, trong nghiên cứu này suất liều
hiệu dụng đối với tổng alpha trong nước giếng
sẽ được tính theo đồng vị Ra-226 và Po-210, suất
liều hiệu dụng tổng beta được tính theo đồng vị
Ra-228 và Pb-210.
Suất liều hiệu dụng (ADE) đối với tổng
alpha/beta người dân nhận được quan ăn uống
từ nước giếng, nước ngầm được tính theo công
thức (WHO, 2011)(7):
-1α/β α/β wAED mSv y = A ×IR ×CF
Trong đóA/là hoạt độ alpha/beta của mẫu
(Bq L-1); CFlà hệ số chuyển đổi suất liều (mSv Bq-
1). IRwlà lượng nước tiêu thụ trung bình hằng
năm của người trưởng thành (IRw = 730 L y-1)(7).
Hệ số CF của các đồng vị sử dụng để tính suất
liều CFRa-226 = 2,8 x 10-4 mSv Bq-1, CFRa-228 = 6,9 x 10-
4 mSv Bq-1, CFPo-210 = 1,2 x 10-3 mSv Bq-1và CFPb-210
= 6,9 x 10-4 mSv Bq-1, theo thứ tự(1).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 427
Hình 3: Suất liều hiệu dụng alpha tính theo Ra-226 và Po-210
Hình 4: Suất liều hiệu dụng beta tính theo Ra-228 và Pb-210
Kết quả tính toán liều hiệu dụng hàng năm
trong 226 mẫu nước giếng ở hai khu vực Đồng
Nam Bộ và Tây Nam Bộcho thấy: Có 5 mẫu
nước giếng có giá trị suất liều vượt ngưỡng
theo khuyến cáo của tổ chức Y tế Thế giới khi
tính theo đồng vị Ra-226, 19 mẫu có suất liều
vượt ngưỡng khi tính theo đồng vị Po-210 và
20 mẫu nước giếng có suất liều vượt
ngưỡngkhi tính theo đồng vị Ra-228 và Pb-210.
Bên cạnh đó, có 41 mẫu nước ở hai khu vực
Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ có suất liều
vượt ngưỡng vượt ngưỡng theo khuyến cáo
của tổ chức Y tế Thế giới.
BÀN LUẬN
Nghiên cứu đã thực hiện khảo sát tổng hoạt
độ alpha và tổng hoạt độ beta của 226 mẫu nước
giếng, trong đó 160 mẫu lấy từ khu vực Đông
Nam Bộ và 66 mẫu lấy từ khu vực Tây Nam Bộ
với kết quả thu được như sau:
- Đối với khu vực Đông Nam Bộ có 56 mẫu
có phát hiện hoạt độ alpha chiếm tỉ lệ 35,0% và
81 mẫu có phát hiện hoạt độ beta chiếm tỉ lệ
50,6%, trong đó có 19 mẫu có hoạt độ alpha vượt
giới hạn cho phép theo QCVN 09:2008/BTNMT
chiếm tỉ lệ 11,9%.
- Đối với các mẫu có phát hiện, giá trị tổng
hoạt độ alpha nằm trong khoảng từ 0,024±0,009
Bq L-1 đến 0,593 ± 0,078 Bq L-1 với mức hoạt độ
alpha trung bình là 0,149±0,028 Bq L-1, giá trị
tổng hoạt độ beta nằm trong khoảng từ
0,027±0,009 Bq L-1 đến 0,632±0,029 Bq L-1 với mức
hoạt độ beta trung bình là 0,152 ± 0,014 Bq L-1.
Giới hạn phát hiện trung bình trong phân tích
tổng hoạt độ alpha là 0,043 Bq L-1và beta là 0,033
Bq L-1. Trong khi đó, ở khu vực Tây Nam Bộ,
trong tổng số 66 mẫu nước giếng phân tích có 15
mẫu có phát hiện hoạt độ alpha chiếm tỉ lệ 22,7%
và 40 mẫu có phát hiện hoạt độ beta chiếm tỉ lệ
60,6%, trong đó có 10 mẫu có hoạt độ alpha vượt
giới hạn cho phép theo QCVN 09:2008/BTNMT
chiếm tỉ lệ 15,2%.
- Đối với các mẫu có phát hiện, giá trị tổng
hoạt độ alpha nằm trong khoảng từ 0,026±0,010
Bq L-1đến 0,748±0,097 Bq L-1 với mức hoạt độ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 5 * 2019
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 428
alpha trung bình là 0,311±0,054 Bq L-1, giá trị
hoạt độ beta nằm trong khoảng từ 0,036±0,010
Bq L-1đến 0,519±0,025 Bq L-1 với mức hoạt độ beta
trung bình là 0,153±0,016 Bq L-1. Giới hạn phát
hiện trung bình hoạt độ alpha là 0,068 Bq L-1 và
hoạt độ beta là 0,036 Bq L-1.
