Tài liệu Tóm tắt luận án Thể loại tủy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975: NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG TIỂU THUYẾT TỪ 1986 – 2000
Chuyờn ngành: Lí THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC
Mó số: 5.04.01
TểM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN VĂN MINH
THỂ LOẠI TÙY BÚT
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ 1930 ĐẾN 1975
Chuyờn ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mó số: 62.22.34.01
TểM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2011
Cụng trỡnh được hồn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TSKH. Lấ NGỌC TRÀ
Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Xuõn
Phản biện 2: PGS.TS Phạm Quang Long
Phản biện 3: TS Nguyễn Khắc Húa
Phản biện độc lập:
1- GS. TS Nguyễn Khắc Phi
2- PGS.TS Phạm Quang Long
Luận ỏn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận ỏn cấp
Nhà nước họp tại Trường Đại học Khoa học Xó hội và Nhõn văn
Tp. HCM vào hồi …. giờứ .... ngày .… thỏng …. năm...
26 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1369 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tóm tắt luận án Thể loại tủy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG TIỂU THUYẾT TỪ 1986 – 2000
Chuyên ngành: LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC
Mã số: 5.04.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN VĂN MINH
THỂ LOẠI TÙY BÚT
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ 1930 ĐẾN 1975
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 62.22.34.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2011
Công trình được hồn thành tại
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
GS.TSKH. LÊ NGỌC TRÀ
Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Xuân
Phản biện 2: PGS.TS Phạm Quang Long
Phản biện 3: TS Nguyễn Khắc Hóa
Phản biện độc lập:
1- GS. TS Nguyễn Khắc Phi
2- PGS.TS Phạm Quang Long
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Nhà nước họp tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Tp. HCM vào hồi …. giờø .... ngày .… tháng …. năm 2011.
Có thể tìm hiểu luận án tại các thư viện:
Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM.
Thư viện Khoa học xã hội TP. HCM.
Thư viện Trường Đại học KHXH&NV Tp. HCM
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Trần Văn Minh (1999), Chất văn hóa trong tùy bút Nguyễn Tuân, Luận
văn Thạc sĩ , ĐH KHXH&NV TP. HCM.
2. Trần Văn Minh (2007), Khảo sát một số tiêu chí phân biệt tùy bút với
các thể loại văn xuôi nghệ thuật khác, Tạp chí Khoa học, số 8, ĐHCT.
3. Trần Văn Minh (2008), Dạy và học văn học văn học Việt Nam hiện đại
từ góc nhìn nguyên hợp: Văn-Sử-Triết bất phân), Kỷ yếu Hội nghị
Khoa học, Đại học Cửu Long.
4. Trần Văn Minh (2008), Thể loại tùy bút trong nền văn học Việt Nam
hiện đại, Tạp chí Khoa học Xã hội, Viện KHXH Việt Nam, số 122.
5. Trần Văn Minh (2009), Phân loại tùy bút, Tạp chí Khoa học Xã hội,
Viện KHXH Việt Nam, số 128.
6. Trần Văn Minh (2009), Dạy tác phẩm tùy bút trong trường THPT, nhìn
từ đặc trưng thể loại, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 6.
7. Trần Văn Minh (2010), So sánh sự hình thành và phát triển của thể loại
tùy bút trong hai nền văn học: văn học Việt Nam và văn học Trung
Quốc, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế tại Trường Đại học
KHXH&NV Tp. HCM .
8. Trần Văn Minh (2010), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam hiện đại,
giai đoạn 1945-1975, (đồng tác giả), ĐHCT.
1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, tùy bút là một thể loại có đóng
góp đáng kể. Rất nhiều tên tuổi lớn mà phần thành công hơn cả của sự
nghiệp sáng tác được khẳng định bằng tùy bút. Những trang tùy bút đặc
sắc của Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Vũ Bằng,
Hồng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Bình
Nguyên Lộc, Băng Sơn,... không chỉ mang tới cho độc giả nhã thú văn
chương mà còn góp phần vun bồi vốn tri thức phong phú về tự nhiên, xã
hội và nghệ thuật. Từ góc nhìn văn học sử, không khó để nhận ra rằng thể
loại này đã có một quá trình hình thành và phát triển với những quy luật
vận động riêng trong quỹ đạo chung của cả nền văn học dân tộc.
Thực tiễn sáng tác sinh động là thế, nhưng về lý luận thì quả có
nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ xung quanh thể loại tùy bút. Các nhà nghiên cứu
luôn mong muốn có được sự tường minh trong thao tác xác định loại hình
và phân loại, hệ thống hóa. Nhưng đó là một điều hết sức khó khăn và
phức tạp vì tính chất trung gian, lưỡng hợp của tùy bút (giữa tự sự với trữ
tình, giữa suy tưởng với xúc cảm, giữa văn xuôi với thơ, giữa yếu tố
khách quan với yếu tố chủ quan) có thể khiến cho mọi cố gắng phân định
rạch ròi đều trở nên bất cập hoặc không thỏa đáng. Hậu quả là, mặc dù
được nhìn nhận như một thể loại văn học, nhưng quan điểm phân loại và
cách hiểu về tùy bút, trên thực tế, hầu như chưa có sự nhất trí cần thiết.
Do chưa có được sự đồng thuận từ cơ sở lý luận nên việc tiếp cận và bình
giá những tác phẩm tùy bút cũng gặp không ít khó khăn, phức tạp.
Rõ ràng cần phải khảo sát tường tận hơn về tùy bút, trước hết ở
phương diện khái niệm, thể loại; rồi trên cơ sở đó mà vạch ra một đường
biên - tất nhiên cũng chỉ mang ý nghĩa tương đối - giữa tùy bút với các
thể loại văn xuôi nghệ thuật khác. Để tùy bút có cơ sở tồn tại bình đẳng
với những thể loại khác trong đời sống văn học, để không chỉ phân định
thỏa đáng những giá trị vốn có, mà quan trọng hơn là định hướng phù
hợp cho sự vận động phát triển ở tương lai, thiết nghĩ đã đến lúc cần có
sự nghiên cứu đầy đủ về nguồn gốc thể loại, quá trình phát triển với
những quy luật và thành tựu nổi bật, về đặc điểm nội dung và nghệ thuật
cơ bản của nó.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là thể loại tùy bút trong văn học
Việt Nam hiện đại. Phạm vi nghiên cứu bao gồm những vấn đề lý thuyết
2
về loại thể và lịch sử văn học. Luận án tập trung giải quyết hai nội dung
cơ bản: những vấn đề lý luận xung quanh thể loại tùy bút (khái niệm, loại
hình, đặc trưng nghệ thuật, phân loại), quá trình hình thành, phát triển và
những đặc điểm của nó trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975. Phạm
vi tư liệu nghiên cứu của Luận án bao gồm những tác gia, tác phẩm tùy
bút tiêu biểu trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975. Chúng tôi chọn
khoảng thời gian này để khảo sát thành tựu và đặc điểm của tùy bút vì
những lý do sau đây:
- Ở Việt Nam, mặc dù các tác phẩm ký mang yếu tố tùy bút xuất
hiện khá sớm trong văn học trung đại, nhưng mãi đến trước 1930, vẫn
chưa thể nói rằng tùy bút đã định hình rõ nét thành một thể loại văn xuôi,
có thành tựu đáng ghi nhận. Chỉ từ sau 1930, cùng với sự khởi sắc của
nhiều thể loại hiện đại (như tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự,…), tùy
bút mới thực sự đánh dấu sự góp mặt của nó bằng những tên tuổi lớn,
nhiều tác phẩm độc đáo. Do đó, chọn năm 1930 làm mốc khởi đầu một
giai đoạn phát triển của tùy bút Việt Nam là hồn tồn có cơ sở.
- Trải qua thử thách của thực tế sáng tác trong gần nửa thế kỷ,
đến năm 1975, có thể nói diện mạo cơ bản của thể loại tùy bút đã định
hình. Cho nên, đặt vấn đề khảo sát tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975
chính là nhằm mục đích khẳng định một giá trị văn học đã ổn định và
tương đối trọn vẹn ý nghĩa.
Để đảm bảo tính hệ thống và để so sánh nhằm làm nổi bật vấn đề,
chúng tôi không thể không điểm qua những sáng tác mang ngày càng rõ
nét yếu tố tùy bút ở giai đoạn trước năm 1930 cũng như những thành tựu
của thể loại này từ sau 1975. Việc cân nhắc để phân định thể loại cho
những tác phẩm cụ thể, không thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận án.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3.1. Xác lập một cách hiểu hợp lý, đầy đủ về khái niệm tùy bút; trên
cơ sở đó, xác định rõ loại hình và đặc trưng thể loại của tùy bút.
3.2. Khái quát những chặng đường phát triển và quy luật vận động
của thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975.
3.3. Khẳng định đóng góp to lớn của thể loại tùy bút, cả về nội dung
và bút pháp nghệ thuật, làm phong phú thêm diện mạo văn xuôi Việt
Nam hiện đại.
4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
3
Tương ứng với hai bình diện chính của đối tượng nghiên cứu là
những vấn đề lý thuyết về loại thể và lịch sử văn học xung quanh thể loại
tùy bút, phần Lịch sử vấn đề của Luận án được trình bày theo hai mảng
cụ thể như sau:
4.1. Về thể loại tùy bút
Trong một khoảng thời gian khá dài, tùy bút chưa có được sự
nghiên cứu thật triệt để. Hầu hết các công trình lý luận - phê bình, các
công trình văn học sử đều dành sự quan tâm nhiều hơn đến đặc điểm và
thành tựu của thể loại ký - một mảng văn xuôi quan trọng ở mọi thời kỳ
phát triển của văn học viết. Tùy bút thường chỉ được nhắc qua như một
tiểu loại giàu chất trữ tình, và tất nhiên, phải chịu sự chi phối từ những
đặc điểm loại hình của ký.
