Tài liệu Tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng tại Việt Nam: chương III
Tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng tại việt nam
3.1 Các tiêu chuẩn để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ.
Trên thực tế không có những tiêu chuẩn tuyệt đối quyết định việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ, nhưng cũng có thể kể ra một số nhân tố mà hầu hết các doanh nghiệp khi thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ đều cần phải tính tới.
Các tiêu chuẩn để thiết lập
bộ phận kiểm toán nội bộ
Quy mô doanh nghiệp
Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp
Mức độ phân cấp quản lý trong đơn vị
Năng lực, trình độ của nhân viên
Các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp
Các tiêu chuẩn khác
Quy mô của doanh nghiệp.
Quy mô, tầm vóc của doanh nghiệp là một tiêu chuẩn tiên quyết cho mục đích thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít khi có bộ phận kiểm toán nội bộ. Các doanh nghiệp lớn thường lập ra bộ phận kiểm toán nội bộ để giải quyết một số vấn đề phát sinh do quy mô của mình. Quy mô doanh nghiệp có thể được đo lường theo chỉ tiêu...
57 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1094 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng tại Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chương III
Tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng tại việt nam
3.1 Các tiêu chuẩn để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ.
Trên thực tế không có những tiêu chuẩn tuyệt đối quyết định việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ, nhưng cũng có thể kể ra một số nhân tố mà hầu hết các doanh nghiệp khi thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ đều cần phải tính tới.
Các tiêu chuẩn để thiết lập
bộ phận kiểm toán nội bộ
Quy mô doanh nghiệp
Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp
Mức độ phân cấp quản lý trong đơn vị
Năng lực, trình độ của nhân viên
Các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp
Các tiêu chuẩn khác
Quy mô của doanh nghiệp.
Quy mô, tầm vóc của doanh nghiệp là một tiêu chuẩn tiên quyết cho mục đích thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ. ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít khi có bộ phận kiểm toán nội bộ. Các doanh nghiệp lớn thường lập ra bộ phận kiểm toán nội bộ để giải quyết một số vấn đề phát sinh do quy mô của mình. Quy mô doanh nghiệp có thể được đo lường theo chỉ tiêu doanh thu, tổng sản lượng hay tổng số công nhân viên. Thường người ta hay lấy theo tiêu thức cuối cùng là số lượng công nhân viên. ở Pháp, mức độ trung bình là một kiểm toán viên nội bộ cho 1000 công nhân viên. Tiêu chuẩn theo nhân sự này chỉ ra rằng, không hẳn chỉ có sự phức tạp của những vấn đề kỹ thuật, tài chính hay thương mại quyết định cho sự tồn tại của đội ngũ kiểm toán viên nội bộ, mà vấn đề quan trọng hơn hết là khoảng cách giữa Ban giám đốc và các cấp thi hành công việc trong doanh nghiệp. Khoảng cách này có thể dẫn đến sự biến dạng của những thông tin phản hồi về Ban giám đốc hay sự hiểu sai các quyết định của Ban giám đốc. Bằng việc kiểm tra, giải thích các thông tin này của hệ thống kiểm toán nội bộ sẽ làm giảm bớt hiện tượng phân tán vốn và sai lệch thông tin không thể tránh khỏi trong các doanh nghiệp lớn.
Phạm vi hoạt động hay sự phân tán về địa lý.
Độc lập với quy mô của doanh nghiệp, việc phân tán theo địa lý của các bộ phận, đơn vị cũng là một tiêu chuẩn chủ yếu cho việc tổ chức kiểm toán nội bộ, nếu xét theo khía cạnh chất lượng thông tin. Nhiều doanh nghiệp có thể có các đơn vị trực thuộc, phụ thuộc ở các địa điểm khác nhau. Do sự cách xa về địa lý nên ở các đơn vị trực thuộc cấp dưới có thể gặp khó khăn trong việc nắm bắt được các thông tin chính xác, ngược lại, ở các đơn vị cấp trên không phải bao giờ cũng nhận được các thông tin cần cho hoạt động từ các đơn vị dưới quyền. Các kiểm toán viên nội bộ góp phần giải quyết các vấn đề do việc phân tán về mặt địa lý này và việc phải đi công tác thường xuyên là một trong những đặc điểm công việc của kiểm toán viên.
Trong thực tế, các chuyên gia trên thế giới về kiểm toán nội bộ cho rằng các doanh nghiệp đường sắt có thể là các doanh nghiệp đầu tiên ghi nhận sự cần thiết của hoạt động kiểm toán nội bộ. Do bản chất kinh doanh vận tải hành khách và hàng hoá rất phân tán, lẻ tẻ nên họ chấp nhận kiểm toán nội bộ như một trong những phương tiện cơ bản để kiểm tra các hoạt động riêng lẻ rộng lớn của mình. Tương tự như vậy, hoạt động kiểm toán nội bộ đã xâm nhập vào các doanh nghiệp kinh doanh điện, ga và khí đốt, các tập đoàn xăng dầu vốn có phạm vi hoạt động rất lớn.
Mức độ phân cấp quản lý trong đơn vị.
Trong các doanh nghiệp mà quyền quyết định được uỷ quyền hoặc giao cho từng trung tâm thực hiện thì việc phân quyền, phân cấp quản lý chỉ có thể thực hiện được khi có các mục tiêu, thủ tục và hệ thống hành chính là đủ rõ và khi một số biện pháp kiểm tra sau đó được tiến hành (nhất là kiểm tra trên kết quả và hiệu năng). Các rủi ro, sai sót thông tin quản lý có thể tồn tại ở 3 mức:
Rủi ro trong việc hiểu sai các mục tiêu, nội dung của các chính sách quản lý do các bộ phận thực hiện. Việc tuân thủ các mục tiêu này là điều kiện đảm bảo cho sự thành công của cơ cấu phân quyền, phân cấp trong quản lý thông qua hệ thống hành chính thường trực.
Rủi ro về độ trung thực của các thông tin cung cấp từ các bộ phận, chẳng hạn như việc cố gắng cải thiện một cách giả tạo các chỉ số đánh giá hiệu năng.
Rủi ro trong việc không tuân thủ các chính sách, các quy chế quản lý quy định cho các bộ phận thực hiện.
Như vậy kiểm toán nội bộ là cần thiết để đảm bảo rằng các chính sách quản lý được tuân thủ trong tất cả các phòng, ban và các đơn vị trực thuộc.
Năng lực, trình độ của nhân viên.
Ngay cả khi những doanh nghiệp lớn, phân tán về mặt địa lý và chính sách quản lý là phân quyền thì tất cả các thông tin đều có thể tin cậy nếu như có một đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, năng lực cao và đồng nhất, cũng như khả năng thích ứng cao. Tuy nhiên, trong thực tế không phải bao giờ doanh nghiệp cũng có đội ngũ cán bộ hội đủ những điều kiện cần thiết. Đặc biệt, trình độ năng lực là thoả đáng tại một thời điểm nào đó, có thể không còn phù hợp với những đòi hỏi mới phát sinh từ sự phát triển của doanh nghiệp. Kiểm toán viên nội bộ có thể hạn chế các rủi ro, sai sót do trình độ kém của nhân viên bằng cách mở ra những khoá đào tạo về mục tiêu, các thủ tục cần tuân thủ và bằng cách trình bày giải thích cho các nhân viên về những sai sót đã phát hiện ra.
Các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Các rủi ro, sai sót về thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu tồn tại ở những doanh nghiệp có nhiều lĩnh vực hoạt động. Trên thực tế, vì muốn có các thủ tục đồng nhất cho tất cả các lĩnh vực hoạt động, nên các thông tin nhận được có thể không phản ánh trung thực tình hình trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Các sai sót này chủ yếu là các thông tin liên quan đến chu trình sản xuất, kinh doanh và việc xác định các chuẩn mực (định tính và định lượng). Kiểm toán viên nội bộ có thể nêu lên việc đưa ra các thủ tục cung cấp thông tin riêng cho từng lĩnh vực hoạt động.
Các tiêu chuẩn khác.
Cần thấy rằng, ngoài các tiêu chuẩn hợp lý nói trên, việc thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong thực tế còn có các lý do và nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp. Vì muốn đề cao uy tín của doanh nghiệp đôi khi dẫn đến việc gán chức danh kiểm toán viên nội bộ cho người chỉ làm chức năng kiểm soát hành chính cụ thể. Trong một số trường hợp, bộ phận kiểm toán nội bộ được sử dụng như một nơi dừng chân tạm bợ của cán bộ trước khi chuyển đi nơi khác. Đáng lẽ, bộ phận kiểm toán nội bộ phải do một nhân viên cao cấp phụ trách, nhưng nhiều khi chỉ là nơi trú chân tạm bợ của cán bộ lãnh đạo trước khi phụ trách một bộ phận chức năng quan trọng khác của doanh nghiệp.
Tóm lại, các tiêu chuẩn trên đây là những tiêu chuẩn cơ bản cho việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp, song sự thành công trong việc tổ chức và hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ phụ thuộc rất lớn vào việc liệu các nhà quản lý có thấy được tầm quan trọng thực sự của nó hay không. Quy mô hoạt động và sự phức tạp của công tác quản lý trong mỗi doanh nghiệp sẽ dẫn tới vai trò của kiểm toán nội bộ càng quan trọng hơn.
Qua những tiêu chuẩn trên, và dựa vào tình hình thực tế tại các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng tại Việt Nam, ta nhận thấy việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ là cần thiết đối với các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng lớn có nhiều doanh nghiệp thành viên trực thuộc. Còn đối với những doanh nghiệp nhà nước về xây dựng vừa và nhỏ, ban lãnh đạo có thể bao quát, quản lý được tình hình tài chính và hoạt động của doanh nghiệp thì không cần thiết phải có bộ phận kiểm toán nội bộ.
3.2 Các nguyên tắc về tổ chức bộ máy tổ chức và cơ chế hoạt động của kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp xây dựng
Tổ chức kiểm toán nội bộ phải tuân thủ các nguyên tắc chung về lý thuyết tổ chức kiểm toán nội bộ, đó là các nguyên tắc về tính khoa học, tính nghệ thuật, tính phù hợp với quy mô của doanh nghiệp và nguyên tắc tập trung dân chủ. Bên cạnh đó do tích chất của riêng của doanh nghiệp xây dựng nên tổ chức kiểm toán nội bộ phải tuân theo các nguyên tắc cụ thể sau:
Các nguyên tắc tổ chức bộ máy tổ chức của
kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước
Tuân
thủ
pháp
luật
Hoạt
động
độc
lập
Phù hợp với
đặc điểm tổ
chức và hoạt
động đơn vị
Hiệu quả
trong
tổ chức
hoạt động
3.2.1 Nguyên tắc tuân thủ pháp luật.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong nền kinh tế quốc dân đều phải tuân theo pháp luật và chịu sự chi phối của luật pháp. Chính vì thế mà trong việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp xây dựng nhất quyết phải tuân theo luật pháp không chỉ với lý do trên mà còn do đặc thù của sản phẩm ngành xây dựng thường có quá trình sản xuất lâu dài, quy mô, giá trị lớn và ảnh hưởng nhiều đến các ngành khác, mặt khác các doanh nghiệp xây dựng lớn thường là doanh nghiệp nhà nước nên càng phải thực hiện nguyên tắc này một cách toàn diện hơn.
Để thực hiện được nguyên tắc này, kiểm toán nội bộ tại một doanh nghiệp nhà nước về xây dựng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Hoạt động của kiểm toán nội bộ phải tuân thủ tuyệt đối hiến pháp, pháp luật của nhà nước với tính chất là một đơn vị cơ sở chịu sự kiểm tra thường xuyên liên tục của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Chẳng hạn như các kiểm toán viên nội bộ của doanh nghiệp phải đáp ứng các tiêu chuẩn quy định trong Quy chế 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997.
Trong trường hợp hoạt động của kiểm toán nội bộ phát hiện ra các sai phạm trọng yếu có liên quan tới lợi ích quốc gia thì phải báo ngay cho cơ quan luật pháp có thẩm quyền để ngăn ngừa và xử lý những sai phạm đó.
Do tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng là kinh doanh mặt hàng có giá trị và khối lượng lớn và có sử dụng nguồn vốn của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước về xây dựng lại là đơn vị trực thuộc Bộ Xây dựng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ và thực thi các chính sách của Nhà nước, là công cụ điều tiết kinh tế của Nhà nước nên mọi hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước về xây dựng phải tuân thủ theo hiến pháp và pháp luật hiện hành, cũng như việc chấp hành các chính sách của Nhà nước về kế hoạch được giao và các hoạt động chung khác. Kiểm toán nội bộ là một bộ phận trong doanh nghiệp cho nên mọi hoạt động của bộ phận này cũng phải tuân thủ các nguyên tắc chung đó, hơn nữa, kiểm toán nội bộ còn có một vai trò quan trọng hơn đó là giúp Ban Giám đốc trong việc quản trị doanh nghiệp đồng thời là cánh tay giám sát mọi hoạt động của doanh nghiệp với Bộ chủ quản.