- Ngoài ra, khi sử dụng phương pháp phân
tích thống kê F-test và t-test cho thấy có sự khác
biệt đáng kể giữa giá trị tổng hoạt độ alpha trong
các mẫu nước giếng ở hai khu vựcĐông Nam Bộ
và Tây Nam Bộ với mức ý nghĩa p-value <0,05.
Trong khi đó, kết quả phân tích thống kê đôi với
tổng hoạt độ beta cho thấy rằng không có sự
khác biệt đáng kể nào giữa giá trị tổng hoạt độ
beta trong các mẫu nước giếng ở khu vực Đông
Nam Bộ và Tây Nam Bộ với mức ý nghĩa
p-value là 0,95.
Kết quả phân tích hệ số tương quan cho thấy
có mối tương quan khá tốt giữa tổng hoạt độ
alpha và tổng hoạt độ beta ở cả hai khu vực
Đồng Nam Bộ và Tây Nam Bộ.Điều này cho
thấy nguyên nhân chính gây ra tổng hoạt độ
beta chủ yếu do đóng góp từ các đồng vị phóng
xạ trong các chuỗi phóng xạ tự nhiên như 238U,
232Th, và sự đóng góp beta từ đồng vị 40K là
không đáng kể.
Ngoài ra, dựa trên kết quả tính toán liều hiệu
dụng hàng năm trong 226 mẫu nước giếng ở hai
khu vực Đồng Nam Bộ và Tây Nam Bộ cho thấy:
có 5 mẫu nước giếng có giá trị suất liều vượt
ngưỡng theo khuyến cáo của tổ chức Y tế Thế
giới khi tính theo đồng vị Ra-226, 19 mẫu có suất
liều vượt ngưỡng khi tính theo đồng vị Po-210
và 20 mẫu nước giếng có suất liều vượt
ngưỡngkhi tính theo đồng vị Ra-228 và Pb-210.
Bên cạnh đó, có 41 mẫu nước ở hai khu vực
Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ có suất liều vượt
ngưỡng vượt ngưỡng theo khuyến cáo của tổ
chức Y tế Thế giới.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu cho thấy có 29 mẫu trong tổng số
226 mẫu nước giếng ở cả hai khu vực Đông Nam
Bộ và Tây Nam Bộ có giá trị tổng hoạt độ alpha
vượt quy chuẩn (0,1 BqL-1) theo QCVN
09:2008/BTNMT và không có mẫu nào có tổng
hoạt độ beta vượt quy chuẩn (1 BqL-1). Trong đó,
giá trị hoạt độ alpha và beta trung bình ở khu
vực Đông Nam Bộ là 0,149 BqL-1 và 0,152 BqL-1;
Giá trị hoạt độ alpha và beta trung bình ở khu
vực Tây Nam Bộ là 0,311 BqL-1 và 0,153 BqL-1.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu còn cho
thấy có 41 trong tổng số 226 mẫu nước giếng ở
cả hai khu vực Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ
có suất liều vượt ngưỡng theo khuyến cáo của
tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (0,1 mSv y-1).
KIẾN NGHỊ
Mở rộng phạm vi nghiên cứu và sử dụng
thêm hệcác thiết bị phân tích như hệ phổ gamma
phông thấp HPGevà hệ phổ kế alpha để xác
định chính xáchoạt độ của các đồng vị phóng xạ
trong mẫu nước giếng từ đó tính toán suất
liềuhiệu dụngmột cách chính xác hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. International Atomic Energy Agency (2012). Recommendations
of the International Commission on Radiological Protection.
ICRP Publication, pp.119.
2. International Organization for Standardization (2009). Water
quality – Measurement of gross alpha and gross beta activity in
non-saline water – Thin source deposit method. ISO 10704:2009.
3. Mukaka MM (2012). A guide to appropriate use of Correlation
coefficient in medical research. Malawi Medical Journal, 24(3):69–
71.
4. Ngô Quang Huy (2006). Cơ sở vật lý hạt nhân. NXB Khoa học và
Kỹ thuật, pp.26-28
5. QCVN 09 2008/BTNMT (2008). Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
chất lượng nước ngầm.
6. United Nations Scientific Committee on the Effects of Atomic
Radiation (2000). Sources and Effects of Ionizing Radiation.
United Nation Publication, New York. URL:
https://www.unscear.org/docs/publications/2000/UNSCEAR_20
00_Report_Vol.I.pdf.
7. World Health Organization (2011). Guidelines for drinking-
water quality. WHO publications, Geneva. URL:
https://www.who.int/water_sanitation_health/publications/drin
king-water-quality-guidelines-4-including-1st-addendum/en/.
Ngày nhận bài báo: 15/08/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2019
Ngày bài báo được đăng: 15/10/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 420_3723_2212121.pdf