4.1.1. Có thể nhận ra hai kiểu quan niệm vừa tương đồng vừa có chỗ
chưa nhất trí với nhau xung quanh vấn đề loại hình của tùy bút: a- Tùy
bút là một tiểu loại văn xuôi giàu chất trữ tình, thuộc thể loại ký; b- Tùy
bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ ký, thuộc loại trữ tình.
Xếp tùy bút vào hệ thống tiểu loại của ký, các nhà nghiên cứu muốn
khẳng định vai trò của tự sự như là yếu tố thứ nhất, có ý nghĩa làm nền
trong những tác phẩm thuộc thể loại này. Đó là quan niệm của: Trần Đình
Sử (trong Từ điển thuật ngữ văn học - 1992), Nguyễn Văn Hạnh (trong
Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ - 1998), Hồng Ngọc Hiến (trong
Văn học…gần & xa - 2003), Lê Dục Tú (trong Văn học Việt Nam thế kỷ
XX - Phan Cự Đệ chủ biên - 2004). Quan niệm này khá phổ biến và
không ít nhà nghiên cứu đã mặc nhiên thừa nhận tùy bút là một dạng, một
tiểu loại giàu chất trữ tình của thể loại ký. Nhưng trong tùy bút việc kể
chuyện, thuật sự đâu phải là mối quan tâm hàng đầu của người nghệ sĩ;
do đó, làm sao có thể căn cứ vào một yếu tố không mang tính bản chất để
phân định thể loại? Trữ tình mới là mục đích chính yếu, là cứu cánh nghệ
thuật trong tùy bút.
Khác hẳn với quan niệm nêu trên, một số nhà nghiên cứu xếp dứt
khốt tùy bút vào loại trữ tình. Đó là quan niệm của: Nguyễn Xuân Nam
(trong Lý luận văn học – 1987), Trần Thanh Hà (trong Tam diện tùy bút
– 2007), Nguyễn Thành Thi (trong Văn học – thế giới mở - 2010),…
Kiểu quan niệm này tuy có vẻ khắc phục được những hạn chế của việc
xếp tùy bút vào hệ thống các tiểu loại của thể loại ký - một biến thể của
loại tự sự - nhưng lại rất khó tránh khỏi một cực đoan khác.
4
4.1.2. Do chưa được xác định rõ ràng đặc trưng thể loại từ cơ sở lý
thuyết, nên công việc khảo sát, bình giá những tác phẩm tùy bút cụ thể đã
gặp không ít trở ngại. Có khi sự chệch choạc bộc lộ ngay từ khâu phân
định thể loại. Ví dụ: thường, người ta quen gọi Hà Nội băm sáu phố
phường của Thạch Lam là tùy bút, nhưng cũng có lúc nó được xem là bút
ký (Đinh Quang Tốn) hoặc “một thứ biên khảo song có nhiều tính chất
nghệ thuật” (Phạm Thế Ngũ). Các nhà nghiên cứu cũng khá vất vả trong
việc xác định ranh giới giữa tùy bút với các tiểu loại khác của ký (nhất là
bút ký). Trong sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 12 nâng cao, (đều
do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ấn hành năm 2007), phần khái niệm về thể
loại và định hướng tiếp cận các tác phẩm tùy bút chưa được trình bày thật
sáng rõ, nhất quán (“bài ký thực chất thuộc thể tùy bút”, “tùy bút thuộc
thể ký”). Trong quyển Thiết kế bài giảng Ngữ văn 12, tập một (Nguyễn
Văn Đường chủ biên), các tác giả cũng tỏ ra lúng túng, nhầm lẫn khi định
nghĩa về tùy bút: “Tùy bút: một loại bút ký ghi chép người thật việc thật,
không có cốt truyện, đặc biệt in đậm cảm xúc chủ quan của người viết,
đậm chất trữ tình”.
4.1.3. Về đặc điểm nghệ thuật nổi bật, hầu hết các ý kiến đều thừa nhận
rằng tùy bút là một thể loại văn xuôi nghệ thuật hết sức tự do, phóng túng
và giàu chất trữ tình; ở đó, cái tôi cá nhân của người nghệ sĩ luôn được
bộc lộ rõ nét, sinh động. Đó là các ý kiến của: Vương Trí Nhàn (trong
Nguyễn Tuân và thể tùy bút - 1997), Lý Lan (trong Miên man tùy bút -
2007), Trần Thanh Hà (trong Tam diện tùy bút - 2007), Nguyễn La
(trong Cái tôi trong tùy bút - 2008),… Ngồi đặc điểm về chủ thể sáng
tạo, những bình diện nội dung và nghệ thuật khác của tùy bút (đề tài, cảm
hứng, nhân vật, kết cấu, dung lượng, giọng điệu, ngôn ngữ) hầu như ít
được các nhà nghiên cứu đề cập tới.
* Thực tế nghiên cứu cho thấy, sẽ trở nên cứng nhắc và khiên cưỡng nếu
cố tình quy tùy bút vào một trong hai loại: tự sự hoặc trữ tình. Tự sự
không chỉ là phương tiện và trữ tình chưa hẳn là mục đích duy nhất của
các sáng tác tùy bút. Cái tôi của nhà văn xuất hiện trong tùy bút không chỉ
để giãi bày cảm xúc mà còn để kể chuyện, tâm tình, đối thoại, suy
tư,…Vậy thì tùy bút thuộc loại hình văn học nào, đâu là những đặc trưng
thể loại và để phân loại tùy bút phải căn cứ vào những tiêu chí nào? Thiết
nghĩ, đó là những vấn đề thực sự mang ý nghĩa khoa học, cần được quan
tâm nghiên cứu triệt để hơn.
4.2. Về tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975
5
Do chưa có những công trình nghiên cứu quy mô, hệ thống, nên
các ý kiến, nhận định về tiến trình của tùy bút ở Việt Nam thường xuất
hiện lẻ tẻ, rải rác trong các bài báo, tạp chí và những công trình nghiên
cứu văn học sử nói chung. Mặt khác, một khi quan niệm cho rằng tùy bút
là một tiểu loại của ký đã và đang được nhiều người thừa nhận thì tìm ra
những ý kiến, nhận định riêng về nó là điều không dễ dàng. Vì thế, những
phát biểu, đánh giá về ký nói chung đôi khi cũng góp phần tăng cường
tính hệ thống cho việc nghiên cứu quá trình phát triển của tùy bút.
4.2.1. Tùy bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ ký. Thể loại ký phát
triển rất mạnh trong văn học trung đại Việt Nam. Cho nên, những tác
phẩm ký mang hơi hướng, dáng dấp tùy bút đã thấy xuất hiện từ trước thế
kỷ XX. Nhưng tùy bút, với cách hiểu là một thể loại văn xuôi hẳn hoi như
hiện nay, thì chưa có. Ở chặng đầu của công cuộc hiện đại hóa nền văn
học Việt Nam (1900 - 1930), mặc dù tùy bút chưa tách ra khỏi thể loại ký
nhưng chất trữ tình đã dần đậm đà hơn và bản ngã của người viết cũng
bộc lộ rõ nét hơn. Đây được xem là thời kỳ chuyển dạ, là giai đoạn cuối
của quá trình sinh thành một thể loại văn học. Các ý kiến của Vương Trí
Nhàn (trong Nguyễn Tuân và thể tùy bút - 1997), Nguyễn Văn Hạnh
(trong Chuyện văn, chuyện đời – 2004), Lê Dục Tú (trong Văn học Việt
Nam thế kỷ XX - Phan Cự Đệ chủ biên - 2004),… đã khẳng định điều đó.
4.2.2. Từ 1930 đến 1945, diện mạo và thành tựu độc đáo của thể loại tùy
bút mới thực sự được khẳng định. Ở bài viết Nguyễn Tuân, tên tuổi còn
mãi với thể tùy bút (1997), qua việc phân tích cặn kẽ những tiền đề từ
thực tiễn văn học và tâm lý xã hội, Vương Trí Nhàn đã cho thấy sự ra đời
của thể loại tùy bút nói chung và sáng tác của Nguyễn Tuân nói riêng vào
thập niên 30 của thế kỷ XX là một hiện tượng tất yếu, mang tính lịch sử.
Trong Luận án Tiến sĩ về Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân (2004), ở
phần điểm qua tiến trình tùy bút Việt Nam, Nguyễn Thị Hồng Hà có nhận
định: “Cho đến cuối thập niên thứ ba của thế kỷ XX, những tác phẩm tùy
bút thực sự mang hơi thở lẫn dáng dấp hiện đại bắt đầu xuất hiện”. Trong
Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Lê Dục Tú đặc biệt ghi nhận đóng góp của
thể loại ký vào giai đoạn văn học 1930 - 1945, với tùy bút là một trong hai
“dạng” chủ yếu. Trong Khóa luận tốt nghiệp đại học ngành Văn học với
đề tài Thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam 1930 – 1945 (Trường đại
học KHXH & NV Tp. HCM - 2006), Nguyễn Thị Bích Thủy đã tập trung
tìm hiểu những đặc điểm và thành tựu của tùy bút Việt Nam thời kỳ đầu.
Ở phần Lời nói đầu quyển Du ký Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và
giới thiệu – 2007), các tác giả đã khẳng định sự hiện diện của thể loại tùy
6
bút, góp phần làm nên diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại từ đầu thế
kỷ XX. Trong Văn học – thế giới mở, khi khảo sát quá trình tương tác
giữa các thể loại văn học từ 1932 đến 1945, Nguyễn Thành Thi cũng
khẳng định vị trí xứng đáng của tùy bút trong hệ thống thể loại văn xuôi
thời kỳ hiện đại.