3.2.2 Nguyên tắc hoạt động độc lập.
Đây là nguyên tắc cơ bản và phải có đối với bất kỳ một hệ thống kiểm toán nội bộ nào để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả và phát huy hết tác dụng của hệ thống kiểm toán nội bộ. Theo đó, các kiểm toán viên nội bộ phải độc lập với các hoạt động hay bộ phận mà họ kiểm toán và phải thực hiện công việc của mình một cách khách quan.
Bộ phận kiểm toán nội bộ phải có một mô hình tổ chức phù hợp để cho phép họ tiến hành kiểm toán mọi hoạt động một cách có hiệu quả và báo cáo kết quả kiểm toán một cách khách quan. Người phụ trách kiểm toán nội bộ phải được sự hỗ trợ cụ thể với chức năng của kiểm toán nội bộ. Tính độc lập còn là cơ sở pháp lý để sau này kiểm toán Nhà nước hoặc kiểm toán độc lập quyết định sử dụng kết quả của kiểm toán nội bộ.
Vai trò của người phụ trách kiểm toán viên nội bộ có một ý nghĩa rất to lớn, vì vậy họ phải có một địa vị và quyền hạn tương xứng để chứng tỏ sự hỗ trợ và cam kết của cấp lãnh đạo cao nhất đảm bảo cho hoạt động của kiểm toán nội bộ độc lập. Có hai khía cạnh chính đối với tính độc lập của kiểm toán nội bộ ở trong Doanh nghiệp là:
Thứ nhất: Kiểm toán nội bộ không có một quyền lực hoặc bất cứ một trách nhiệm nào đối với các hoạt động mà nó sẽ kiểm toán. Kiểm toán nội bộ không được giao bất cứ nhiệm vụ nào trái ngược với các trách nhiệm của mình mà có thể ảnh hưởng tới tính khách quan của nó hoặc tạo ra một sự định kiến không tốt đối với các hoạt động được kiểm toán.
Thứ hai: Kiểm toán nội bộ không bị ảnh hưởng bởi các áp lực về mặt tổ chức mà có thể:
Làm hạn chế sự lựa chọn các lĩnh vực quan trọng cho việc kiểm toán hoặc giới hạn phạm vi của các cuộc kiểm toán đó.
Cản trở việc sử dụng các hồ sơ, các thông tin quan trọng và tiếp xúc với các nhân viên trong đơn vị.
Làm hạn chế khả năng lập báo cáo hoặc báo cáo trực tiếp với cấp lãnh đạo cao hơn và người phụ trách kiểm toán nội bộ.
Không khuyến khích việc liên lạc và cản trở việc tiếp xúc với người phụ trách kiểm toán nội bộ và cấp lãnh đạo cao hơn.
Các hoạt động kiểm toán nội bộ thông thường phải được thực hiện hoặc được chỉ đạo bởi một bộ phận duy nhất trong đơn vị với lý do điều này sẽ đem lại một khả năng lớn hơn cho sự độc lập. Điều đó giúp cho các kiểm toán viên duy trì được các kỹ năng chuyên môn cần thiết; việc tập hợp các phát hiện kiểm toán để đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với đơn vị cơ sở trên quy mô rộng và việc phối hợp trên nhằm trách sự trùng lặp và sao chép các hoạt động kiểm tra.
Bộ phận kiểm toán nội bộ khi thành lập sẽ phải tuân thủ nguyên tắc độc lập một cách cao nhất, phải tách biệt với bộ phận kế toán và không có mối ràng buộc về hoạt động với bộ phận kế toán trong doanh nghiệp, có quyền kiểm toán cao nhất đối với các đơn vị thành viên.
Đó là một số khía cạnh đề cập trên tính độc lập của kiểm toán nội bộ và ảnh hưởng của nó tới hệ thống kiểm toán nội bộ trong việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp. Muốn kiểm toán nội bộ hoạt động thực sự hoạt động có hiệu quả thì nguyên tắc này nhất định phải được tuân thủ.
3.2.3 Nguyên tắc phù hợp với đặc điểm tổ chức và hoạt động của đơn vị.
Kiểm toán nội bộ được coi như một dịch vụ, được thực hiện cho hoạt động quản lý của đơn vị. Bộ phận kiểm toán nội bộ phải phân công công việc một cách tập thể hoặc riêng cho từng nhân viên có kiến thức kĩ năng và kinh nghiệm cần thiết để thực hiện các trách nhiệm được giao một cách có hiệu quả.
Chất lượng thực hiện của hoạt động kiểm toán nội bộ có liên quan trực tiếp đến chất lượng của phương hướng, trình độ và trách nhiệm của những người được phân công thực hiện kiểm toán. Bộ phận kiểm toán nội bộ phải có được các kỹ năng kiểm toán và kiến thức chuyên môn cho việc hoàn thành các nhiệm vụ kiểm toán được giao. Một vấn đề quan trọng mà kiểm toán nội bộ đang phải đối mặt là khả năng nâng cao kỹ năng nguồn lực của mình để theo kịp sự thay đổi nói trên và để đem lại một sự đóng góp tích cực và nhiều hơn cho đơn vị. Do cần phải sử dụng hàng loạt các kỹ năng của chức năng kiểm toán nội bộ hiện đại và do thiếu các tiêu chuẩn cụ thể và các kỹ thuật kiểm toán nên rất khó đưa ra một kết luận về sự thành thạo chuyên môn của các nhân viên nếu chỉ thông qua việc xem xét các dữ liệu về nhân viên. Chính vì lẽ đó, kinh nghiệm làm việc là một nhân tố quan trọng trong việc lựa chọn đội ngũ kiểm toán viên trong việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại đây.
Nguyên tắc phù hợp với đặc điểm tổ chức của việc tổ chức kiểm toán nội bộ còn thể hiện ở việc tuyển chọn số lượng nhân viên kiểm toán nội bộ. Đây là vấn đề quan trọng trong việc xây dựng kiểm toán nội bộ, đề cập về vấn đề này không chỉ liên quan đến đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp mà còn liên quan đến quy mô và tính chất hoạt động của doanh nghiệp. Một số lượng nhân viên kiểm toán nội bộ như thế nào được coi là thích hợp và mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động kiểm toán nội bộ? Số lượng phải đủ để thực hiện khối lượng công việc kiểm toán, trình độ của các ứng viên được lựa chọn như thế nào, điều này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ quản lý và tổ chức của Ban giám đốc. Bất kỳ một yếu tố nào trong các yếu tố trên bị xem nhẹ hoặc không được thực hiện một cách đúng mức đều được xem là có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ.
Về vấn đề này trong thực tế tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng thì điều quan trọng là việc tính toán số lượng kiểm toán viên nội bộ bao nhiêu cho hợp lý, đồng thời với tính chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tính chất phân tán về địa lý của các đơn vị thành viên đòi hỏi hệ thống kiểm toán nội bộ phải được phân quyền đúng mức gắn với trách nhiệm về công việc thực hiện và công việc được giao.
3.2.4 Nguyên tắc hiệu quả trong tổ chức hoạt động kiểm toán nội bộ.
Bất cứ một hệ thống nào được xây dựng đều nhằm hướng tới một mục đích cụ thể. Trong kiểm toán, mục đích đặt ra là tính hiệu quả trong công tác tham vấn giúp các nhà lãnh đạo quản trị doanh nghiệp. Mất đi nguyên tắc này thì hệ thống được xây dựng không những không đạt được mục đích đề ra mà còn gây ra sự lãng phí trong kinh phí hoạt động cũng như nhân sự tổ chức.
Bàn về vấn đề này trong việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại Doanh nghiệp nhà nước về xây dựng thì nó còn liên quan mắt xích tới nhiều vấn đề khác như: nhân sự tổ chức kiểm toán nội bộ, trình độ của các nhân viên kiểm toán nội bộ.... tất cả đều có một mối liên hệ mật thiết và quyết định lẫn nhau, không một yếu tố nào được coi nhẹ và không một yếu tố nào được bỏ qua. Với một nguồn lực xác định và yêu cầu đặt ra là kiểm toán nội bộ phải đem lại một chất lượng hoạt động cao nhất. Vấn đề này đặt ra cho kiểm toán nội bộ khi lập kế hoạch phải chọn được những điểm xung yếu nhất, những chỗ dễ có sai phạm nhất, lựa chọn phương pháp kiểm toán phù hợp với đỗi tượng kiểm toán đồng thời với chi phí hoạt động nhỏ nhất.
Nhìn chung, hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động được coi là có hiệu quả nhất khi với một đội ngũ kiểm toán viên hợp lý, công việc kiểm toán được thực hiện đầy đủ và mang lại cái nhìn khách quan đúng đắn về thực trạng hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và với chi phí kiểm toán là thấp nhất. Đây là mục tiêu mà bộ phận kiểm toán nội bộ phải hướng tới trong quá trình hoạt động cũng như khi xây dựng.
Đó là một số nguyên tắc cần phải tính đến trong quá trình tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng, bất kỳ một nguyên tắc nào bị xem nhẹ hoặc không đạt được trong quá trình xây dựng bộ phận kiểm toán nội bộ đều được xem là sự thất bại của việc xây dựng này. Bên cạnh đó, do tính chất doanh nghiệp là một doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động theo sự chỉ đạo của Nhà nước mà trực tiếp là Bộ xây dựng chủ quản cho nên trong việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng phải tuân thủ thêm cả nguyên tắc về tính tập trung dân chủ gắn với tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân được giao nhiệm vụ.
3.3 Tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng Việt Nam.
Từ lý thuyết về tổ chức kiểm toán nội bộ đã nghiên cứu ở trên và từ thực tế hoạt động, tổ chức và đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước về xây dựng cũng như việc cần thiết và cấp bách của việc thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp, trên những cơ sở thực tiễn và lý luận, có thể tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng theo hướng sau:
3.3.1 Xây dựng mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ
Từ thực tế tìm hiểu đặc điểm tổ chức kiểm toán nội bộ tại một số doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, căn cứ vào các Quyết định, Thông tư của Nhà nước và các hướng dẫn thành lập bộ máy kiểm toán nội bộ, từ đặc điểm tổ chức hoạt động của doanh nghiệp nhà nước về xây dựng Việt Nam thường có nhiều thành viên hạch toán độc lập và cả thành viên hạch toán phụ thuộc, trên kinh nghiệm tổ chức kiểm toán nội bộ tại một số doanh nghiệp thì bộ máy kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng được xây dựng theo mô hình “Bộ máy kiểm toán nội bộ trực thuộc sự chỉ đạo của Ban Giám đốc”.
Theo mô hình này thì tại doanh nghiệp tổ chức phòng kiểm toán nội bộ. Phòng được tổ chức độc lập với các Phòng, Ban chức năng khác của Doanh nghiệp và chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Tổng Giám đốc. Phòng kiểm toán nội bộ doanh nghiệp sẽ hoạt động bao quát chung các hoạt động kiểm toán trong toàn doanh nghiệp. Điều này được thể hiện qua mô hình tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng như sau:
Mô hình III.1: Mô hình bộ máy kiểm toán nội bộ tại Doanh nghiệp nhà nước về xây dựng Việt Nam.
Quan hệ chỉ đạo
Quan hệ kiểm tra
Luồng thông tin phản hồi
Các Phòng (Ban) tại các đơn vị kinh tế cơ sở
Các Phòng (Ban) khác.
Bộ phận KTNB
Hội đồng Quản trị
( HĐQT )
Tổng Giám đốc
Tại các đơn vị thành viên không tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ.
Điều này được lý giải bởi doanh nghiệp nhà nước về xây dựng phần lớn gồm nhiều đơn vị thành viên hạch toán độc lập và hạch toán phụ thuộc, được phân cấp quản lý khác nhau, nhưng mỗi đơn vị có quy mô nhỏ, số vốn cũng như số lượng công nhân viên không nhiều, mỗi thành viên lại có xu hướng chuyên môn hóa hoặc một số lĩnh vực nhất định hoặc kinh doanh đơn giản không quá phức tạp, do đó nếu thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ ở các đơn vị thành viên thì công việc quá ít ỏi, sẽ gây lãng phí kinh phí hoạt động, mặt khác vấn đề nhân sự cho bộ máy này cũng không cho phép, bộ máy kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp sẽ đảm nhận công việc kiểm toán trên phạm vi toàn doanh nghiệp do tổng Giám đốc trực tiếp điều hành.
Bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ chức thành Phòng kiểm toán nội bộ đứng đầu là Trưởng phòng kiểm toán nội bộ do Tổng giám đốc bổ nhiệm, trưởng phòng cũng như các kiểm toán viên khác chỉ đảm nhận nhiệm vụ kiểm toán nội bộ, không kiêm nhiệm các công việc quản lý và điều hành khác trong Doanh nghiệp.