Các tác gia, tác phẩm tùy bút tiêu biểu ở thời kỳ này như Nguyễn
Tuân với Chiếc lư đồng mắt cua, Tùy bút I, Tùy bút II, Tóc chị Hồi;
Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường, Xuân Diệu với Phấn
thông vàng, Trường ca, Chế Lan Viên với Vàng sao, Đinh Gia Trinh với
Hồi vọng của lý trí,…cũng đã có được sự quan tâm đáng kể từ các nhà
nghiên cứu.
4.2.3. Từ 1945 đến 1975, trong bối cảnh chiến tranh vệ quốc khốc liệt, là
một thể loại linh hoạt, đa năng, tùy bút nhanh chóng thích nghi với yêu
cầu mới của hồn cảnh lịch sử. Cái tôi trữ tình trong tùy bút đã mang dáng
dấp sử thi và mạch cảm xúc trở nên đậm đà màu sắc lãng mạn. Ở bài viết
Diện mạo văn học Việt Nam 1954 – 1975 (1999), Lã Nguyên xác định rõ
vị trí của tùy bút trong sự phong phú, đa dạng về thể loại của nền văn học
Cách mạng. Trong Văn học Việt Nam hiện đại, vấn đề - tác giả (2005),
Mã Giang Lân cũng khẳng định: trong văn học 1945 -1975, ba thể loại
chính có nhiều thành tựu hơn cả là ký, truyện ngắn và tiểu thuyết. Trong
các công trình nghiên cứu văn học sử và các tập tiểu luận phê bình, các
tác giả, tác phẩm tùy bút tiêu biểu ở giai đoạn này cũng thường được đề
cập như những đóng góp đầy ý nghĩa cho nền văn học dân tộc.
* Nhìn chung, đóng góp của thể loại tùy bút để làm nên sự phong phú và
đa dạng cho diện mạo văn xuôi Việt Nam hiện đại, nhất là trong khoảng
thời gian từ 1930 đến 1975, đã được thừa nhận. Tuy nhiên, từ thực tế
nghiên cứu có thể nhận ra không ít điểm chưa thỏa đáng, cần khảo sát
tường tận hơn. Thứ nhất, mặc dù không thể phủ nhận mối liên hệ phái
sinh với thể loại ký, nhưng rất cần phải tách ra, xem xét tùy bút như một
thể loại độc lập. Chỉ khi nào những thành tựu của tùy bút được xếp theo
một hệ thống riêng thì lúc đó mới có đủ cơ sở để rút ra những nhận định
xác đáng về quy luật vận động, phát triển và đặc điểm của thể loại. Thứ
hai, bao giờ cũng vậy, nói đến tùy bút Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới
Nguyễn Tuân. Sáng tác của Nguyễn Tuân được xem là đỉnh cao, là mẫu
mực cho thể loại tùy bút. Điều này đúng, nhưng chưa đủ. Một mình cụ
Nguyễn, dù tài ba và uyên bác đến đâu, cũng khó lòng dựng lên một lâu
đài tùy bút nguy nga trong văn học hiện đại như thế. Do đó, cần phải ghi
7
nhận đóng góp của thể loại tùy bút đối với nền văn học dân tộc một cách
công bằng và đầy đủ hơn.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Những phương pháp nghiên cứu có ý nghĩa phương pháp luận:
Phương pháp lịch sử, phương pháp loại hình.
Những phương pháp nghiên cứu có ý nghĩa thao tác cụ thể:
Phương pháp mô tả, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
6.1. Luận án nêu rõ những điểm chưa thống nhất trong cách hiểu khái
niệm, xác định loại hình và đặc trưng nghệ thuật của thể loại tùy bút; từ
đó, xác lập một quan niệm mới về loại hình của tùy bút trong văn học.
6.2. Bước đầu đặt ra vấn đề phân loại tùy bút trên cả hai phương diện: lý
thuyết thể loại và lịch sử văn học.
6.3. Khảo sát tình hình phát triển và thành tựu của tùy bút Việt Nam qua
ba chặng đường: 1930 - 1945, 1945 - 1954, 1954 - 1975. Điểm qua những
tác gia, tác phẩm tùy bút tiêu biểu. Lập danh mục tác phẩm tùy bút được
sáng tác trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1975.
6.4. Khái quát đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của những sáng tác
tùy bút từ 1930 đến 1975, từ đó, khẳng định sự góp mặt xứng đáng của
thể loại này trong văn học Việt Nam hiện đại.
7.CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Luận án gồm tổng cộng 232 trang, trong đó có 197 trang chính văn.
Dung lượng cụ thể của các phần như sau:
* MỞ ĐẦU (23 trang)
* CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý thuyết về thể loại tùy bút (29 trang)
* CHƯƠNG 2: Quá trình phát triển của tùy bút Việt Nam
từ 1930 đến 1975 (77 trang)
* CHƯƠNG 3: Đặc điểm của tùy bút Việt Nam
từ 1930 đến 1975 (65 trang)
* KẾT LUẬN (4 trang); PHỤ LỤC (14 trang)
8
* TÀI LIỆU THAM KHẢO (234 tài liệu); PHỤ CHÚ (1 trang)
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ THỂ LOẠI TÙY BÚT
1.1. Về khái niệm “tùy bút”
1.1.1. Có vẻ như cách hiểu đơn giản: tùy bút là những trang văn xuôi ở
đó nhà văn tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy - lâu nay dễ được nhiều người
thừa nhận nhất. Tuy nhiên, có thể nói ngay rằng đây là cách hiểu chưa
thỏa đáng, tiềm ẩn không ít mâu thuẫn. Nếu coi tùy bút là một cách viết
hoặc một kiểu bút pháp thì chỉ mới dừng lại ở mức độ bên ngồi, chưa đi
sâu vào bản chất của đối tượng. Tùy bút còn là một thể loại văn học mang
những nét đặc trưng về nội dung và nghệ thuật biểu hiện, đủ sức tồn tại
ngang hàng với những thể loại văn xuôi nghệ thuật khác.
1.1.2. Từ góc nhìn từ nguyên học có thể tìm thấy những giả thiết đáng tin
cậy, góp phần vào việc xác định khái niệm và phân định loại hình của tùy
bút. Vào buổi sơ khai của việc phân loại, một số nhà lý luận Trung Quốc
(Lưu Hiệp, Nhan Diên Chi) chia văn chương thành 2 loại: loại có vần là
Văn và loại không vần là Bút. Từ nguồn gốc phương Đông, tùy bút đã
được xác định là một thể loại văn xuôi thực sự tự do, phóng túng, không
bị ràng buộc bởi những khuôn khổ có tính quy phạm, cả về nội dung tư
tưởng và cách thức thể hiện.
1.1.3. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có sự gần gũi giữa thể loại tùy
bút với thể loại essay trong văn học phương Tây. Có hai loại essay: essay
thường quy (formal essay – có thể dịch là “tiểu luận”) và essay không
thường quy (informal essay – có thể dịch là “tùy bút”). Tùy bút là một
dạng, một loại essay - essay nghệ thuật. Chỉ những văn bản ngôn từ ra
đời từ cách viết tự do, phóng túng, không theo quy cách cố định, mới
được xem là tùy bút.
1.1.4. Cần phải hiểu tùy bút như một khái niệm mang nội hàm bao gồm
hai bình diện ý nghĩa: một thuật ngữ để chỉ cách viết có tính thẩm mỹ,
một kiểu bút pháp phóng túng, linh hoạt xuất hiện trong văn xuôi ở nhiều
lĩnh vực khác nhau; một thể loại văn học đã ra đời và có những bước phát
triển mạnh mẽ trong thời hiện đại.
1.2. Xác định loại của tùy bút
9
1.2.1. Hiện nay, việc xác định loại của tùy bút vẫn chưa có được sự nhất
trí cần thiết. Hầu hết các ý kiến đều lệch về hai phía: hoặc coi tùy bút là
một tiểu loại giàu chất trữ tình nhất của ký (biến thể của loại tự sự), hoặc
khẳng định dứt khốt rằng thể loại tùy bút thuộc loại trữ tình. Rõ ràng, việc
xếp dứt khốt tùy bút vào một trong hai loại: tự sự hoặc trữ tình, xét một
cách tồn diện, đều là chưa thỏa đáng.
1.2.2. Vậy thì thể loại tùy bút nằm ở đâu trong hệ thống phân loại văn
học truyền thống? Có lẽ đặt nó ở vị trí trung gian giữa loại tự sự và loại
trữ tình là phù hợp hơn cả. Sáng tác văn chương, từ trong bản chất, là một
hình thức giao tiếp thẩm mỹ vừa mang ý nghĩa xã hội vừa có thuộc tính
tự nhiên. Mà trong thế giới tự nhiên đa dạng thì những hiện tượng lai
ghép, lưỡng tính luôn tồn tại như một thực tế không thể phủ nhận.
1.3. Đặc điểm của thể loại tùy bút
Trong Luận án, chúng tôi đã tập trung khảo sát đặc điểm của thể
loại tùy bút trên các bình diện cụ thể sau đây:
1.3.1. Đề tài
Đề tài của tùy bút rất đa dạng. Với ưu thế riêng của một thể loại
nằm ở vị trí trung gian, tùy bút có thể can dự vào mọi phương diện, mọi
lĩnh vực đời sống. Từ những vấn đề về lịch sử, văn hóa, phong tục cho tới
những nội dung mang tính chất thế sự, đời tư; từ ngoại cảnh đến tâm
cảnh, từ ý thức đến vô thức, tất cả đều là đối tượng để cảm nhận và suy tư
trong tùy bút. Tùy bút thường tái hiện nội tâm con người trong sự đan xen
nhiều cung bậc cảm xúc phong phú, phức tạp hoặc thuật lại những nỗi ám
ảnh, day dứt tinh thần triền miên. Cảm quan nghệ thuật của người viết tùy
bút còn tỏ ra hết sức tinh nhạy trước vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên và
những giá trị văn hóa truyền thống.
1.3.2. Cảm hứng, tình điệu thẩm mỹ
Là một thể loại trung gian, thừa hưởng được ưu thế của cả hai loại
hình - tự sự và trữ tình, tùy bút hầu như dung hợp được tất cả các loại
cảm hứng, tình điệu thẩm mỹ khác nhau. Lãng mạn luôn là cảm hứng chủ
đạo trong tùy bút. Góc nhìn trần thuật của người viết tùy bút bao giờ cũng
xuất phát từ những chuẩn mực về cái Đẹp. Khuynh hướng lý tưởng hóa
ấy góp phần quan trọng đảm bảo cho sự ưu trội của cảm hứng lãng mạn
trong tùy bút. Cảm hứng bi cũng xuất hiện khá thường xuyên, nhất là ở
mảng sáng tác về đề tài thế sự, đời tư. Những sáng tác tùy bút ra đời trong
10
hồn cảnh chiến tranh thường lấy cảm hứng anh hùng làm cảm hứng chủ
đạo. Ngồi ra, các dạng cảm hứng như châm biếm, trữ tình, hài hước,... ở
mức độ khác nhau, cũng đều xuất hiện trong tác phẩm tùy bút, góp phần
tạo nên sự phong phú, đa dạng của cảm hứng và tình điệu thẩm mỹ.
1.3.3. Lời văn, giọng điệu
Lời văn, giọng điệu của tùy bút bao giờ cũng uyển chuyển, linh
hoạt, có sự hài hòa giữa chất thơ với chất trần thuật. Lời văn tùy bút
thường rất đẹp, vì được trau chuốt bằng cả một “tử công phu” (chữ dùng
của Nguyễn Tuân). Người viết tùy bút phải là “nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy”
thì mới đủ sức làm thăng hoa những vẻ đẹp tiềm ẩn của ngôn từ nghệ
thuật. Trong tùy bút, dạng lời văn gián tiếp của người trần thuật luôn xuất
hiện với tần số cao nên độc thoại là hình thức giao tiếp chiếm ưu thế. Tùy
bút thường có giọng chậm rãi, như thủ thỉ tâm tình. Nhân vật xưng tôi -
người trần thuật trữ tình - quán xuyến tồn bộ tác phẩm, dù không phải lúc
nào cũng xuất hiện trực tiếp.
1.3.4. Kết cấu
Không kể tồn bộ câu chuyện, không dựng lại bức tranh tồn cảnh
(như truyện ngắn, truyện ký, tiểu thuyết), không quan tâm xây dựng cốt
truyện, tùy bút chỉ chú trọng thể hiện dòng cảm xúc với những khoảnh
khắc tâm trạng, những trạng thái suy tư, những tình huống nhận thức.
Người viết tùy bút ít khi dồn nén, thắt nút, tạo kịch tính, nên kết cấu
thường dàn trải như dạo chơi theo nhịp thời gian chậm, trong không gian
rộng, nhuốm màu hồi niệm. Trong kết cấu một thiên tùy bút, câu chuyện
được thuật lại bao giở cũng lùi vào bình diện thứ hai, nhường chỗ cho
dòng mạch trữ tình.
1.3.5. Dung lượng
Dung lượng của mỗi tác phẩm tùy bút thường ở mức độ trung bình,
vừa đủ để gói ghém tình ý của nhà văn về một đối tượng thẩm mỹ cụ thể.
Nếu cần bộc lộ trọn vẹn ấn tượng chủ quan trước những sự việc, hiện
tượng đa dạng, phong phú, người viết tùy bút chia tác phẩm thành từng
đoản thiên (có hoặc không có tiểu tựa).
1.4. Phân loại tùy bút
Căn cứ vào đặc trưng về loại hình (thuộc loại hình tự sự - trữ tình),
có thể tiếp cận để phân loại tùy bút từ hai phương diện chính: tự sự và trữ
11
tình. Ngồi ra, dung lượng cũng là một căn cứ về hình thức có ý nghĩa góp
phần phân định các dạng của thể loại tùy bút.
1.4.1. Nếu khảo sát từ phương diện tự sự, có thể phân loại tùy bút dựa
trên sự khác biệt về đề tài. Căn cứ vào tiêu chí này, nhóm tùy bút tự sự
gồm các dạng cụ thể như: tùy bút văn hóa, tùy bút phong cảnh thiên
nhiên, tùy bút chiến tranh, tùy bút lịch sử, tùy bút chính trị,... Các dạng
tùy bút này, cùng với đặc điểm về đề tài, còn mang những nét riêng về
không gian, thời gian nghệ thuật, về giọng điệu trần thuật, về mối quan hệ
giữa tả và kể. Chúng tôi chọn sự khác nhau về đề tài làm căn cứ phân loại
cho nhóm tùy bút tự sự vì đây là tiêu chí nổi trội, có khả năng bao quát
đối tượng trong tính đa dạng và phong phú của nó.
1.4.2. Nếu tiếp cận tùy bút từ phương diện trữ tình thì có thể lấy cảm
hứng làm tiêu chí cơ bản để phân loại. Dựa trên tiêu chí cảm hứng sáng
tác, có thể phân nhóm tùy bút trữ tình thành các dạng như sau: tùy bút
lãng mạn, tùy bút anh hùng, tùy bút thế sự, tùy bút bi kịch, tùy bút châm
biếm,… Tất nhiên, cảm hứng sáng tác không phải là căn cứ duy nhất để
phân loại nhóm tùy bút trữ tình; còn phải tính đến các yếu tố khác như
nhân vật trữ tình, ngôi trữ tình, phương thức trữ tình. Tuy nhiên, sự khác
biệt trong cảm hứng sáng tác giữa các dạng thuộc nhóm tùy bút trữ tình là
rõ nét hơn cả, vì vậy lấy cảm hứng làm tiêu chí phân định là thỏa đáng.
1.4.3. Sự khác biệt về dung lượng là một tiêu chí hình thức dựa vào đó
có thể phân loại tùy bút thành các kiểu: đoản thiên tùy bút, trung thiên tùy
bút, trường thiên tùy bút. Tạp bút, tạp văn là một dạng biến thể, mang
đầy đủ đặc điểm của đoản thiên tùy bút, vừa đủ để diễn tả gọn ghẽ một
tình huống và bộc lộ một cách đơn tuyến mạch suy tư, xúc cảm của chủ
thể trữ tình.
1.5. Phân biệt tùy bút với bút ký và thơ văn xuôi
1.5.1. Bút ký là một thể loại khá gần gũi với tùy bút. Chung gốc gác từ
ký, nên trong bút ký và tùy bút luôn có sự hiện diện của yếu tố tự sự.
Nhưng vai trò của yếu tố này ở mỗi thể loại có điểm khác nhau. Tự sự
trong bút ký bao giờ cũng hướng đến mục đích biểu đạt tư tưởng của tác
giả. Trong khi đó, tự sự ở tùy bút thường có ý nghĩa như phương tiện để
giãi bày thế giới tâm hồn, cảm xúc. Nghĩa là, mặc dù đôi khi cũng có màu
sắc trữ tình nhưng bút ký thiên về nhận thức, còn cái mạch chính trong
tùy bút bao giờ cũng là cảm xúc, suy nghĩ. Một phương diện khác cũng
ghi nhận nét tương đồng và dị biệt giữa bút ký với tùy bút là vấn đề hư
12
cấu. Nếu hư cấu trong bút ký có thể xuất hiện ở mọi cấp độ, từ đề tài,
nhân vật, chi tiết đến tình huống, tư tưởng thì ở tùy bút, hư cấu được sử
dụng trong khi người nghệ sĩ cố gắng khắc họa những khoảnh khắc tâm
trạng hoặc mãnh liệt, rõ nét hoặc chỉ bàng bạc, thoảng qua. Nghĩa là, nếu
hư cấu trong bút ký nhằm ảo hóa, lạ hóa đối tượng khách quan thì ở tùy
bút, nó giúp hình tượng hóa thế giới tâm hồn chủ quan của con người.
1.5.2. Về phương diện hình thức, thơ văn xuôi và tùy bút gần giống nhau
ở chỗ cấu trúc ngữ pháp có tạo nên nhịp điệu, nhạc điệu. Nhưng nét khác
biệt trong sự vận động của mạch tư tưởng, cảm xúc ở đây là: một bên đi
theo nhịp luân vũ (đường tròn), một bên đi theo bước dạo chơi (đường
thẳng). Hình ảnh và ngôn ngữ trong thơ bao giờ cũng đòi hỏi một mức độ
cách điệu, lý tưởng vì đã khúc xạ, thăng hoa hồn tồn qua lăng kính chủ
quan của thi nhân. Còn trong tùy bút, chất liệu để làm nền cho mạch xúc
cảm cần có độ tươi nguyên của hiện thực. Tùy bút đa phần sử dụng lớp
nghĩa tường minh của ngôn từ, trong khi thơ văn xuôi lại phát huy tối đa
những nét nghĩa hàm ẩn. Suy đến cùng, phân biệt tùy bút với thơ văn xuôi
chính là phân biệt giữa một thể văn xuôi giàu chất thơ với một thể thơ có
hình thức biểu hiện gần như văn xuôi.