Tổ chức Phòng kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp xây dựng như sauKiểm toán viên nội bộ
Kiểm toán viên nội bộ
Kiểm toán viên nội bộ
Kiểm toán viên nội bộ
Trưởng Phòng KTNB.
Tổng Giám đốc
Trưởng phòng kiểm toán nội bộ chịu trách nhiệm quản lý chung các nhân viên kiểm toán nội bộ. Ngoài ra, để thực hiện tốt công tác kiểm toán thì bộ phận kiểm toán nội bộ có thể có các cộng tác viên là các chuyên gia, chuyên viên ở một số lĩnh vực cần thiết.
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại Doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
Trong tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ doanh nghiệp nhà nước về xây dựng thì công việc xây dựng này chính là thiết lập “phần cứng” cho hệ thống. Một “phần cứng” tốt là yếu tố cơ bản đầu tiên quyết định cho tính hiệu quả của hệ thống.
Điều kiện cần và đủ để đánh giá một hệ thống kiểm toán nội bộ của một doanh nghiệp là sự tồn tại và vận hành liên tục của cơ chế hoạt động của chính hệ thống đó.
Cơ chế hoạt động của kiểm toán nội bộ được xem xét với các nội dung sau:
Bộ máy kiểm toán nội bộ và các hình thức phân cấp hoạt động trong bộ máy kiểm toán nội bộ.
Trách nhiệm, quyền hạn của kiểm toán viên nội bộ.
Quan hệ kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác trong tổ chức.
Quan hệ của kiểm toán nội bộ với các nhà quản lý.
Quan hệ kiểm toán nội bộ với các kiểm toán viên bên ngoài.
Các yếu tố ảnh hưởng tới tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán nội bộ.
Theo mô hình kiểm toán nội bộ đã xây dựng ở trên thì bộ máy kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp nhà nước về xây dựng được tổ chức thành Phòng kiểm toán nội bộ trực thuộc Tổng Giám đốc Doanh nghiệp. Theo đó, bộ máy kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp gồm: trưởng phòng kiểm toán nội bộ, các kiểm toán viên nội bộ và các chuyên gia, chuyên viên ở một số lĩnh vực cụ thể cần thiết.
Bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và kinh doanh trong doanh nghiệp, đơn vị thành viên (kể cả ban, phòng tài chính kế toán); chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của Tổng Giám đốc.
Theo đề nghị của bộ phận kiểm toán nội bộ, Tổng giám đốc có thể cử chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác trong doanh nghiệp, các đơn vị thành viên hoặc thuê chuyên gia bên ngoài (nếu cần thiết) tham gia kiểm toán một số nội dung hoặc toàn bộ một cuộc kiểm toán.
Về cụ thể, tổ chức của bộ phận kiểm toán nội bộ doanh nghiệp nhà nước về xây dựng được mô tả như sau:
* Trưởng Phòng kiểm toán nội bộ.
Đứng đầu bộ phận kiểm toán nội bộ là Trưởng phòng kiểm toán nội bộ. Trưởng phòng kiểm toán nội bộ doanh nghiệp do Tổng Giám đốc doanh nghiệp bổ nhiệm. Trưởng Phòng kiểm toán nội bộ là người ký và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc và pháp luật về báo cáo kiểm toán nội bộ.
Trưởng phòng kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ và quyền hạn:
Chủ động xây dựng kế hoạch và lập chương trình kiểm toán nội bộ hàng năm.
Tổ chức các cuộc kiểm toán trong nội bộ doanh nghiệp, đơn vị thành viên theo nhiệm vụ kế hoạch và chương trình kiểm toán nội bộ đã được Tổng Giám đốc phê duyệt.
Quản lý, bố trí, phân công công việc cho các kiểm toán viên, cán bộ làm công tác kiểm toán nội bộ và thực hiện các biện pháp đào tạo, huấn luyện kiểm toán viên, cán bộ làm công tác kiểm toán nội bộ, đảm bảo không ngừng nâng cao trình độ và năng lực công tác của kiểm toán viên, cán bộ và bộ máy kiểm toán nội bộ.
Đề xuất với tổng Giám đốc về việc thực hiện các cuộc kiểm toán nội bộ ở các đơn vị thành viên hoặc các bộ phận khác trong doanh nghiệp khi cần thiết.
Đề nghị trưng tập các chuyên viên các bộ phận khác trong doanh nghiệp để thực hiện các cuộc kiểm toán nội bộ khi cần thiết.
Kiến nghị các thay đổi về chính sách, đường lối nhằm nâng cao hiệu quả trong quản lý và điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Khi phát hiện thấy có hiện tượng vi phạm pháp luật hoặc những quyết định trái với chủ trương, chính sách, chế độ quy định phải có trách nhiệm báo cáo các cấp có thẩm quyền để giải quyết kịp thời.
Sơ đồ minh hoạ nhiệm vụ và quyền hạn của Trưởng phòng KTNB
Nhiệm vụ và quyền hạn của
trưởng phòng kiểm toán nội bộ
Xây dựng kế hoạch, lập chương trình KTNB hàng năm
Tổ chức các cuộc KTNB theo chương trình đã được duyệt
Quản lý, phân công công việc, đào tạo huấn luyện kiểm toán viên
Đề xuất thực hiện KTNB tại doanh nghiệp khi cần thiết
Đề nghị trưng tập chuyên viên ở bộ phận khác khi cần thiết
Kiến nghị thay đổi chính sách, đường lối hoạt động
Báo cáo những hiện tượng vi phạm pháp luật hoặc quy chế của DN
Với tổ chức như trên, về cơ bản, bộ máy kiểm toán nội bộ đã có một cơ sở để hoạt động và một cơ cấu hợp lý, không quá lãng phí về nguồn lực và tiết kiệm được kinh phí hoạt động, đồng thời phù hợp với tính chất công việc thực tế tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
* Kiểm toán viên nội bộ.
Về tuyển chọn kiểm toán viên nội bộ:
Theo mô hình tổ chức, bộ phận kiểm toán nội bộ biên chế 5 thành viên trong đó gồm có một Trưởng Phòng kiểm toán nội bộ và 4 nhân viên. Việc tuyển chọn nhân sự cho bộ phận kiểm toán nội bộ là một vấn đề không nhỏ. Để giải quyết vấn đề này cần có một chính sách tuyển chọn hợp lý. Theo đó, việc tuyển chọn kiểm toán viên nội bộ cần thiết phải thực hiện tuyển chọn từ bên ngoài để tìm người có đủ trình độ, năng lực và đảm bảo tính khách quan đảm đương công việc này. Tuy nhiên do đặc tính của doanh nghiệp nhà nước về xây dựng là doanh nghiệp kinh doanh về xây dựng đòi hỏi chuyên môn về kỹ thuật cao, công việc kinh doanh có những điểm khác so với các lĩnh vực khác cho nên trong đội ngũ kiểm toán viên nội bộ nhất quyết phải có cán bộ công nhân viên đã từng công tác trong doanh nghiệp. Vị trí Trưởng Phòng kiểm toán nội bộ phải do cán bộ đang làm việc trong doanh nghiệp đảm nhiệm. Việc tuyển bên ngoài đối với các kiểm toán viên nội bộ có thể được tiến hành phổ thông thi tuyển dưới sự giúp đỡ của Kiểm toán Nhà nước và các chuyên gia của Bộ Tài chính. Đối với công tác tuyển chọn bên trong đơn vị có thể được thực hiện qua hình thức xét năng lực công tác, chuyên môn công tác và sự phù hợp của chuyên môn với bộ phận kiểm toán nội bộ, trong đó có kết hợp với việc thi tuyển như những người tuyển chọn bên ngoài có lược bớt một số phần thi không cần thiết.
Việc tuyển chọn kiểm toán viên nội bộ được minh hoạ theo sơ đồ sau:
Tuyển chọn kiểm toán viên nội bộ
Bên trong doanh nghiệp
Bên ngoài doanh nghiệp
Xét năng lực chuyên môn và sự phù hợp của chuyên môn với bộ phận KTNB
Thi tuyển
Thi tuyển với sự giúp đỡ của KTNN và các chuyên gia của Bộ Tài chính
Về tiêu chuẩn đối với các kiểm toán viên nội bộ:
Lựa chọn đội ngũ kiểm toán viên nội bộ có quan hệ mật thiết và tối quan trọng đối với hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ sau này. Một hệ thống kiểm toán nội bộ tốt phải xuất phát đầu tiên là một hệ thống kiểm toán viên nội bộ có đủ trình độ và năng lực kiểm toán, phải có đủ các tiêu chuẩn đặt ra về đạo đức nghề nghiệp cũng như về trình độ chuyên môn. Theo đó, những người được bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ làm kiểm toán viên nội bộ cần phải có đủ các tiêu chuẩn sau:
Có phẩm chất trung thực, khách quan, chưa có tiền án và chưa bị kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tài chính, kế toán.
Đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh.
Đối với việc tuyển chọn kiểm toán viên nội bộ từ bên trong đơn vị thì phải đảm bảo tiêu chí đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên, trong đó có ít nhất 3 năm làm việc tại Doanh nghiệp hoặc tại các đơn vị thành viên trực thuộc Doanh nghiệp.
Đã qua huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán nội bộ theo nội dung chương trình thống nhất của Bộ Tài chính và được cấp chứng chỉ.
Đối với tuyển chọn bên ngoài, phải đảm bảo người dự tuyển phải tốt nghiệp chuyên ngành kiểm toán hệ Đại học chính quy tập trung với học lực khá trở lên.
Với những tiêu thức trên trong việc tuyển chọn đội ngũ kiểm toán viên nội bộ sẽ đảm bảo được một đội ngũ kiểm toán viên nội bộ có đủ trình độ về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp để đảm đương các nhiệm vụ kiểm toán được giao. Đồng thời, tiêu thức đặt ra cũng là hợp lý với tình hình doanh nghiệp nhà nước về xây dựng hiện nay, vì việc tuyển chọn bao gồm cả tuyển chọn trong doanh nghiệp và cả bên ngoài doanh nghiệp. Bên trong doanh nghiệp hoàn toàn có các ứng viên đủ các tiêu chuẩn đề ra, đảm bảo được mục đích trong bộ máy kiểm toán nội bộ có cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Điều quan trọng ở đây là cần thiết Trưởng Phòng kiểm toán nội bộ phải là cán bộ có đạo đức, kinh nghiệm, năng lực và trình độ chuyên môn và hiện đang công tác tại doanh nghiệp.
Về trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ:
Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ phải thực sự đem lại lợi ích thiết thực, hoạt động của kiểm toán nội bộ phải hiệu quả và hiệu năng. Muốn vậy, trong bộ máy kiểm toán nội bộ cần thiết phải gắn trách nhiệm về quyền hạn của các kiểm toán viên nội bộ, có như thế mới đảm bảo được tính pháp lý cá nhân của các nghiệp vụ cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động chung của công việc kiểm toán. Theo đó, kiểm toán viên nội bộ có các trách nhiệm sau:
Kiểm toán viên nội bộ phải thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch kiểm toán đã được Tổng Giám đốc phê duyệt và chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc về chất lượng, về tính trung thực, hợp lý của báo cáo kiểm toán và về những thông tin tài chính, kế toán đã được kiểm toán.
Trong quá trình thực hiện công việc, kiểm toán viên nội bộ phải tuân thủ luật pháp, tuân thủ các nguyên tăc và chuẩn mực nghề nghiệp về kiểm toán, các chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước.
Kiểm toán viên nội bộ phải khách quan, đề cao tính độc lập trong hoạt động kiểm toán. Không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, cập nhật kiến thức, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp.
Tuân thủ nguyên tắc bảo mật các số liệu, tài liệu đã được kiểm toán (ngoại trừ các trường hợp khi có yêu cầu của tòa án, các cơ quan có thẩm quyền hoặc các nghĩa vụ liên quan đến tiêu chuẩn nghiệp vụ).
Về quyền hạn của kiểm toán viên nội bộ:
Do kiểm toán nội bộ là công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và nhiều nhân tố liên quan khác cho nên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán của mình, kiểm toán viên nội bộ cần phải có những quyền hạn để hoàn thành nhiệm vụ kiểm toán đề ra. Bên cạnh chính sách đãi ngộ hợp lý về vật chất và tinh thần, kiểm toán viên nội bộ cần có các quyền hạn sau để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán của mình một cách thuận lợi:
Được độc lập về chuyên môn nghiệp vụ. Không bị chi phối, không bị can thiệp khi thực hiện hoạt động kiểm toán và trình bày ý kiến của mình trong báo cáo kiểm toán.
Có quyền yêu cầu các bộ phận, cá nhân được kiểm toán và các bộ phận có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho công tác kiểm toán.
Được ký xác nhận trên báo cáo kiểm toán nội bộ do cá nhân tiến hành, hoặc chịu trách nhiệm thực hiện theo nhiệm vụ kiểm toán được giao.