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TÙY BÚT VIỆT NAM
TỪ 1930 ĐẾN 1975
2.1. Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học Việt Nam
trước 1930
2.1.1. Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học trung đại
Có thể khẳng định ngay rằng trên phương diện lý thuyết, chưa có
sự tồn tại của thể loại tùy bút với đầy đủ những nét đặc trưng nghệ thuật
như ngày nay, trong văn xuôi Việt Nam thời trung đại. Bởi hồn cảnh lịch
sử và cơ sở tâm lý xã hội lúc bấy giờ ưu tiên hơn cho loại văn chương phi
ngã. Cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ phát huy nhiều hơn ở bình diện
nghệ thuật thể hiện, còn nội dung tư tưởng, cảm xúc thì phần lớn phải
phục tùng những quy phạm của lễ giáo phong kiến. Văn chương đáng thờ
trước hết là phương tiện để tải đạo, nghĩa là nhằm phụng sự cho việc duy
trì những chuẩn mực đạo đức bất di bất dịch. Mặc dù đã thấy xuất hiện
những tác phẩm mang đặc điểm của tùy bút càng lúc càng rõ nét, nhất là ở
giai đoạn cuối, khi nhu cầu khẳng định ý thức cá nhân được làn gió Tây
13
học thổi bùng lên, nhưng trong suốt mười thế kỷ văn chương trung đại
Việt Nam, tùy bút vẫn còn ẩn mình trong ký chứ chưa tồn tại như một thể
loại riêng biệt. Dù sao, những biểu hiện đó cũng là tiền đề cần thiết cho sự
hình thành và phát triển của thể loại này ở thời kỳ hiện đại.
2.1.2. Sự hình thành thể loại tùy bút trong văn học từ 1900 đến 1930
Tính đến năm 1930, tùy bút vẫn chưa xuất hiện trong nền văn học
Việt Nam với tư cách một thể loại riêng biệt. Ở chặng đầu của quá trình
hiện đại hóa, hầu hết các thể loại đều có sự cách tân mạnh mẽ cả về nội
dung tư tưởng và hình thức thể hiện. Nhu cầu về một thể loại văn xuôi
thực sự tự do, vừa có thể diễn tả được mọi trạng thái tình cảm phong phú
đến phức tạp của con người thời hiện đại vừa thể hiện cá tính sáng tạo độc
đáo của người nghệ sĩ - mỗi lúc một rõ nét. Tính chất ghi chép, biên khảo
trong các tác phẩm văn xuôi mờ nhạt dần và chất trữ tình ngày càng đậm
đà hơn. Đó chính là những tiền đề xã hội, tiền đề văn học hết sức cần thiết
cho sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của thể loại tùy bút ở những giai đoạn
tiếp theo.
2.2. Những chặng đường phát triển của thể loại tùy bút trong
văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975
2.2.1. Từ 1930 đến 1945
Tính đến 1945, nền văn học Việt Nam đã cơ bản hồn tất quá trình
thai nghén và sinh thành thể loại tùy bút. Chỉ trong vòng 15 năm mà tiến
trình hiện đại hóa đã sải những bước dài. Cùng với thơ mới, truyện ngắn,
phóng sự, tiểu thuyết, tùy bút là thể loại có đóng góp đáng kể để làm nên
một thời đại văn chương rực rỡ. Những sáng tác tùy bút ở thời kỳ này đã
góp phần khẳng định vị trí quan trọng của cái tôi cá nhân trong đời sống
tinh thần con người Việt Nam thời hiện đại. Hai ngòi bút chủ lực ở giai
đoạn này là Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Ngồi ra, còn phải kể đến Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Lư Khê, Đinh Gia Trinh…Tuy viết
không nhiều nhưng đóng góp của họ đối với sự phát triển của thể loại tùy
bút ở thời kỳ đầu là thực sự có ý nghĩa. Qua các tác phẩm tiêu biểu (Tùy
bút I, Chiếc lư đồng mắt cua, Hà Nội băm sáu phố phường, Phấn thông
vàng, Trường ca, Vàng sao, Chơi giữa mùa trăng, Phút thốt trần, Hồi
vọng của lý trí), những nét cơ bản của diện mạo thể loại tùy bút hiện đại
đã định hình.
2.2.2. Từ 1945 đến 1975
14
Giai đoạn 1945 - 1975 đã ghi nhận bước phát triển đáng kể của
thể loại tùy bút. Đề tài sáng tác phong phú, bút pháp đa dạng và đội ngũ
sáng tác đông đảo hơn. Hiện thực khốc liệt của 30 năm chiến tranh vệ
quốc lại chính là hồn cảnh để nảy sinh, thử thách và khẳng định biết bao
giá trị có ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong các mối quan hệ xã hội (giữa cá
nhân với cộng đồng, giữa dân tộc với thời đại, giữa chính nghĩa với phi
nghĩa). Chính cái thế giới tâm hồn mênh mông thẳm sâu của con người
Việt Nam trong thử thách hiểm nghèo của lịch sử là mảnh đất màu mỡ, là
nguồn chất liệu thích hợp để hình thành nên những trang tùy bút mang âm
hưởng một thời đại bi hùng.
Cũng không khó khăn gì để nhận ra những điểm hạn chế, trong tình
hình chung của văn chương thời chiến: giọng điệu tùy bút đôi khi đơn
điệu, công thức, mòn sáo; chí thì cao, tình thì nặng, nhưng chưa có nhiều
sáng tạo, cách tân trong bút pháp thể hiện. Tùy bút thích hợp với kiểu độc
tấu tự do, phóng túng, trong khi văn học thời kỳ chiến tranh lại là bản hợp
xướng một bè đậm chất sử thi, nhằm thể hiện tư tưởng và tình cảm của
tồn thể dân tộc. Trong một giai đoạn văn học mà mọi nghĩ suy và hành
động con người đều phải hướng tới việc phụng sự tốt nhất cho cái Ta
cộng đồng thì phương thức biểu hiện của tùy bút chắc chắn ít nhiều có bị
ảnh hưởng.
* Nhìn chung, mặc dù mãi đến thập niên 30 của thế kỷ XX tùy bút mới
thực sự hiện diện với tư cách một thể loại văn xuôi hiện đại, rồi từng bước
khẳng định sự góp mặt xứng đáng bằng nhiều tên tuổi lớn, nhiều tác phẩm
có giá trị, nhưng trước đó, trong các tác phẩm ký trung đại, đã xuất hiện
ngày càng rõ những nét diện mạo cơ bản của nó. So với các thể loại khác,
đội ngũ sáng tác và thành tựu của tùy bút còn khá khiêm tốn. Nhưng rõ
ràng, nó đã có một quá trình hình thành và phát triển theo đúng quy luật
kế thừa - cách tân, có chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cả văn học phương Đông
và phương Tây. Trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại,
ở mỗi giai đoạn thường có một vài thể loại nổi trội lên, để ưu tiên đáp ứng
yêu cầu và tính chất của hồn cảnh lịch sử. Với tùy bút, tình hình có vẻ hơi
khác: một cách lặng lẽ, vừa xông xáo vừa điềm tĩnh, nó thích nghi được
cả trong thời chiến lẫn thời bình, cả sử thi hồnh tráng lẫn thế sự đời
thường. Đặc biệt, tùy bút luôn tỏ rõ ưu thế khi diễn tả quan hệ của con
người với thiên nhiên và tôn vinh các giá trị văn hóa dân tộc.
2.3. Những tác gia và tác phẩm tiêu biểu trong
văn học Việt Nam từ 1930 đến 1975
15
Ở phần này, chúng tôi lần lượt trình bày những tác gia, tác phẩm
tiêu biểu, góp phần làm nên thành tựu của thể loại tùy bút Việt Nam từ
1930 đến 1975. Với vai trò và vị trí đặc biệt, tác gia Nguyễn Tuân được
ưu tiên hơn cả, Năm tác gia còn lại được điểm sơ lược về quá trình sáng
tác và những nét chính phong cách nghệ thuật. Trong khi khảo sát những
tác phẩm cụ thể, Luận án tập trung phân tích, chứng minh để làm nổi bật
cái hay, cái đẹp về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện.
Các vấn đề được xếp theo trình tự thời gian để đảm bảo tính khách
quan khoa học và tránh phải làm công việc phân định thứ bậc một cách
không cần thiết. Số lượng tác gia, tác phẩm được chọn để giới thiệu có
thể nhiều hơn, nhưng quan điểm của chúng tôi là cần dành ưu tiên cho
những đóng góp nổi bật. Phần còn lại sẽ được điểm qua trong Danh mục
các tác phẩm tùy bút từ 1930 đến 1975, ở phụ lục của Luận án.
2.3.1. Nguyễn Tuân – người viết tùy bút số một
2.3.2. Thạch Lam với Hà Nội băm sáu phố phường
2.3.3. Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai
2.3.4. Bình Nguyên Lộc với Những bước lang thang trên hè phố
của gã Bình Nguyên Lộc
2.3.5. Nguyễn Trung Thành với Đường chúng ta đi
2.3.6. Nguyễn Thi với Dòng kinh quê hương
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM CỦA TÙY BÚT VIỆT NAM TỪ 1930 ĐẾN 1975
3.1. Văn hóa dân tộc và hiện thực chiến tranh - hai mảng đề tài chính
3.1.1. Tùy bút là một thể loại văn xuôi giàu chất trữ tình, lấy cảm hứng
làm nội dung chính cho tác phẩm. Nó tiếp cận hiện thực đời sống trong
khuynh hướng lý tưởng hóa, luôn đề cao những chuẩn mực của cái Đẹp
và cái Cao cả. Vì thế, các tác gia tùy bút thường quan tâm đến văn hóa
dân tộc với những giá trị vừa ổn định vừa biến thiên theo từng bước
thăng trầm của lịch sử. Văn hóa dân tộc là di sản vô cùng quý báu, nhưng
nó có thể bị xuống cấp hoặc mai một đi, nhất là trong bối cảnh xã hội có
tính chất giao thời. Làm sao đảm bảo được tương quan hợp lý giữa truyền
thống với hiện đại, giữa kế thừa với cách tân trong quá trình giữ gìn và
phát huy vốn văn hóa dân tộc, tránh những biểu hiện lai căng, xu thời,
16
mất gốc - đó chính là nỗi băn khoăn, trăn trở thường trực trong các tác
phẩm tùy bút giai đoạn 1930 - 1975.
3.1.2. Hiện thực 30 năm chiến tranh vệ quốc bi hùng cũng là một mảng
đề tài lớn của tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975. Không chú tâm vẽ
những bức hồnh tráng về các chiến dịch, về những trận đánh hoặc khắc
họa chân dung những người anh hùng hiên ngang trên chiến trận, tùy bút
về mảng đề tài này ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực tâm
hồn của con người Việt Nam trong giai đoạn lịch sử đau thương mà vô
cùng anh dũng. Trong bản hợp xướng bi hùng của văn chương thời chiến
tranh, tùy bút là dấu lặng, nốt trầm, không sôi nổi vút lên mà điềm tĩnh
lắng sâu để gợi nhiều hơn tả, nghĩ nhiều hơn kể và cảm nhiều hơn nhận
biết. Do vậy, nó góp phần quan trọng để làm cân bằng và đa dạng hơn
phương thức phản ánh cuộc sống của cả nền văn học.
3.2. Sự đa dạng của cảm hứng
Cảm hứng đóng vai trò quyết định trong tùy bút - một thể loại văn
xuôi đậm đà chất trữ tình và giàu chất thơ. Những thiên tùy bút đặc sắc
bao giờ cũng được viết ra bằng cảm hứng mãnh liệt và chân thành.
Không có cảm hứng hoặc cảm hứng giả, gượng, thì không thể có tùy bút
hay. Tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 thấm nhuần nhiều dạng thức
cảm hứng khác nhau, trong đó nổi bật lên các dạng chính sau đây: cảm
hứng dân tộc - lịch sử, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng anh hùng và cảm
hứng trữ tình.
3.2.1. Cảm hứng dân tộc – lịch sử
Cảm hứng dân tộc - lịch sử là dạng cảm hứng nổi trội, làm nên giá
trị nội dung đặc sắc của tùy bút Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975. Mối
quan hồi thường trực về những vấn đề dân tộc, trong các tương quan lịch
đại, đồng đại vốn có của nó vừa là thước đo lương tâm, trách nhiệm của
người nghệ sĩ vừa là một chỉ số giá trị tư tưởng đầy ý nghĩa của tác phẩm
tùy bút. Cảm hứng dân tộc - lịch sử có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết
những bình diện giá trị của tác phẩm tùy bút, nhưng rõ nét hơn cả là đối
với nghệ thuật khắc họa hình tượng không gian và thời gian. Kiểu không
gian nghệ thuật đặc trưng của tùy bút thời kỳ chiến tranh là không gian sử
thi hồnh tráng, dữ dội, có sức mời gọi, giục giã mọi người dấn thân để
phụng sự cho lý tưởng giải phóng dân tộc. Một kiểu không gian nghệ
thuật khác cũng thường gặp trong các tác phẩm tùy bút là không gian hồi
niệm đậm đà màu sắc văn hóa. Trong tùy bút Việt Nam từ 1930 đến
17
1975, thời gian được cảm nhận trong tương quan với những chặng
đường và những biến cố của lịch sử.
3.2.2. Cảm hứng lãng mạn
Cảm hứng lãng mạn hiện diện thường trực trong hầu hết các tác
phẩm tùy bút từ 1930 đến 1975, góp phần làm nên một nét tư tưởng nghệ
thuật đặc thù. Nó nâng đỡ và thanh lọc tâm hồn, tiếp thêm nghị lực và
củng cố niềm tin, giúp con người Việt Nam vượt qua những thử thách
khắc nghiệt của lịch sử. Trước hết, cảm hứng lãng mạn được biểu hiện
qua cách nghĩ có hậu về cuộc đời (tùy bút không có cốt truyện nên không
có kiểu kết thúc có hậu). Kiểu bút pháp thích hợp để cụ thể hóa cảm hứng
lãng mạn qua những hình tượng nghệ thuật sinh động là bút pháp thi vị
hóa, biểu hiện ở khuynh hướng cường điệu, phóng đại nhằm tạo nên ấn
tượng sâu đậm về những điều lớn lao, cao cả hoặc những trạng thái cảm
xúc mãnh liệt, những khát vọng cháy bỏng. Cảm hứng lãng mạn còn
được tô đậm bằng việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật tương phản, đối lập
để làm nổi bật lên những vẻ đẹp phi thường.
3.2.3. Cảm hứng anh hùng
Đây cũng là một trong những dạng thức cảm hứng lớn của tùy bút
Việt Nam từ 1930 đến 1975. Biểu hiện của cảm hứng anh hùng là khẳng
định và ngợi ca, còn đối tượng của nó là những chiến công lớn lao và
những con người đã góp phần làm nên chiến công ấy. Cảm hứng anh
hùng chủ yếu hiện diện trong các tác phẩm tùy bút thời kỳ 1945 - 1975,
được biểu hiện cụ thể qua việc tập trung khẳng định ý nghĩa nhân văn cao
cả của hai cuộc chiến tranh vệ quốc và ngợi ca vẻ đẹp diệu kỳ của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng. Trong giai đoạn đất nước bị ngoại xâm, cảm
hứng anh hùng thường mang màu sắc sử thi (Khái niệm sử thi ở đây được
hiểu theo nghĩa khuynh hướng sử thi, tầm khái quát sử thi chứ không phải
quy mô sử thi). Cảm hứng anh hùng góp phần quan trọng làm nên âm
hưởng sử thi ở các tác phẩm tùy bút, truyền đến cho người đọc niềm tự
hào mãnh liệt về truyền thống vẻ vang của dân tộc, về tư thế hào hùng
của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3.2.4. Cảm hứng trữ tình
Cảm hứng trữ tình nhuần thấm trong những cung bậc xúc cảm của
người nghệ sĩ về cái đẹp - cái đẹp của tự nhiên, nghệ thuật và trong cuộc
sống con người. Qua các tác phẩm tùy bút, những xúc cảm thẩm mỹ được
bộc lộ một cách trực tiếp, làm nên cái mạch trữ tình dạt dào, đằm thắm về
18
Tổ quốc, dân tộc và thời đại. Trữ tình trong tùy bút không dừng lại ở cảm
nhận bề ngồi hoặc những cảm xúc nhất thời, bao giờ nhà văn cũng có
khuynh hướng vươn tới những nhận thức sâu sắc và những tình cảm đẹp,
mang ý nghĩa nhân đạo, nhân văn cao cả. Thương cảm là một biến thể,
một dạng thức tồn tại của cảm hứng trữ tình, nó “mang khuynh hướng tư
tưởng khẳng định”. Thương cảm hồn tồn khác với những biểu hiện ủy mị,
sướt mướt theo kiểu cải lương nên không làm con người trở nên nhu
nhược, yếu hèn đi mà trái lại, nó giúp cho đời sống tinh thần được cân
bằng, phong phú và nhân hậu hơn
* Ngồi các dạng thức cảm hứng tiêu biểu nêu trên, chúng ta còn có thể
nhận ra trong tùy bút Việt Nam từ 1930 đến 1975 những dạng khác như
cảm hứng châm biếm, cảm hứng phê phán, cảm hứng bi,... Cần lưu ý
thêm rằng, không phải chỉ có duy nhất một dạng cảm hứng tồn tại trong
mỗi tác phẩm mà luôn có sự đan xen, hòa hợp giữa các dạng cảm hứng
với nhau.
3.3. Dung hợp cả hai loại nhân vật: nhân vật trữ tình
và nhân vật tự sự - trữ tình
Tính chất trung gian, lưỡng hợp giữa tự sự với trữ tình đã tạo nên
nét đặc thù về phương diện nhân vật ở thể loại tùy bút. Trong tùy bút Việt
Nam 1930 – 1975, ngồi nhân vật trữ tình, còn xuất hiện thêm một loại
nhân vật đặc biệt nữa: nhân vật tự sự - trữ tình. Đó là loại nhân vật trung
gian, tuy được khắc họa bằng bút pháp tự sự nhưng lại nhằm phục vụ cho
mục đích trữ tình.
3.3.1. Có thể bắt gặp phổ biến nhất là loại nhân vật trữ tình, bởi cái mạch
cảm xúc chính trong tùy bút luôn là trữ tình, là tự thuật tâm trạng. Tồn bộ
thế giới tinh thần và đời sống tình cảm của người nghệ sĩ đều được giãi
bày thông qua nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình là một thực thể vừa
mang dấu ấn sáng tạo của cá nhân vừa chịu sự tác động của hồn cảnh lịch
sử - xã hội cụ thể. Mặc dù đôi khi có đề cập đến chuyện thế sự nhưng thay
vì mở rộng tầm nhìn ra cõi nhân sinh rộng lớn, người viết tùy bút có
khuynh hướng lắng sâu vào cõi lòng để tự phát hiện, phân tích, đánh giá.
3.3.2. Loại nhân vật tự sự - trữ tình tuy xuất hiện không phổ biến nhưng
cũng góp phần làm nên diện mạo riêng của tùy bút. Trong khi ưu tiên bộc
lộ mạch cảm xúc và quan điểm của cái tôi chủ quan, người viết tùy bút
thường có khuynh hướng lướt qua những cảnh đời, những số phận khác.