Nêu các ý kiến đề xuất, các giải pháp, kiến nghị, các ý kiến tư vấn cho việc cải tiến, hoàn thiện công tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh; ngăn ngừa các sai sót, gian lận, các việc làm sai trái trong đơn vị.
Được bảo lưu ý kiến đã trình bày trong báo cáo kiểm toán nội bộ. Được quyền đề nghị các cơ quan cấp trên, các cơ quan chức năng của Nhà nước xem xét lại quyết định của Tổng Giám đốc về việc bãi nhiệm kiểm toán viên nội bộ.
Với các quyền hạn trên, kiểm toán viên nội bộ hoàn toàn có đủ mọi cơ sỏ pháp lý và các điều kiện để thực hiện công việc kiểm toán của mình một cách tốt nhất, đồng thời gắn với quyền lợi về kinh tế và vị trí của mình.
3.3.2 Hình thức phân cấp hoạt động và quy chế hoạt động cho bộ phận kiểm toán nội bộ
Một hệ thống chỉ vận hành khi có đủ các yếu tố về “phần cứng” và “phần mềm”. Đối với hệ thống kiểm toán nội bộ thì Quy chế hoạt động của bộ máy chính là yếu tố “phần mềm” vận hành cho “phần cứng” về tổ chức bộ máy đã được xác lập ở trên.
Phân cấp hoạt động cho bộ phận kiểm toán nội bộ.
Thông thường, bộ máy kiểm toán nội bộ hoạt động theo hai hình thức phân cấp chính:
Phân cấp theo quyền hạn
Phân cấp theo chức năng.
Bản chất phân cấp theo quyền hạn là các quyết định cá biệt hay những hành động cần thiết phải được đề ra ở cấp dưới và được duyệt y (bác bỏ) ở cấp trên. Các loại quyết định và hành động này thường liên quan đến các vấn đề như: bổ khuyết các trình tự kiểm toán, sự cần thiết báo cáo về các sai sót, hình thức xử lý và báo cáo về những phát hiện kiểm toán, kết thúc báo cáo, ký duyệt báo cáo và tiếp tục sửa chữa những sai sót đã báo cáo.
Hình thức phân cấp hoạt động theo chức năng thường được thực hiện khi có sự tham gia của các kiểm toán viên bên ngoài. Theo loại hình phân cấp trách nhiệm này, bộ phận kiểm toán nội bộ được chia thành nhiều nhóm theo các chức năng hoạt động khác nhau. Việc quản lý và điều phối hoạt động của các nhóm được thực hiện bởi một nhóm trung tâm do kiểm toán trưởng phụ trách.
Như vậy, đối với một bộ máy kiểm toán nội bộ mới thì doanh nghiệp nên chọn hình thức phân cấp theo quyền hạn, vì sẽ khai thác và phát huy được tính năng động, sáng tạo trong công việc của các kiểm toán viên nội bộ không chuyên nghiệp.
Quy chế hoạt động bộ máy kiểm toán nội bộ doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
Để kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả và đi vào nền nếp thì nhất thiết trong Quy chế hoạt động của kiểm toán nội bộ cần xác định: “Kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nhà nước về xây dựng là quá trình các kiểm toán viên nội bộ, các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin của một đơn vị cụ thể trong doanh nghiệp, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”.
Theo đó, quy chế kiểm toán nội bộ bao gồm những quy định chung có tính cơ sở như sau:
Số liệu, tài liệu kế toán, báo cáo tài chính của doanh nghiệp; các đơn vị thành viên hạch toán độc lập, các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc và các Ban quản lý dự án, các đơn vị sự nghiệp trực thuộc doanh nghiệp, các liên doanh góp vốn mà số vốn góp của doanh nghiệp chiếm trên 50% là căn cứ pháp lý để đánh giá tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; tình hình tuân thủ pháp luật, chế độ, chính sách và tình hình thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước của doanh nghiệp và các đơn vị.
Giám đốc các đơn vị thành viên chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc doanh nghiệp và trước pháp luật về tính đầy đủ, trung thực, hợp lý của các số liệu kế toán; các thông tin trong báo cáo tài chính và các thông tin khác đã báo cáo doanh nghiệp hoặc đã được công bố.
Doanh nghiệp tổ chức và duy trì hệ thống kiểm toán nội bộ để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán nội bộ chung tại doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
- Về thực hiện kiểm toán nội bộ: Doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp và tại các đơn vị thành viên hạch toán độc lập và các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc, các ban quản lý dự án, các đơn vị sự nghiệp trực thuộc nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của các thông tin kinh tế, kỹ thuật, tài chính; về bảo vệ an toàn tài sản của Doanh nghiệp; về chấp hành luật pháp, chính sách chế độ Nhà nước, cũng như các Nghị quyết, quyết định của doanh nghiệp. Việc thực hiện kiểm toán nội bộ thường xuyên này là nhân tố đảm bảo cho hệ thống kiểm toán nội bộ được lập ra có một ý nghĩa đích thực và nâng cao vai trò cũng như hiệu quả của bộ phận trong hoạt động của tổ chức.
Doanh nghiệp có thể tiến hành kiểm toán toàn diện hoặc một số nội dung, lĩnh vực tại các đơn vị thành viên, phục vụ cho yêu cầu quản lý chung của doanh nghiệp.
Thực hiện cuộc kiểm toán nội bộ phải hiện theo đúng tiến trình kế hoạch đã đề ra và dựa trên những chuẩn mực kiểm toán đã được xác lập với công việc đó.
- Kết thúc cuộc kiểm toán nội bộ: Kết thúc cuộc kiểm toán, kiểm toán nội bộ phải lập báo cáo kiểm toán, đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai phạm (nếu có). Báo cáo kiểm toán nội bộ được gửi cho Tổng Giám đốc.
Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp, của các đơn vị thành viên hạch toán độc lập phải có báo cáo kiểm toán nội bộ đính kèm.
Đó là một số quy định chung nhất thiết phải có trong quy chế hoạt động của kiểm toán nội bộ để kiểm toán nội bộ thực sự đi vào hoạt động có hiệu quả và đi vào nề nếp, thường xuyên, đóng vai trò là bộ phận tham vấn cho Tổng Giám đốc thực hiện các công tác quản lý.
3.3.3 Chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động và mối liên hệ trong hệ thống của kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng
3.3.3.1 Chức năng của bộ máy kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
Trên cơ sở tính chất và phạm vi công việc tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng, chức năng của kiểm toán nội bộ doanh nghiệp nhà nước về xây dựng sẽ bao gồm các chức năng sau:
Chức năng của bộ máy kiểm toán nội bộ
Kiểm
tra
Xác
nhận
Đánh
giá
Tham mưu
tư vấn
Kiểm tra: Kiểm tra tính tuân thủ của hệ thống quản lý đối với các chính sách, chế độ của Nhà nước, của doanh nghiệp và của các đơn vị thành viên.
Xác nhận: Xác nhận tính đúng đắn, trung thực và hợp lý cuả các số liệu, tài liệu kế toán, các báo cáo quyết toán và các tài liệu, báo cáo khác của doanh nghiệp và của các đơn vị thành viên.
Đánh giá: Trên cơ sở kết quả kiểm toán, đưa ra những kết luận, đánh giá việc tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và của các đơn vị thành viên
Tham mưu, tư vấn: Tham mưu, tư vấn cho Tổng Giám đốc, Giám đốc các đơn vị thành viên, các nhà quản lý về những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống quản lý kinh tế, tài chính, kỹ thuật và hệ thống kiểm soát nội bộ; khắc phục những tồn tại, yếu kém; ngăn ngừa các sai phạm, lệch lạc trong quản lý.
Đó là một số chức năng chính của hệ thống kiểm toán nội bộ, đây là những chức năng cơ bản, ngoài ra trong quá trình thực hiện, tùy theo từng điều kiện và những thay đổi mà có thể bổ sung và hoàn thiện thêm chức năng của bộ phận này. Các chức năng này được thiết lập phù hợp với đặc điểm của nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước về xây dựng, cũng như đặc điểm của bộ phận kiểm toán nội bộ là chức năng giám sát và bày tỏ ý kiến về công tác quản trị doanh nghiệp cùng với Ban giám đốc.
3.3.3.2 Quyền hạn của kiểm toán nội bộ
Yêu cầu về quyền hạn của bộ phận kiểm toán nội bộ phải phù hợp với địa vị của nó trong tổ chức để đảm bảo việc hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ được giao. Về vấn đề này có thể nêu những yếu tố về quyền hạn cần có sau:
Quyền hạn cơ bản của kiểm toán nội bộ
Có quyền hạn rộng rãi
Được thực hiện các cuộc kiểm toán phù hợp với chuẩn mực nghề nghiệp trong mọi trường hợp
Được sử dụng mọi hồ sơ, thông tin với đối tượng liên quan đến việc kiểm toán
Kiểm toán nội bộ phải được giao cho một quyền hạn rộng rãi để có thể kiểm toán toàn bộ các hoạt động của tổ chức.
Kiểm toán nội bộ được phép thực hiện các cuộc kiểm toán của mình phù hợp với các chuẩn mực nghề nghiệp trong mọi trường hợp.
Kiểm toán nội bộ được quyền sử dụng mọi hồ sơ, thông tin và gặp gỡ tiếp xúc với các đối tượng liên quan để thu thập bằng chứng, làm sáng tỏ các vấn đề trong khi thực hiện kiểm toán.
Đối với hệ thống kiểm toán nội bộ được xây dựng tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng Việt Nam, bên cạnh việc xây dựng quy chế về quyền hạn của bộ phận này tuân theo các yêu cầu chung nêu trên, có thể thêm một số quyền hạn sau để bộ phận này phát huy hết vai trò của mình trong công việc kiểm toán nội bộ, đó là:
Bộ phận kiểm toán nội bộ doanh nghiệp nhà nước về xây dựng được quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên để phục vụ cho công tác kiểm toán.
Được độc lập về chuyên môn nghiệp vụ. Trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu sự hỗ trợ về chuyên môn và nhân sự của các bộ phận chức năng khác.
Được kiến nghị mang tính chất xây dựng đối với các cấp lãnh đạo, các bộ phận trong Doanh nghiệp và các đơn vị thành viên nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh và công tác quản lý, điều hành của Doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Có quyền bảo lưu ý kiến có liên quan đến kết quả kiểm toán.
Với những quyền hạn nêu trên thì hệ thống kiểm toán nội bộ sẽ có đủ các điều kiện để thực hiện công việc kiểm toán nội bộ của mình, đồng thời trong quy chế về quyền hạn nêu trên cũng phần nào hạn chế sự hách dịch có thể có đối với bộ phận này, đó là việc giới hạn kiến nghị của kiểm toán nội bộ chỉ ở góc độ xây dựng, mọi quyết định vẫn là ở người lãnh đạo đơn vị. Trong tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng, cần thiết phải có đầy đủ những yếu tố trên trong Quy chế hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ.
3.3.3.3 Nhiệm vụ của bộ phận kiểm toán nội bộ.
Theo đặc điểm hoạt động sản xuất, kinh doanh và tính chất công việc kiểm toán cần thực hiện tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng, bộ máy kiểm toán nội bộ phải đảm bảo hoàn thành các nhiệm vụ sau:
Kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của báo cáo tài chính, báo cáo quản trị trước khi trình ký duyệt.
Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh, đặc biệt là sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán, chính sách, nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, Ban (Tổng) giám đốc ở doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Phát hiện những tồn tại, sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Tư vấn về công tác tài chính, kế toán; tham gia hướng dẫn về nghiệp vụ tài chính, kế toán.
Như vậy, với những nhiệm vụ trên đã đảm bảo cho hệ thống kiểm toán nội bộ thực hiện các công việc chuyên trách của mình một cách hợp lý và kịp thời, trước khi các báo cáo được trình ký, đồng thời nhiệm vụ cũng bao hàm cả các vấn đề về kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ. Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ đó nghĩa là hệ thống kiểm toán nội bộ đã hoàn thành toàn diện các mục tiêu đề ra đối với một hệ thống kiểm toán nội bộ. Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước về xây dựng hiện nay, các nhiệm vụ đặt ra như trên đối với bộ máy kiểm toán nội bộ là tương đối hoàn thiện nhưng cũng không ít nặng nề, đòi hỏi bộ máy kiểm toán nội bộ phải nỗ lực hết sức mới có thể hoàn thành các nhiệm vụ đề ra này. Trong quá trình phát triển, theo từng trường hợp phát triển và thay đổi cụ thể mà có thể bổ sung hoặc giảm bớt nhiệm vụ cho bộ phận này, hoàn thiện nhiệm vụ cho bộ phận này là một thuộc tính mở trong tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
3.3.3.4 Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ.
Để thực hiện chức năng chuyên trách của mình, hệ thống kiểm toán nội bộ đòi hỏi phải có một hành lang hoạt động, hay nói một cách khác đó chính là phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ.
Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ có liên quan đến chức năng và nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ, chúng là các mặt của một vấn đề, có quan hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ tương đối với nhau, bổ sung cho nhau, phát huy cho nhau và hoàn toàn không xung đột với nhau.
Kiểm toán nội bộ phải thực hiện công việc kiểm toán của mình trong phạm vi sau:
Kiểm toán các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của Doanh nghiệp.
Kiểm toán hoạt động.
Kiểm toán tuân thủ.
Với phạm vi hoạt động đó, kiểm toán nội bộ đã bao quát toàn bộ công việc kiểm toán của một hệ thống kiểm toán nội bộ, công việc đó không phải là ít. Với một đội ngũ kiểm toán viên như thiết lập thì bộ máy kiểm toán nội bộ chắc chắn sẽ phải cố gắng rất nhiều mới có thể hoàn thành được một khối lượng công việc như vây.
Đồng thời, để tạo tính mở trong hệ thống, có thể Quy chế kiểm toán nội bộ nên quy định thêm về việc doanh nghiệp và các đơn vị thành viên hạch toán độc lập có thể thuê các Doanh nghiệp kiểm toán độc lập của Việt Nam hoặc các Doanh nghiệp kiểm toán độc lập khác hoạt động hợp pháp tại Việt Nam thực hiện toàn bộ hay từng phần cuộc kiểm toán.
3.3.3.5 Xây dựng các mối liên hệ trong hệ thống kiểm toán nội bộ tại Doanh nghiệp nhà nước về xây dựng Việt Nam.
Yêu cầu đối với việc tổ chức hệ thống kiểm toán nội bộ không chỉ dừng lại ở xây dựng mô hình và quy chế hoạt động cho bộ phận mà còn phải xây dựng mối liên hệ trong hệ thống chung của toàn tổ chức. Mối quan hệ này có liên quan mật thiết tới môi trường hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ. Xây dựng mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống kiểm toán nội bộ và với các yếu tố xung quanh hệ thống là nhiệm vụ trong tổ chức kiểm toán nội bộ.
Các mối liên hệ giữa kiểm toán nội bộ và hệ thống chung
CáC MốI LIÊN Hệ TRONG hệ thống ktnb
Với các hoạt động khác trong tổ chức
Với các nhà quản lý
Mối quan hệ giữa nội kiểm và ngoại kiểm
* Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác trong tổ chức.
Một căn cứ quan trọng để hiểu về cơ chế hoạt động của kiểm toán nội bộ là xem xét mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác của tổ chức. Trước hết, công việc kiểm toán nội bộ phải tách ra khỏi các nghiệp vụ hàng ngày của tổ chức. Thực tế rõ ràng là nếu kiểm toán nội bộ ngừng hoạt động hay không có kiểm toán nội bộ thì công việc bình thường trong tổ chức vẫn được duy trì ổn định.
Mặt quan trọng thứ hai của mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác là: kiểm toán viên nội bộ là người có quyền hạn nhưng không lấn át trách nhiệm của người khác. Điều này thể hiện qua hai khía cạnh:
Một là: Kiểm toán viên nội bộ không chịu thay trách nhiệm cho các nhân viên điều hành. Các nhân viên điều hành vẫn chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực các nghiệp vụ của họ.
Hai là: Những phát hiện hay kiến nghị của kiểm toán nội bộ bao giờ cũng mang tính chất xây dựng hoặc mang tính chất thông tin hay tham vấn chứ kiểm toán viên nội bộ không dùng quyền hạn gì để chỉ huy một công việc nào đó. Chỉ huy công việc là nhiệm vụ của nhân viên điều hành, căn cứ vào sự đúng đắn và tính thuyết phục của thông tin hay kiến nghị của kiểm toán nội bộ đối với từng công việc mà nhà quản trị có thẩm quyền ra các quyết định của mình.
Điểm sau cùng là trong mối liên hệ giữa kiểm toán viên nội bộ và các hoạt động khác của tổ chức là tránh chồng chéo giữa vai trò của kiểm toán nội bộ với các công việc khác được thực hiện bởi các nhân viên chức năng.
Như vậy, trong thực hiện kiểm toán, bộ phận kiểm toán nội bộ bên cạnh việc thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn của mình còn phải đảm bảo một “hành lang quan hệ” đúng mức, không được lấn át sang trách nhiệm của bộ phận khác cũng như không có các hoạt động vượt quá thẩm quyền cho phép của mình, bảo đảm được điều này là một yếu tố quan trọng để khắc phục hiện tượng quan liêu, hách dịch vốn có của hệ thống kiểm toán nội bộ.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các nhà quản lý.
Hệ thống kiểm toán nội bộ được thiết lập để tăng cường quyền lực cho các nhà quản lý, phục vụ mục đích quản trị nội bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động của đơn vị mình. Theo quan hệ đó, các kiểm toán viên nội bộ chỉ độc lập tương đối với các nhà quản lý trong hoạt động chuyên môn của mình. Về phần mình, Ban Giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm đề ra các quy định, chính sách và thực hiện các biện pháp để đảm bảo rằng bộ máy kiểm toán nội bộ có những quyền hạn cần thiết; các nguồn nhân lực kiểm toán nội bộ được sử dụng một cách hiệu quả; các cuộc kiểm toán được tiến hành theo các chuẩn mực, quy tắc nghề nghiệp của kiểm toán nội bộ. Cụ thể, Phòng kiểm toán nội bộ chỉ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Giám đốc, hàng tháng Ban giám đốc và Trưởng Phòng kiểm toán nội bộ nên tổ chức cuộc họp nhằm:
Trao đổi về kế hoạch kiểm toán và những công việc kiểm toán đang được thực hiện. Kiểm toán viên nội bộ lập kế hoạch kiểm toán, kế hoạch này được Ban Giám đốc phê duyệt và thông qua trên những nét lớn. Từ chương trình này và những nhận xét của Ban Giám đốc, kiểm toán viên lập kế hoạch cho năm và cho quý. Trong cuộc họp, kế hoạch kiểm toán có thể được thông qua hoặc sẽ được bổ sung, sửa đổi. Kiểm toán viên sẽ trình bày một tài liệu tổng kết rõ ràng về cuộc kiểm toán đã được thực hiện hoặc về một kế hoạch kiểm toán đã được thông qua.
Trao đổi về kết quả của các cuộc kiểm toán đã làm cũng như tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động kiểm toán đó.
Những người thường có mặt trong buổi trình bày về báo cáo kiểm toán gồm:
+ Đại diện của Tổng Giám đốc;
+ Đại diện của các bộ phận hoạt động kinh doanh là đối tượng của kiểm toán nội bộ;
+ Kiểm toán viên nội bộ;
+ Tất cả những người khác được mời đến do những vấn đề riêng.
Kết thúc cuộc họp, kiểm toán viên phải lập một biên bản trong đó ít nhất phải nêu lên các kết luận cũng như các quyết định về báo cáo kiểm toán đã hoàn thiện.
Việc thiết lập mối quan hệ có tính chất thường xuyên và mang tính thủ tục như trên không những nâng cao vị trí của kiểm toán nội bộ mà còn phát huy tác dụng của hệ thống kiểm toán nội bộ. Thông qua đó, Ban Giám đốc nắm vững và kịp thời các thông tin về tình hình chung trong toàn doanh nghiệp, đồng thời nó cũng là cơ sở pháp lý để hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động liên tục và đi vào nề nếp.
* Mối quan hệ giữa nội kiểm và ngoại kiểm.
Như đã xây dựng ở phần trên, thuộc tính mở của hệ thống kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng chính là ở chỗ gắn kết với chức năng ngoại kiểm, theo đó doanh nghiệp hoặc các đơn vị thành viên có thể thuê kiểm toán bên ngoài đối với toàn bộ hay một phần cuộc kiểm toán nếu thấy cần thiết. Điều này không làm mất đi tính hiện hữu của hệ thống kiểm toán nội bộ mà làm tăng khả năng phát huy vai trò nội kiểm của kiểm toán nội bộ.
Đối với các doanh nghiệp kiểm toán bên ngoài thì mối quan tâm chủ yếu của họ là các khách hàng trong nền kinh tế, còn đối với kiểm toán nội bộ thì mối quan tâm chỉ tập trung ở phạm vi đơn vị kinh tế đó. Ngoại kiểm đặc biệt quan tâm tới sự đúng đắn của báo cáo tài chính, còn nội kiểm thì đặt mối quan tâm hàng đầu vào hiệu quả chung của các hoạt động và khả năng sinh lời. Để thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu nêu trên, cả ngoại kiểm và nội kiểm đều có mối quan tâm chung tới hệ thống kiểm soát nội bộ. Chính những mối quan tâm như vậy là cơ sở cho một sự kết hợp tác dụng rộng rãi và có hiệu quả giữa nội kiểm và ngoại kiểm. Công việc kiểm toán nội bộ hiệu quả sẽ cho phép thu hẹp phạm vi của các thủ tục cần áp dụng bởi ngoại kiểm, tuy nhiên không thể thay thế hoàn toàn. Nói như thế nghĩa là, giữa nội kiểm và ngoại kiểm ở đây có mối quan hệ hai chiều: Khi kiểm toán bên ngoài vào kiểm toán doanh nghiệp (phục vụ cho một mục đích cụ thể của Nhà nước) thì có thể áp dụng kết quả của kiểm toán nội bộ; và ngược lại, kiểm toán nội bộ có thể nhận được sự giúp đỡ của kiểm toán bên ngoài trong trường hợp cần thiết, có thể dưới hình thức thuê ngoại kiểm trong kiểm toán một phần của cuộc kiểm toán hoặc sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật và nghiệp vụ.
Dù nói dưới bất kỳ hình thức nào thì giữa kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài không thể tách rời nhau được, sự cộng tác và quan hệ này là cơ sở để kiểm toán nội bộ nâng cao năng lực và hoàn thiện mình để theo kịp với những tiến bộ của hệ thống kiểm toán bên ngoài nói riêng và kiểm toán nói chung. Đối với doanh nghiệp nhà nước về xây dựng là đơn vị trực thuộc Bộ, có sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Nhà nước cho nên mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và kiểm toán Nhà nước càng có một ý nghĩa sâu sắc. Một chương trình tập huấn về nghiệp vụ kiểm toán theo đúng các tiêu chuẩn của Bộ Tài chính và có sự giúp đỡ của Kiểm toán Nhà nước sẽ làm cho hệ thống kiểm toán nội bộ nâng cao vị thế hơn cả về mặt chuyên môn nghiệp vụ và cả về mặt pháp lý.
* Các yếu tố ảnh hưởng tới tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán nội bộ.
Theo lý thuyết về tổ chức kiểm toán nội bộ đã nghiên cứu ở trên, mọi hoạt động diễn ra đều chịu tác động của hàng loạt các nhân tố bên trong và bên ngoài hệ thống đó. Có những nhân tố tác động thuận chiều (tích cực) kích thích hoạt động, có những nhân tố tác động ngược chiều (tiêu cực) kìm hãm hoạt động. Nếu coi doanh nghiệp là một hệ thống thì Phòng kiểm toán nội bộ là một phần tử thuộc hệ thống đó. Chính vì vậy, để cho hoạt động kiểm toán nội bộ thực sự có hiệu quả thì các nhà quản lý cần nhận thức và tạo điều kiện cho các nhân tố tích cực cần thiết phát huy tác dụng. Có một số ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ mà các nhà quản lý cần biết để có các chính sách quản lý hợp lý, các nhân tố đó là:
Sự trợ giúp đầy đủ, đúng lúc của chính các nhà quản lý doanh nghiệp
Chất lượng kiểm toán viên trong bộ phận kiểm toán nội bộ
Phạm vi hoạt động của kiểm toán nội bộ
Sự hợp tác toàn diện của các nhân viên
Theo đó, Ban Giám đốc cần quan tâm tới các yếu tố trên để tạo mọi điều kiện cho bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình.
3.3.4 Nội dung, trình tự, phương pháp kiểm toán của bộ phận kiểm toán nội bộ tại Doanh nghiệp nhà nước về xây dựng
Nội dung công việc của kiểm toán nội bộ.
Với một hệ thống kiểm toán nội bộ được tổ chức như ở trên và có đủ quyền hạn và điều kiện để thực hiện công việc kiểm toán của mình, bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện công tác kiểm toán theo kế hoạch kiểm toán đã được Tổng Giám đốc phê duyệt. Theo nội dung công việc, kiểm toán nội bộ thực hiện các nội dung chính sau trong công việc kiểm toán của mình:
NộI DUNG CÔNG VIÊC của KTNB trong DnXD
Kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị
Kiểm toán
hoạt động
Kiểm toán tuân thủ
Kiểm toán báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị:
Việc kiểm toán nội dung này là việc kiểm toán để kiểm tra, xác nhận tính trung thực, hợp lý cũng như sự phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán đã được thừa nhận của báo cáo tài chính; báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ, khách quan, tính tin cậy của báo cáo tài chính; báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên trước khi Tổng Giám đốc ký duyệt và công bố.