Đôi khi đối tượng trữ tình lại chính là những con người hoặc những sự
19
vật, hiện tượng cụ thể trong hiện thực. Để tán thành hay phản đối, ngợi ca
hay phê phán, trước tiên nhà văn phải làm công việc giới thiệu, miêu tả tỉ
mỉ. Chân dung trữ tình trong trường hợp đó cũng thật sống động, với đầy
đủ những nét ngoại hình, tính cách, diễn biến tâm lý, ngôn ngữ, hành
vi,… như trong các tác phẩm tự sự. Nhưng ở đây, nhân vật không tồn tại
như một thực thể khách quan mà đóng vai trò là cái phần tập trung nhất,
điển hình nhất của hiện thực được tái hiện lại để nhà văn gửi gắm quan
điểm tư tưởng và tâm tư, tình cảm chủ quan của mình.
3.4. Một phức hợp giọng điệu
Có thể khảo sát tính chất phức hợp của giọng điệu tùy bút Việt Nam
từ 1930 đến 1975 qua hai phương diện: sự phong phú, đa dạng của nhiều
kiểu, nhiều cung bậc giọng điệu tùy bút trong nền văn học và sự đan xen,
hòa âm của những sắc điệu khác nhau trong cùng một tác phẩm tùy bút.
3.4.1. Sự phong phú về giọng điệu
Tùy bút thường mang giọng kể chậm, trầm buồn, như những trường
đoạn trầm tư trữ tình có nhiều dấu lặng. Nhịp thời gian, do vậy, cũng
khoan thai, dìu dặt thích hợp cho sự giãi bày, tâm tình chứ không dồn
dập, gấp rút cuốn theo cốt truyện. Đó là nhịp điệu tự nhiên, như dạo chơi,
ngân ra từ sâu thẳm tâm hồn con người. Tuy đội ngũ sáng tác tùy bút giai
đoạn 1930 - 1975 không thật đông đảo, nhưng trong âm hưởng chung của
cả nền văn học vẫn có thể thấy nổi trội lên những giọng điệu tùy bút
riêng, độc đáo. Đó là giọng tài hoa, uyên bác, nhuốm chút ngông nghênh,
kiêu bạc của Nguyễn Tuân; giọng điềm đạm, thâm trầm, lịch lãm của
Thạch Lam; giọng lãng mạn, tình tứ của Xuân Diệu; giọng trầm tư, suy
nghiệm của Chế Lan Viên; giọng da diết, khắc khoải của Vũ Bằng; giọng
đôn hậu, hóm hỉnh của Bình Nguyên Lộc, giọng trữ tình-chính luận chắc
khỏe, vừa dạt dào cảm xúc vừa trĩu nặng ưu tư của Nguyễn Trung Thành;
giọng tâm tình nhỏ nhẹ, hiền lành mà rất đỗi cương quyết, dứt khốt của
Nguyễn Thi; giọng sử thi mạnh mẽ, quyết liệt của Khánh Vân; giọng bình
dị, ngọt ngào, sâu nghĩa nặng tình của Đặng Văn Nhưng, v.v…
3.4.2. Tính phức hợp trong giọng điệu
Tính phức hợp trong giọng điệu đã góp phần làm nên những trang
tùy bút đặc sắc, có sức sống lâu bền. Trong tùy bút giai đoạn 1930 –
1975, luôn có sự đan xen, hòa hợp của nhiều sắc thái giọng điệu khác
20
nhau như giọng anh hùng ca, giọng trầm tư - suy tưởng, giọng kể chuyện,
giọng tâm tình, giọng châm biếm, v.v… Tính chất phức điệu ấy không
chỉ có ở phong cách riêng của mỗi nhà văn mà còn được thể hiện qua
từng tác phẩm, từng mảng sáng tác cụ thể.
3.5. Kết cấu tự do theo mạch cảm xúc
Kết cấu là một trong những phương diện thể hiện rõ tính chất tự do,
linh hoạt của thể loại tùy bút. Không có khuôn mẫu hay chuẩn mực nào
cả, mỗi tác phẩm tùy bút mang một kiểu kết cấu riêng, phù hợp với mạch
cảm xúc chủ đạo và yêu cầu bộc lộ tư tưởng của người nghệ sĩ.
3.5.1. Kết cấu tự do
Tùy bút thường bắt đầu bằng việc nhắc lại một kỷ niệm, kể lại một
câu chuyện, tường thuật lại một sự việc hoặc nhớ lại một trạng huống
cảm xúc từng trải nghiệm; từ đó gợi lên những liên tưởng, tưởng tượng,
rồi bàn rộng thêm ra về cái Đẹp, về nhân tình, về những giá trị văn hóa,
về dân tộc và thời đại. Cũng có khi mạch cảm xúc được khơi nguồn từ
những sự việc hiện tượng đang diễn ra, rồi quay ngược về quá khứ hoặc
liên tưởng tạt ngang một cách đầy ngẫu hứng và bất ngờ để khám phá
mọi chiều kích, mọi tầng bậc của vấn đề. Kiểu mở đầu bằng một tình
huống có vấn đề cũng được các nhà văn sử dụng khá phổ biến.
3.5.2. Mạch tự sự - trữ tình linh hoạt
Mạch trữ tình trong tùy bút được triển khai theo kiểu quy nạp: bắt
đầu bằng những cảm xúc, ấn tượng, liên tưởng, tưởng tượng cụ thể và
chấm dứt bằng những nhận xét, đề xuất, cảm nhận đậm màu sắc chủ
quan. Phần kết thúc của các sáng tác tùy bút tuy giàu sức khái quát nhưng
hình như nhà văn không nhằm mục đích khẳng định một tư tưởng hay đặt
ra một vấn đề to tát nào. Đó là cái dư ba còn lắng lại, đọng lại tất yếu, tự
nhiên sau những cao trào cảm xúc và suy tưởng nên không hề gượng gạo
hoặc có tính chất áp đặt mà luôn mang đến cảm giác nhẹ nhõm, nhân hậu,
tin yêu vào con người và cuộc sống, vào sự bất tử của cái đẹp, cái cao cả.
3.6. Vẻ đẹp. tính sáng tạo và đầy chất thơ của ngôn từ
Vẻ đẹp ngôn từ trong tùy bút được kết tinh từ tài năng, tâm huyết
và sức sáng tạo không ngừng của người nghệ sĩ. Nó vừa là yêu cầu cốt tử
của đặc trưng thể loại vừa là yếu tố quan trọng góp phần hình thành nên
21
những phong cách tùy bút độc đáo. Sức hấp dẫn của các tác phẩm tùy bút
không chỉ tốt ra từ cái mạch tự sự - trữ tình dào dạt, đắm say mà còn
được thể hiện qua một cách viết đẹp, mang đậm màu sắc văn hóa.
3.6.1. Vẻ đẹp của từ ngữ
Vẻ đẹp của từ ngữ được sử dụng trong tùy bút biểu hiện trước hết ở
sự phong phú, linh hoạt và giàu sức gợi hình, gợi cảm. Do sự chi phối của
đặc điểm loại hình (loại tự sự - trữ tình) nên trong các tác phẩm tùy bút
thường có hai lớp từ chủ yếu: lớp từ để miêu tả, thuật sự và lớp từ để trực
tiếp bộc lộ tư tưởng, cảm xúc. Mức độ hòa hợp và tỉ lệ giữa hai lớp từ này
cũng là yếu tố góp phần làm nên nét độc đáo ở mỗi tác giả, tác phẩm. Sự
kết hợp giữa hai lớp từ mang sắc thái biểu đạt khác nhau trong tùy bút
thường không ổn định mà chỉ có ý nghĩa tương đối, định tính, tùy thuộc
vào nhiều yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan, như phong cách, bút pháp,
đề tài, chủ đề, hồn cảnh sáng tác (Trong tùy bút Nguyễn Tuân, lớp từ thứ
nhất được sử dụng ở tần số cao hơn nên mang nhiều yếu tố truyện và đậm
tính chất ký. Ở tùy bút Thạch Lam, lớp từ có liên quan đến những trạng
thái suy tư, những cung bậc tình cảm chiếm ưu thế; theo đó, chất trữ tình
đậm đà hơn).
3.6.2. Cách sử dụng từ ngữ đầy sáng tạo
Một đặc điểm nổi bật của tùy bút Việt Nam giai đoạn 1930 - 1975
là ngôn ngữ mang đậm dấu ấn sáng tạo của mỗi nhà văn. Đây vừa là
phẩm chất nghệ thuật vừa là yêu cầu cốt tử đối với thể loại tùy bút, bởi
tùy bút là vương quốc của cái tôi, ở đó đòi hỏi nhà văn phải bộc lộ năng
lực sáng tạo của riêng mình. Từ ngữ không chỉ là phương tiện, công cụ
mà đã tồn tại như một đối tượng thẩm mỹ, mang vẻ đẹp “linh diệu. Suy
đến cùng, sự sáng tạo ngôn ngữ trong tùy bút là kết quả tất yếu từ tài năng
và công phu trau dồi, rèn luyện đến mức “khổ hạnh” của người nghệ sĩ.
Sự sáng tạo ở bình diện ngôn ngữ trong các tác phẩm tùy bút được bộc lộ
cụ thể qua việc tạo ra từ ngữ mới và khám phá thêm nét nghĩa mới cho
những từ ngữ đã sử dụng quen thuộc. Có những từ tưởng như đơn nghĩa
hoặc cũ mòn nhưng qua bút pháp tinh xảo, điệu nghệ của nhà văn, chợt
trở nên tươi mới, “đầy sinh sắc”.
3.6.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ
Trong tùy bút, chất thơ tồn tại như một đặc điểm có tính loại hình,
xuyên thấm vào mọi bình diện của tác phẩm, đặc biệt là ở cách thức sử
dụng ngôn ngữ. Điều đặc biệt là hình ảnh trong tùy bút thường mang
22
cùng một lúc hai lớp nghĩa: nghĩa biểu vật (biểu niệm) và nghĩa biểu cảm,
nên nó có khả năng thuyết phục, hấp dẫn cả trí tuệ lẫn tâm hồn độc giả.