Kiểm tra và đánh giá các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị; đưa ra những kiến nghị và tư vấn cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh ở doanh nghiệp và các đơn vị thành viên nhằm đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả.
Cụ thể, kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị gồm những nội chính sau:
Kiểm toán vốn bằng tiền.
Kiểm toán hàng tồn kho.
Kiểm toán tài sản cố định.
Kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản.
Kiểm toán các khoản đầu tư tài chính.
Kiểm toán các khoản lập trích dự phòng.
Kiểm toán hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm.
Kiểm toán doanh thu và các khoản thu nhập khác.
Kiểm toán thuế và các khoản phải nộp Nhà nước.
Kiểm toán các khoản phải thu, phải trả.
Kiểm toán nguồn vốn kinh doanh.
Kiểm toán chênh lệch đánh giá lại tài sản.
Kiểm toán quỹ quản lý cấp trên.
Kiểm toán kết quả sản xuất, kinh doanh và trích lập các quỹ.
Kiểm toán tuân thủ:
Mục đích của kiểm toán tuân thủ là xem xét doanh nghiệp và các đơn vị thành viên có tuân theo các thủ tục, các nguyên tắc, các quy chế, chính sách, chế độ của Nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền, doanh nghiệp và các đơn vị thành viên đề ra hay không. Kiểm toán tuân thủ, vì vậy còn có thể gọi là kiểm toán tính quy tắc.
Kiểm tra tính tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính, kế toán; chế độ quản lý của Nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, nghị quyết, quyết định, quy chế của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc ở doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Kiểm tra tính tuân thủ các quy định về nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như từng khâu công việc, của từng biện pháp trong hệ thống kiểm soát nội bộ ở doanh nghiệp và các đơn vị thành viên. Đây là nội dung rất lớn và là khâu trọng yếu trong phạm vi kiểm toán tuân thủ của doanh nghiệp, bởi trong nhiều trường hợp công nhân viên của doanh nghiệp biết rõ những quy định thông qua các quyết định, chỉ thị, quy chế... của Ban Giám đốc doanh nghiệp hơn là những quy định trong văn bản quản lý của Nhà nước. Các văn bản này đã được cụ thể hóa bằng các quy chế của bản thân doanh nghiệp nên họ chỉ biết tuân thủ những quy định cụ thể của doanh nghiệp.
Kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, các chính sách, các chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông tin và trình bầy báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị đến lưu trữ tài liệu kế toán... ở doanh nghiệp và các đơn vị thành viên. ở nội dung này kiểm toán viên cần lưu ý đến các quy định kế toán mang tính hướng dẫn được phép vận dụng linh hoạt như quy định liên quan đến chứng từ kế toán: doanh nghiệp được phép sử dụng một số chứng từ hướng dẫn...
Công việc này có thể kết hợp trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị hoặc kiểm toán các nghiệp vụ về tài chính.
Kiểm toán hoạt động:
Là việc kiểm toán để đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên. Kiểm toán hoạt động ở doanh nghiệp bao gồm các công việc chính sau:
Kiểm tra việc huy động, phân phối, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực (nhân lực, vật tư, hàng hóa, tài sản, vốn.... lợi thế kinh doanh...) của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh; phân phối và sử dụng thu nhập; kết quả bảo toàn và phát triển vốn.
Kiểm tra và đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên.
Đó là một số mục tiêu chính cần đạt được trong một cuộc kiểm toán, ngoài ra có thể theo yêu cầu của Tổng Giám đốc hoặc của các bộ phận chức năng khác, kiểm toán nội bộ có thể thực hiện các cuộc kiểm toán đặc biệt khác.
Trình tự các bước công việc của một cuộc kiểm toán nội bộ.
Bất kỳ một cuộc kiểm toán nào để đạt được hiệu quả đòi hỏi phải có một kế hoạch kiểm toán chu đáo và phù hợp. Để bộ phận kiểm toán nội bộ Doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình đòi hỏi bộ phận kiểm toán nội bộ phải tiến hành theo một trình tự có kế hoạch. Theo đó, trình tự của một cuộc kiểm toán nội bộ có thể được thực hiện như sau:
Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm toán:
Đây là giai đoạn đầu tiên và giữ một vai trò quan trọng đối với bất kỳ một cuộc kiểm toán nào. Trong giai đoạn này kiểm toán viên nội bộ cần chú trọng đến các nội dung sau:
Tập hợp những hiểu biết về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, hệ thống tài chính, kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
Xác định mức độ tin cậy dự kiến đối với hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
Lập chương trình, xác định mục tiêu, nội dung, thời gian, phạm vi, phương pháp kiểm toán sẽ được thực hiện.
Tổ chức lực lượng kiểm toán: có thể kết hợp giữa các kiểm toán viên nội bộ của Doanh nghiệp với các kiểm toán viên bên ngoài hoặc có thể huy động các chuyên gia ở các lĩnh vực chuyên môn liên quan trong và ngoài Doanh nghiệp.
Công tác chuẩn bị kiểm toán.
Một cuộc kiểm toán thành công hay thất bại được xem chủ yếu ở giai đoạn chuẩn bị kiểm toán. Trong giai đoạn này, bộ phận kiểm toán nội bộ cần thực hiện tốt các công tác chuẩn bị chủ yếu sau:
Nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị được kiểm toán, tình hình hoạt động của đơn vị trong thời gian qua, nhiệm vụ kế hoạch và các điều kiện, biện pháp, các chính sách, quy định của đơn vị trong kỳ kinh doanh sẽ kiểm toán. Sơ bộ đánh giá những thay đổi về điều kiện và môi trường hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến các mặt hoạt động của đơn vị.
Thu thập, nghiên cứu những chính sách, chế độ, quy định mới và các chủ trương, biện pháp của Nhà nước, Doanh nghiệp, đơn vị phát sinh trong các lĩnh vực quản lý, kinh doanh, tài chính, kế toán, thống kê và kiểm toán.
Xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm toán trước đó (nếu có), kể cả các tài liệu bên ngoài đơn vị có liên quan đến cuộc kiểm toán; tóm tắt các thông tin cần phải kiểm tra trong quá trình kiểm toán sắp tới; thu thập và chuẩn bị các mẫu, các chương trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm toán sẽ được tiến hành.
Thực hiện tốt các yêu cầu trên thì cuộc kiểm toán mới có thể thực sự mang lại hiệu quả cao và nhanh chóng, cũng như đạt được hiệu năng cao nhất.
Thực hiện cuộc kiểm toán.
Đây là khâu then chốt trong cuộc kiểm toán, là khâu chính của phần kiểm toán. Trong giai đoạn này, bộ phận kiểm toán nội bộ cần:
Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải xem xét, thu thập và đánh giá đủ các bằng chứng cần thiết có liên quan đến công việc kiểm toán theo kế hoạch và chương trình đã vạch ra (kể cả các chứng cứ bên ngoài đơn vị được kiểm toán). Các bằng chứng kiểm toán thu thập được là cơ sở cho các nhận xét, đánh giá, bày tỏ ý kiến của kiểm toán viên nội bộ.
Xem xét, đánh giá tính tuân thủ các chính sách, quy định, nội quy, quy chế, nghị quyết do đơn vị ban hành và việc thực hiện nó trong thực tế hoạt động của đơn vị.
Đánh giá khả năng sai sót, nhầm lẫn, gian lận đối với từng loại nghiệp vụ, từng hoạt động kinh tế. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro của các nghiệp vụ phát sinh trong nội bộ đơn vị.
Thực hiện phân tích, khảo sát các khoản mục chính, khảo sát bổ sung các chi tiết; xem xét các sự kiện tiếp theo, đánh giá kết quả cuộc kiểm toán.
Các bước tiến hành thực hiện cuộc kiểm toán phải theo đúng quy trình của một cuộc kiểm toán và các bước tiến hành kiểm toán phải được ghi nhận trên tài liệu, hồ sơ kiểm toán.
Kết thúc cuộc kiểm toán.
Giai đoạn này là giai đoạn cuối của một cuộc kiểm toán và đánh dấu hiệu quả cũng như kết quả của một cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên nội bộ cần phải thực hiện các thủ tục sau:
Khi kết thúc cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lập báo cáo kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung và kết quả kiểm toán theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra cho từng cuộc kiểm toán; đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai sót, gian lận, các vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý kinh doanh của đơn vị.
Báo cáo kiểm toán nội bộ được gửi cho Tổng Giám đốc doanh nghiệp; tùy theo tính chất kiểm toán, Tổng Giám đốc quyết định việc ban hành và công bố báo cáo kiểm toán nội bộ.
Phúc tra kết quả kiểm toán: Là công việc tiếp sau cuộc kiểm toán nhằm kiểm tra việc triển khai thực hiện những kiến nghị, đề xuất xử lý và những giải pháp đã nêu trong báo cáo kiểm toán.
Như vậy, với các thủ tục và trình tự kiểm toán có tính chất bắt buộc như trên sẽ là cơ sở đảm bảo rằng cuộc kiểm toán được thực hiện một cách nghiêm túc và tuân thủ theo đúng các chuẩn mực đề ra về kiểm toán nội bộ, nó cũng là yếu tố dẫn đến và đảm bảo cho sự thành công của cuộc kiểm toán nội bộ.
Phương pháp tiến hành kiểm toán nội bộ.
Một cuộc kiểm toán đạt được những mục tiêu đề ra đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt, trình tự kiểm toán cũng như kế hoạch kiểm toán. Thêm vào đó, để cuộc kiểm toán thực hiện nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm thì cần phải có một phương pháp kiểm toán thích hợp.
Theo đó, trong kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp, tùy theo tích chất của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên nội bộ phải lựa chọn và áp dụng những phương pháp, thủ tục kiểm toán phù hợp với mục tiêu và yêu cầu của kiểm toán.
Để xác minh và bày tỏ ý kiến, kiểm toán viên nội bộ phải sử dụng nhiều phương pháp kỹ thuật. Hệ thống phương pháp kỹ thuật được áp dụng tùy thuộc vào đối tượng trực tiếp của kiểm toán là thông tin đã thu thập được trên chứng từ kiểm toán (kiểm toán chứng từ) hoặc thông tin chưa thu thập được hoặc cần được xác minh lại (kiểm toán ngoài chứng từ). Trong quan hệ đó, hệ thống phương pháp kiểm toán gồm hai phân hệ với những phương pháp kỹ thuật cụ thể khác nhau:
Một là: Các phương pháp kiểm toán chứng từ như kiểm tra cân đối, đối chiếu logic, đối chiếu trực tiếp.
Hai là: Các phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ như kiểm kê, thực nghiệm, điều tra…
Trên cơ sở đó, hệ thống các phương pháp kiểm toán có thể được cụ thể hóa như sau:
Phương pháp kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo quản trị.
Kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết.
Kiểm tra chọn mẫu xác suất: Chỉ kiểm tra các chứng từ, nghiệp vụ điển hình hoặc có nghi vấn, chọn mẫu tập trung vào nơi có giá trị lớn và được xác định là nơi có rủi ro cao.
Kiểm tra từng khâu công việc của kế toán: chứng từ, sổ sách, báo cáo tài chính, báo cáo quản trị...
Kiểm tra từng phần hành hạch toán: Hạch toán tài sản cố định, vật tư, chi phí, doanh thu,...
Kiểm kê thực tế hiện vật: Mục đích để xác định tiền mặt tồn quỹ thực tế, số lượng và giá trị vật tư hàng hóa tồn kho, số lượng và giá trị tài sản cố định hiện có theo biên bản kiểm kê để đối chiếu số liệu với sổ kế toán, phát hiện các trường hợp sai sót, gian lận,...
Sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh:
+ Đối chiếu:
Giữa giá trị và hiện vật.
Giữa chi tiết và tổng hợp.
Giữa sổ kế toán và báo cáo tài chính.
Giữa chứng từ và sổ kế toán.
Đối chiếu với khách hàng.
+ So sánh:
Giữa năm này với năm trước.
Giữa kỳ này với kỳ trước.
Giữa doanh nghiệp với toàn ngành...
Phương pháp xác minh, phân tích, đánh giá.
Phương pháp kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động.
Khác với các loại hình kiểm toán khác, mục đích của kiểm toán tuân thủ là kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật trong quản lý. Đặc biệt các sản phẩm xây dựng liên quan chặt chẽ vào các quy đinh, tiêu chuẩn, chính sách do pháp luật quy định. Do vậy, trong kiểm toán tuân thủ, các phương pháp chủ yếu được sử dụng gồm: kiểm tra, so sánh, đối chiếu giữa tình hình và tài liệu thực tế được kiểm toán với những quy định trong các văn bản pháp lý có liên quan.
Đối với các loại hình kiểm toán khác, phương pháp kiểm toán được áp dụng dựa trên nền tảng hệ thống các phương pháp đã nêu có sự linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhiệm vụ và nội dung cũng như trình tự của một cuộc kiểm toán cần thực hiện để đảm bảo hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ trong Doanh nghiệp. Do đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước về xây dựng là kinh doanh các mặt hàng xây dựng là mặt hàng phụ thuộc nhiều vào thời tiết, phụ thuộc nhiều vào các chính sách pháp luật ban hành, do đó quá trình kiểm toán nội bộ nhất thiết phải tiến hành đúng như các trình tự đã nêu trên, có như thế mới đánh giá đúng tính chất của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
3.4 Một số giải pháp để phát triển kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước nói chung và tại doanh nghiệp xây dựng nói riêng.
Một lần nữa chúng ta có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam kiểm toán nội bộ là lĩnh vực còn rất mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn nhưng lại là vấn đề bức xúc hiện nay vì nhu cầu cần thiết phải có của nó. Vài năm gần đây Bộ Tài chính đã chú trọng hơn trong lĩnh vực kiểm toán nhưng mới chỉ dừng lại và tập trung ở lĩnh vực kiểm toán độc lập. Trong khi đó, vai trò của kiểm toán nội bộ ngày càng được khẳng định trong các doanh nghiệp lớn, ngay cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của bộ phận này. Tuy nhiên để hoạt động kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và ở doanh nghiệp nhà nước về xây dựng nói riêng có động lực phát triển thì cần có những giải pháp tích cực từ phía Nhà nước cũng như từ chính các doanh nghiệp.
3.4.1 Về phía Nhà nước.
Các giải pháp về phía Nhà nước
Ban hành các quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho hệ thống kiểm toán nội bộ
Bộ phận kiểm toán nội bộ trong các cơ quan nên thuộc kiểm toán nhà nước
Phát huy vai trò của các tổ chức chuyên môn kế toán kiểm toán
Nhà nước và các hiệp hội nghề nghiệp cần tổ chức các khoá đào tạo về kế toán và kiểm toán
* Nhà nước cần sớm ban hành các quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm toán nội bộ.
Hoạt động kiểm toán nội bộ cũng như các hoạt động khác chỉ có thể thực hiện tốt và đạt hiệu quả cao trên cơ sở có một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và phù hợp. Về lâu dài, hoạt động kiểm toán nội bộ phải được quy định trong văn bản Luật để tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tổ chức cũng như phát triển hoạt động kiểm toán nội bộ ở Việt Nam. Nhà nước ta cần phải chi phối, hình thành quy chế kiểm toán, tạo môi trường cho kiểm toán nội bộ hoạt động có hiệu quả, vì Nhà nước vừa là cơ quan quản lý chức năng vừa là chủ sở hữu tài sản ở các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị thụ hưởng Ngân sách Nhà nước. Do đó, Nhà nước cần khẩn trương nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các văn bản pháp lý để quy định rõ các nội dung như: chức năng, nhiệm vụ, phương pháp luận của kiểm toán nội bộ; tiêu chuẩn để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ; tiêu chuẩn và vị trí của kiểm toán viên nội bộ và mối quan hệ giữa kiểm toán viên nội bộ và Ban Giám đốc cũng như nội kiểm và ngoại kiểm.
Để tiết kiệm thời gian và chi phí, Nhà nước có thể công nhận có chọn lọc một số chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế. Đây là giải pháp mà Malaysia đã lựa chọn. Theo cách này, các chuẩn mực kiểm toán quốc tế được Malaysia chuyển tải gần như đầy đủ, ở mỗi chuẩn mực (ISA) được thêm vào một phần mở đầu nêu rõ cách thức áp dụng và phạm vi điều chỉnh chuẩn mực. Những chuẩn mực khác biệt và không thích ứng với đặc điểm nền kinh tế thì Malaysia không áp dụng.
Mặt khác, Nhà nước cần nhanh chóng tháo gỡ những vướng mắc về kiểm toán nội bộ trong các văn bản đã ban hành. Chẳng hạn, việc nhất quán giữa các văn bản pháp lý khi quy định đối tượng chịu trách nhiệm về sự trung thực của báo cáo tài chính: Theo Pháp lệnh kế toán thống kê, Điều lệ tổ chức kế toán Nhà nước, Điều lệ kế toán trưởng thì đó là: “thủ trưởng và kế toán trưởng”; trong Luật doanh nghiệp Nhà nước là “doanh nghiệp”; trong Nghị định 59/CP là: “Hội đồng quản trị và giám đốc” và theo Thông tư 73/TC/TCDN thì đó là “người lập và người ký”; vậy ai là người chịu trách nhiệm cuối cùng về số liệu của doanh nghiệp, kiểm toán nội bộ có trách nhiệm gì trong việc này? Hoặc việc phân định quyền hạn, trách nhiệm giữa kế toán trưởng và kiểm toán viên nội bộ, “ai chỉ đạo ai? Ai kiểm tra ai?” cũng cần được làm sáng tỏ.
Hiện nay Bộ Tài chính đã ban hành một số văn bản về kiểm toán nội bộ, điều này đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp thành lập và vận hành bộ máy kiểm toán nội bộ. Nhưng theo ý kiến cá nhân, tôi thấy rằng tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ như trong Quy chế kiểm toán nội bộ ban hành kèm theo Quyết định 832/QĐ/BTC/CĐKT còn một số điểm chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, kiểm toán viên theo quy chế này phải có bằng Đại học hoặc trung học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh trong khi đó như ở phần lý luận chung ta thấy rằng lĩnh vực hoạt động chủ yếu của kiểm toán nội bộ là kiểm toán hoạt động chứ không phải là kiểm toán báo cáo tài chính. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước có bộ máy kiểm toán nội bộ như Tổng công ty xây dựng Sông Đà, Tổng công ty xây dựng Hà nội, Tổng công ty xi măng Việt Nam... đều chủ yếu thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, nên quy định này dường như không có gì mâu thuẫn nhưng có thể thấy rằng quy chế này mới chỉ mang tính chất giải quyết tình thế mà thôi. Rõ ràng trong tương lai gần khi mà quy mô và độ phức tạp trong quản lý ở các doanh nghiệp tăng lên, nhà quản lý sẽ có yêu cầu mở rộng phạm vi kiểm toán ngoài lĩnh vực tài chính kế toán, do đó các chuyên viên kỹ thuật cũng rất cần. ở các nước khi tuyển chọn kiểm toán viên người ta căn cứ vào loại công việc thực hiện của bộ phận kiểm toán nội bộ: kiểm toán hoạt động hay kiểm toán tài chính. Nếu chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính, doanh nghiệp đòi hỏi người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ phải có bằng đại học chuyên ngành kế toán, tài chính; có chứng chỉ kiểm toán viên; có 4 -5 năm kinh nghiệm chuyên môn với tư cách là trợ lý trong một bộ phận kiểm toán hay với tư cách kiểm toán viên độc lập; ít nhất có 2 ngoại ngữ. Nếu chủ yếu là kiểm toán hoạt động thì các kiểm toán viên phải hiểu biết tốt về kỹ thuật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ, một doanh nghiệp về thực phẩm có thể sử dụng một kỹ sư thực phẩm cho học một năm về tài chính kế toán để làm kiểm toán.
Hơn nữa, người được tuyển chọn làm kiểm toán viên phải thực tế đã công tác trong lĩnh quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên, trong đó có ít nhất 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kiểm toán viên. Điều này cũng hạn chế phẩn nào tới việc tuyển chọn kiểm toán viên nội bộ bên ngoài. Chẳng hạn một doanh nghiệp lớn có thể tuyển một kiểm toán viên độc lập có kinh nghiệm hoặc cán bộ đã có kinh nghiệm làm kiểm toán viên nội bộ thì liệu yêu cầu có còn phù hợp nữa không?
* Bộ phận kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và tổ chức kinh tế Nhà nước nên thuộc hệ thống kiểm toán Nhà nước.
Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm soát hữu hiệu của cơ quan, doanh nghiệp. Thực tế tại một số nơi cho thấy bộ máy kiểm toán nội bộ được thiết lập tại các cơ quan và tổ chức kinh tế nhà nước có thể là chân rết của các cơ quan hữu quan. Trong những trường hợp này, bộ phận kiểm toán nội bộ chịu sự chỉ đạo về hoạt động hay sự đánh giá thành tích hoạt động định kỳ bởi các cơ quan kiểm soát, kiểm toán Nhà nước, Bộ Tài chính. Song bộ phận kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và tổ chức thuộc hệ thống kiểm toán Nhà nước phù hợp với điều kiện Việt Nam hơn cả. Điều này có nghĩa là các kiểm toán viên nội bộ được kiểm toán Nhà nước đào tạo, bổ nhiệm, quản lý và chỉ đạo hoạt động. Việc xây dựng mô hình như vậy đem lại nhiều ý nghĩa thực tiễn thiết thực:
Thống nhất việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động kiểm toán nội bộ trong các cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước.
Do được kiểm toán Nhà nước đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ kiểm toán viên nội bộ vẫn có thể được tiêu chuẩn hóa trong điều kiện nước ta chưa có trường đào tạo kiểm toán viên nội bộ.
Công tác kiểm toán nội bộ sẽ được hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất.
Kiểm toán nội bộ sẽ trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực hơn cho cơ quan kiểm toán Nhà nước trong hoạt động kiểm tra, kiểm soát khi bộ máy kiểm toán Nhà nước mới hình thành với số lượng nhân viên còn ít ỏi so với nhu cầu công việc ngày càng lớn.
* Phát huy vai trò của các tổ chức chuyên môn kế toán, kiểm toán.
Các tổ chức chuyên môn (Hiệp hội kế toán, kiểm toán) cần được tham gia vào các vấn đề kinh tế và tài chính của đất nước, tham gia vào quá trình xây dựng và hướng dẫn chuẩn mực kế toán, kiểm toán trong đó có kiểm toán nội bộ. Các tổ chức này cũng cần có trách nhiệm trong công việc chăm lo cho lợi ích của kiểm toán viên, thiết lập, duy trì và theo dõi các yêu cầu đối với việc vào nghề; giúp các kiểm toán viên cập nhật kiến thức, tiếp cận với sự phát triển nghề nghiệp của quốc gia cũng như quốc tế như tổ chức các cuộc hội thảo cho các hội viên là kiểm toán viên nội bộ, viết sách cẩm nang, xuất bản báo chí... để trao đổi kinh nghiệm. Kiểm toán viên nội bộ phải có kiến thức về nhiều mặt: về tổ chức quản lý; kế toán và kiểm toán; chuyên môn kỹ thuật và hoạt động của đơn vị. Các tổ chức chuyên môn chính là nơi để các kiểm toán viên có điều kiện cập nhật kiến thức và trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp.
* Nhà nước và các Hiệp hội nghề nghiệp cần tổ chức các khóa đào tạo về kế toán và kiểm toán.
Hiện nay Việt Nam chưa có đủ một đội ngũ kiểm toán viên để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế. Hoạt động của hệ thống kiểm toán nói chung và kiểm toán nội bộ nói riêng chưa đông về số lượng và chưa mạnh về chất lượng. Để đáp ứng nhu cầu của hơn 6000 doanh nghiệp Nhà nước, 30.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 2000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần có chương trình đào tạo các kiểm toán viên, nhanh chóng hình thành đội ngũ kiểm toán viên theo hướng kế thừa và bồi dưỡng đặc cách đối với việc đào tạo mới đội ngũ kiểm toán viên chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Cần tổ chức thường xuyên hơn nữa các lớp tập huấn về công tác kiểm toán nội bộ hoàn chỉnh hơn, cụ thể hơn để sau khi tập huấn cán bộ làm được việc.
Về lâu dài, có thể cải cách và đổi mới chương trình đào tạo ở bậc đại học, có thể mở một chuyên ngành về kiểm toán nội bộ; nên tuyển chọn những sinh viên ưu tú, bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ và phải đa dạng hóa ngành nghề phục vụ cho công tác này; cần đầu tư đúng mức cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ đảm bảo về ngành nghề chuyên môn. Đồng thời cũng cần quan tâm đào tạo bồi dưỡng nhân cách, đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên.
3.4.2 Về phía các doanh nghiệp
Các giải pháp về phía các doanh nghiệp nói chung
Xây dựng hệ thống kiểm toán nội bộ khi thực sự cần thiết và lựa chọn mô hình hợp lý
Hạn chế nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động
Hoàn thiện, bổ sung các quy chế, điều lệ, quy định cho bộ phận kiểm toán nội bộ
Các doanh nghiệp chỉ tổ chức kiểm toán nội bộ khi thực sự cần thiết và lựa chọn hình thức tổ chức hợp lý:
Kiểm toán nội bộ là công cụ kiểm soát của nhà quản lý mà ở đây là Ban Giám đốc Doanh nghiệp. Để hệ thống kiểm toán nội bộ có thể phát huy đầy đủ vai trò, chức năng của mình, thực sự là một công cụ quản lý hữu hiệu, là “tai mắt” cho Ban Giám đốc thì trước hết Ban Giám đốc phải nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ, tự nguyện và chủ động thành lập bộ phận này trong đơn vị, không nên thành lập một cách nóng vội, thiếu suy xét. Trước khi đi đến quyết định thành lập một bộ máy quan trọng như vậy trong doanh nghiệp, Ban Giám đốc cần có sự tham khảo ý kiến của cấp dưới, cân nhắc kỹ càng yếu tố chi phí và kết quả.