Nhịp điệu cũng là một dấu hiệu hình thức quan trọng của chất thơ trong
tùy bút. Nhịp điệu được tạo ra chủ yếu từ cách ngắt nhịp, gieo vần và
phối âm, phối thanh. Nhưng nhịp điệu không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa
như kỹ thuật, kỹ xảo, nó còn bắt nguồn sâu xa từ vẻ đẹp tâm hồn và đời
sống tình cảm chân thành, thiết tha của người nghệ sĩ đối với cuộc sống.
KẾT LUẬN
1. Tùy bút là một thể loại văn xuôi góp phần quan trọng làm nên sự
phong phú, đa dạng của văn học Việt Nam hiện đại. Với những nét độc
đáo về loại hình và đặc trưng nghệ thuật, tùy bút tồn tại như một đối
tượng thẩm mỹ vừa lung linh kỳ ảo vừa gần gũi, gợi cảm, luôn có sức hấp
dẫn và mời gọi sự khám phá, đồng sáng tạo. Là một thể loại văn xuôi
phái sinh từ ký, tùy bút đã dần dần tách hẳn ra thành một thể loại độc lập,
mang những đặc điểm riêng biệt. Trong tùy bút, cái tôi cá nhân độc đáo
của người nghệ sĩ vừa là yêu cầu tiên quyết vừa là phẩm chất nghệ thuật
mang tính đặc thù. Yếu tố trữ tình chiếm ưu thế, tạo thành mạch chủ đạo,
ưu trội. Sự kết hợp giữa tự sự với trữ tình hồn tồn không đơn thuần là vấn
đề kỹ thuật và không tuân theo một nguyên tắc có tính định lượng nào.
Nó là một thuộc tính có nguồn gốc từ trong cảm hứng và tư tưởng nghệ
thuật, như quy luật tự nhiên của sự sáng tạo. Do vậy, về phương diện loại
hình, xếp tùy bút vào loại tự sự - trữ tình là thỏa đáng hơn cả. Tính chất
trung gian, lai ghép có ảnh hưởng quyết định đến hầu hết những bình
diện nội dung và nghệ thuật của tùy bút, tạo nên nét riêng mang tính khu
biệt, giúp phân định ranh giới giữa nó với các thể loại văn xuôi nghệ
thuật khác.
Căn cứ vào đặc trưng loại hình của thể loại, có thể khảo sát tùy bút
theo ba nhóm lớn: nhóm tùy bút tự sự, nhóm tùy bút trữ tình và nhóm tùy
bút tự sự - trữ tình. Ở cấp độ tiếp theo, dựa vào những tiêu chí cụ thể
(tiêu chí đề tài, tiêu chí cảm hứng, tiêu chí dung lượng…), có thể chia
mỗi nhóm thành các dạng tùy bút khác nhau.
2. So với các thể loại khác, tùy bút xuất hiện muộn hơn. Trong suốt
mười thế kỷ văn chương trung đại Việt Nam, mặc dù đã thấy ngày càng
rõ nét những tiền đề từ thực tiễn sáng tác (yếu tố trữ tình; cái tôi tài hoa
tài tử, giàu xúc cảm; bút pháp linh hoạt, phóng túng…) nhưng tùy bút vẫn
23
chưa xuất hiện và tồn tại với đầy đủ những đặc điểm như quan niệm ngày
nay. Mãi đến đầu thế kỷ XX, thể loại tùy bút mới dần được hình thành
trong quá trình tương tác thể loại, góp phần đề cao cái tôi cá nhân với đời
sống tình cảm muôn màu muôn vẻ, vượt thốt khỏi những ràng buộc của
thi pháp trung đại. Như vậy, có thể khẳng định tùy bút là một trong những
thành tựu đáng kể về phương diện thể loại của quá trình hiện đại hóa văn
học Việt Nam. Đặc biệt, trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1975, tùy bút
đã có bước phát triển rực rỡ, lên đến đỉnh cao, có thể sánh ngang hàng
với các thể loại văn chương khác.
3. Đề tài của các sáng tác tùy bút thời kỳ này thật phong phú, đa dạng,
bao gồm cả những vấn đề lớn lao, có tầm vóc sử thi và những vấn đề
riêng tư, cá nhân. Tùy bút vừa có thể tái hiện lại một cách chân thực, sinh
động hồn cảnh lịch sử - xã hội vừa giãi bày thấu đáo những suy nghiệm
sâu sắc và diễn tả tài tình những rung động chân thành trong tâm hồn con
người. Nhân vật trữ tình hiện diện thường trực, giữ vai trò chính trong
việc bày tỏ tư tưởng nghệ thuật và cảm xúc chủ đạo. Đôi khi, chân dung
nhân vật trữ tình lại được khắc họa bằng bút pháp tự sự (có ngoại hình,
tính cách, ngôn ngữ). Kiểu nhân vật tự sự - trữ tình đã góp phần làm nên
nét độc đáo cho tùy bút - một thể loại không thuần chủng. Các dạng thức
cảm hứng nổi bật hơn cả trong tùy bút giai đoạn 1930 - 1975 là cảm hứng
dân tộc - lịch sử, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng anh hùng và cảm hứng
trữ tình. Tùy bút không dung hợp được sự bốc đồng, cực đoan hoặc cao
hứng thái quá, nên nó thường có giọng trầm lắng, trĩu nặng ưu tư, bồi hồi
cảm xúc. Âm hưởng của tùy bút, vì thế, ít vang xa mà vọng sâu, có khả
năng khơi gợi những tình cảm đẹp đẽ và đánh thức những rung động tinh
tế trong tâm hồn con người. Lời văn tùy bút giàu vẻ đẹp, giàu chất thơ và
in rõ dấu ấn cá tính sáng tạo của mỗi nghệ sĩ.
4. Tùy bút là thể loại rất kén tác giả. Sáng tác tùy bút là chấp nhận
đương đầu với thử thách, với sự chọn lọc nghiệt ngã của nghề nghiệp, nên
rất hiếm người gắn bó dài lâu với nó. Sẽ không có tùy bút hay nếu nhà
văn chưa đạt đến độ căng tràn về vốn sống, thăng hoa về trí tuệ và chân
thành, tha thiết đến hồn nhiên trong cảm xúc. Tùy bút như một thứ đặc sản
quý hiếm trong nền văn học, là lõi trầm kết tụ tự nhiên, không sản xuất
đại trà được. Đội ngũ sáng tác tùy bút tuy không đông về số lượng nhưng
gồm những nhà văn có tay nghề vững vàng, có năng lực sáng tạo ngôn
ngữ, có cá tính, tư tưởng và phong cách nghệ thuật độc đáo. Trong số đó,
với sự nghiệp sáng tác đồ sộ, Nguyễn Tuân hồn tồn xứng đáng ở ngôi vị
hàng đầu. Ông là người khai sinh và góp công sức lớn nhất vào quá trình
24
phát triển của thể loại tùy bút trong văn học hiện đại: “Qua hơn 50 năm
viết không nghỉ, Nguyễn Tuân là một trong mấy nhà văn lớn mở đường
và đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX” (Nguyễn Đình Thi). Với
ông, tùy bút đã đạt đến một đỉnh cao rất khó vượt qua, cả về giá trị nội
dung tư tưởng lẫn khả năng sáng tạo về hình thức nghệ thuật. Tiếp theo,
chúng ta có thể kể ra nhiều tên tuổi lớn với những tác phẩm tiêu biểu, mỗi
người một vẻ riêng, đã góp phần làm rạng rỡ diện mạo và phong phú
thêm hương sắc cho tùy bút giai đoạn 1930 - 1975: Thạch Lam với Hà
Nội băm sáu phố phường, Lư Khê với Phút thốt trần, Xuân Diệu với
Phấn thông vàng, Trường ca, Chế Lan Viên với Vàng sao, Hàn Mặc Tử
với Chơi giữa mùa trăng, Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai, Bình
Nguyên Lộc với Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình
Nguyên Lộc, Nguyễn Trung Thành với Đường chúng ta đi, Nguyễn Thi
với Dòng kinh quê hương,…
Từ sau 1975, tùy bút tiếp tục có thêm những thành tựu mới. Hiện
thực cuộc sống bề bộn, phức tạp thời bao cấp, thời đổi mới và thời cơ chế
thị trường đã có tác động mạnh mẽ, gây nên sự xáo trộn, thay đổi trong
nhận thức và tình cảm của con người Việt Nam. Niềm vui nhiều thêm,
hạnh phúc nhiều hơn, nhưng nỗi buồn thương còn đó với bao lo toan đeo
đẳng từng ngày. Giữa bối cảnh lịch sử - xã hội đầy biến động ấy, tùy bút
và các biến thể của nó (tạp văn, tạp bút, đoản khúc...) là phương tiện nghệ
thuật hết sức cần thiết để góp phần sẻ chia, cảm thông, an ủi và nâng đỡ,
cân bằng, thanh lọc tâm hồn con người.
Quá trình hình thành và phát triển của thể loại tùy bút trong văn học
thế kỷ XX là một hiện tượng mang tính quy luật, thể hiện sự kết hợp hài
hòa giữa dân tộc với hiện đại, giữa truyền thống với cách tân, giữa
phương Đông với phương Tây trong ý thức sáng tạo của con người Việt
Nam. Tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam vốn giàu chất nữ tính nên
các thể loại trữ tình (hoặc có màu sắc trữ tình) thường chiếm ưu thế hơn
khi cần giãi bày những suy tư và cảm xúc muôn màu muôn vẻ. Đó chính
là một nguyên nhân, là cơ sở đảm bảo cho viễn tượng sáng sủa của thể
loại tùy bút trong tương lai./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG TIỂU THUYẾT TỪ 1986 –TRẦN VĂN MINH 2000.pdf