Các tiêu chuẩn để Ban Giám đốc có thể căn cứ để thiết lập bộ phận kiểm toán nội bộ là: quy mô của doanh nghiệp, phạm vi hoạt động, trình độ công nhân viên, lĩnh vực hoạt động và chiến lược phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. ở Việt Nam bộ máy này tồn tại chủ yếu ở các Doanh nghiệp Nhà nước lớn và được thành lập theo Quyết định 832/QĐ/BTC/CĐKT. Hiện nay, việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ này là không bắt buộc, hình thức tổ chức tùy các đơn vị chọn, nhưng các doanh nghiệp cũng cần xem xét kỹ trước khi quyết định có nên thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ ở đơn vị mình hay không.
Hạn chế nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động.
Lãnh đạo đơn vị nên giới hạn nhiệm vụ cho bộ phận kiểm toán nội bộ. Trong giai đoạn trước mắt có thể xác định nội dung của kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp Nhà nước là kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ bởi hai lý do sau:
Nhiều doanh nghiệp Nhà nước (trong đó có doanh nghiệp nhà nước về xây dựng) không sử dụng dịch vụ của kiểm toán độc lập trong khi vẫn có nhu cầu lớn về kiểm tra các báo cáo tài chính cũng như tính tuân thủ trong đơn vị.
Do hạn chế về năng lực, trình độ của kiểm toán viên: tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ theo quy định của Nhà nước là phải tốt nghiệp chuyên ngành tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh doanh. Mà các doanh nghiệp thì ít có nhân viên giỏi về chuyên ngành quy định và chuyên môn khác để thực hiện kiểm toán hoạt động. Kinh nghiệm từ thực tế hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ các Doanh nghiệp cũng như thể hiện điều này, kiểm toán viên nội bộ chủ yếu thực hiện kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ: Doanh nghiệp du lịch Hà Nội, Doanh nghiệp Sông Đà, Doanh nghiệp Xi măng Việt Nam...
Tiếp tục hoàn chỉnh, bổ sung các quy chế, điều lệ, quy định cho bộ phận kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nội bộ không chỉ cần đến tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng của hệ thống văn bản pháp lý Nhà nước mà còn cần đến hệ thống quy định trong nội bộ đơn vị là cơ sở cho hoạt động. Chính các quy định trong nội bộ doanh nghiệp là cụ thể hóa công tác kiểm toán nội bộ và cũng là một trong những nhân tố chính góp vào sự hữu hiệu của bộ máy này. Hơn thế nữa, với nguyên tắc mở trong tổ chức kiểm toán nội bộ, sự tiến bộ và phức tạp trong quản lý, đòi hỏi các nhà quản lý doanh nghiệp cần luôn luôn cập nhật, bổ sung để hoàn thiện quy chế cho bộ máy kiểm toán nội bộ của doanh nghiệp mình. Đây là yếu tố cần thiết và quan trọng để duy trì và đảm bảo một hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động hiệu quả.
Trong thực tế có thể còn có nhiều bất cập cũng như vấn đề cần hoàn thiện trong việc tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại một doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù xuất phát từ quan điểm nào thì những quan điểm cũng như những ý kiến bổ sung cho hệ thống đã trình bày ở trên vẫn là cơ bản. Đó là nền tảng cho mọi sự bổ sung hoàn thiện sau này.
3.4.3 Về phía các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng
Các giải pháp về phía doanh nghiệp xây dựng
Đảm bảo tính khả thi của việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp
Tạo điều kiện cho bộ phận kiểm toán nội bộ hoạt động hiệu quả
Tính khả thi của việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
Việc tổ chức kiểm toán nội bộ như đã nghiên cứu ở trên sẽ trở nên vô nghĩa nếu như việc xây dựng này không có tính khả thi.
Theo như đã phân tích ở chương II thì việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng Việt Nam hiện nay là một nhu cầu cấp bách và cần thiết. Để tổ chức kiểm toán nội bộ này, về phía bản thân doanh nghiệp phải có những điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng này. Có thể nêu lên một số thuận lợi cần có trong quá trình xây dựng như sau:
Thứ nhất: Ban lãnh đạo doanh nghiệp phải nhận thức đúng đắn về ý nghĩa và tầm quan trọng của hệ thống kiểm toán nội bộ trong giai đoạn hiện nay đối với doanh nghiệp. Điều này là một yếu tố ủng hộ và thúc đẩy việc tổ chức kiểm toán nội bộ một cách nhanh chóng và có vị trí pháp lý cao. Hơn nữa chính sự hiểu biết của Ban Giám đốc doanh nghiệp về vai trò của kiểm toán nội bộ sẽ làm cho mối liên hệ giữa Ban giám đốc và bộ phận kiểm toán nội bộ khi được lập ra sẽ mang tính thường xuyên, tạo sự hoạt động thường xuyên và hoạt động hiệu quả cho bộ phận này.
Thứ hai: Về các điều kiện cơ sở cho việc xây dựng như: nhân lực, điều kiện vật chất,… đối với việc xây dựng bộ phận này doanh nghiệp đều rất khả quan. Tuy trình độ lao động kế toán của doanh nghiệp thường không đồng đều nhưng cũng có những người hội đủ các tiêu chuẩn để tham gia vào bộ phận kiểm toán nội bộ. Hơn nữa, hiện nay việc áp dụng chế độ thi tuyển đối với các kiểm toán viên bên ngoài cũng đã trở nên phổ biến, bên cạnh nguồn nhân lực kiểm toán viên nội bộ bên trong doanh nghiệp thì có thể tuyển chọn từ bên ngoài.
Thứ ba: Nhà nước đã ban hành những văn bản Luật, các Thông tư, Quyết định làm cơ sở cho hoạt động của kiểm toán nội bộ, các quy định này tuy chưa nhiều nhưng cũng là những điều kiện tiền đề tạo cơ sở thuận lợi cho việc xây dựng bộ máy kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp. Hơn nữa, doanh nghiệp nhà nước về xây dựng được hình thành và phát triển từ rất lâu, hệ thống văn bản, quy định trong nội bộ doanh nghiệp đã tương đối hoàn thiện, đây cũng là một yếu tố quan trọng cho tính pháp lý và sự vận hành của bộ phận kiểm toán nội bộ một cách thuận lợi hơn.
Thứ tư: Về khía cạnh pháp lý thì hiện nay Nhà nước đang có chủ trương và sẽ đi vào thực hiện là việc bắt buộc các doanh nghiệp Nhà nước phải thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, báo cáo tài chính chỉ được chấp nhận khi có báo cáo kiểm toán kèm theo, doanh nghiệp nhà nước về xây dựng Việt Nam nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật này. Chính vì thế mà việc thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ cho doanh nghiệp là cần thiết và tạo điều kiện trong công tác thực hiện.
Thứ năm: Việt Nam đã cam kết thực hiện mậu dịch tự do trong khu vực, chính điều này đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước về xây dựng cần có những chuyển hướng chiến lược trong tình hình mới. Theo đó, việc cải tổ bộ máy là một yếu tố quan trọng trong tình hình mới, việc tổ chức kiểm toán nội bộ lúc này đã trở nên cần thiết và cấp bách như một yếu tố quyết định cho sự phát triển của doanh nghiệp trong giai đoạn mới.
Với những điều kiện thuận lợi nêu trên thì hệ thống kiểm toán nội bộ sẽ xây dựng và vận hành một cách hiệu quả và đem lại lợi ích đích thực cho doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và đổi mới. Việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng với những nội dung nghiên cứu trên hoàn toàn mang tính khả thi.
* Điều kiện cho việc hoạt động hiệu quả của bộ phận kiểm toán nội bộ doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
Tuy có những điều kiện thuận lợi trong việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng như đã nói ở trên, nhưng do đây là một bộ phận mới được xác lập tại doanh nghiệp và lĩnh vực hoạt động còn mới cho nên chắc chắn trong quá trình xây dựng và hoạt động sẽ còn gặp phải một số khó khăn.
Việc hình thành bộ phận kiểm toán nội bộ là một nhu cầu cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để bộ phận kiểm toán nội bộ có thể đi vào hoạt động có nề nếp và thực sự hiệu quả, thực sự là bộ phận tham vấn của Ban Giám đốc doanh nghiệp thì yêu cầu đặt ra là trong quá trình vận hành bộ máy kiểm toán nội bộ phải tuân thủ theo những nguyên tắc đã được xây dựng, theo đó, việc tuân thủ phải bao gồm cả về mặt tổ chức bộ máy, tuân thủ về quy trình cũng như phương pháp tiến hành kiểm toán nội bộ, một yếu tố hết sức quan trọng là quy chế kiểm toán nội bộ phải hoàn toàn được đi vào hoạt động trong thực tế và thường xuyên. Có như vậy, bộ máy kiểm toán nội bộ mới thực sự đi vào hoạt động nề nếp và đem lại hiệu quả cao.
Tuy nhiên, những nguyên tắc đã được xây dựng trong đề tài này mới chỉ là những yếu tố cơ bản đảm bảo cho một hệ thống kiểm toán nội bộ hoạt động tốt, trong quá trình hoạt động, theo những biến đổi và theo sự chỉ đạo của Nhà nước, quy chế kiểm toán nội bộ doanh nghiệp nhà nước về xây dựng cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động và chức năng của bộ phận kiểm toán nội bộ trong giai đoạn mới. Đây là chính là một thuộc tính mở trong tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng Việt Nam.
Kết luận
Kiểm toán nội bộ là hoạt động “tự thân” và “vị thân”. Kiểm toán nội bộ sinh ra từ nhu cầu quản lý và phục vụ cho nhu cầu quản lý của đơn vị. Sự hình thành hệ thống kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp nhà nước về xây dựng là cần thiết và cấp bách để giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ đơn vị. Kiểm toán nội bộ sẽ là một công cụ kiểm soát hữu hiệu của doanh nghiệp, là nguồn cung cấp thông tin tin cậy cho Ban giám đốc doanh nghiệp để điều hành sản xuất, kinh doanh có hiệu quả và chiếm được thị trường cũng như hoàn thành tốt mọi kế hoạch mà Nhà nước giao cho.
Do vậy, để hệ thống kiểm toán nội bộ nhanh chóng phát huy được hiệu lực và hiệu quả trong giai đoạn hiện nay của nền kinh tế, không chỉ đòi hỏi sự nhận thức sâu sắc của Ban Giám đốc doanh nghiệp về vai trò của kiểm toán nội bộ và sự tuân thủ các nguyên tắc và quy chế hoạt động của bộ phận này trong thực tế, mà hơn nữa, do đây còn là vấn đề còn mới mẻ ở Việt Nam hiện nay, chính vì thế mà Nhà nước cần có những biện pháp tích cực để tạo môi trường, cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán nội bộ có điều kiện thực hiện chức năng, thể hiện vai trò to lớn đối với các hoạt động kinh tế xã hội khác.
Luận văn đã đạt được các kết quả nghiên cứu như sau:
Khái quát hoá một số vấn đề cơ bản về kiểm toán và kiểm toán nội bộ. Trong đó tập trung giới thiệu các vấn đề: khái niệm, chức năng, đối tượng nghiên cứu ... và đi sâu nghiên cứu về kiểm toán nội bộ, nêu bật mục đích vai trò và nội dung của kiểm toán nội bộ cũng như phân tích mô hình tổ chức, cơ cấu bộ máy, quy trình một cuộc kiểm toán nội bộ. Trình bày những kinh nghiệm về tổ chức kiểm toán nội bộ trên thế giới, các chuẩn mực nghề nghiệp đối với kiểm toán nội bộ tại Hoa Kỳ.
Khái quát một số đặc điểm của quá trình đầu tư xây dựng ảnh hưởng đến kiểm toán nội bộ cũng như những đặc trưng cơ bản của quá trình kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
Luận văn đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp ở Việt Nam, nêu rõ sự cần thiết phải thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng trong xu thế phát triển của nền kinh tế.
Luận văn đã nêu rõ những tiêu chuẩn cần thiết, những nguyên tắc để tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng.
Đề xuất mô hình hệ thống kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng và những điều kiện cần thiết để hệ thống đó hoạt động hiệu quả cũng như phương thức hoạt động của kiểm toán nội bộ
Đề xuất một số giải pháp để phát triển kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước nói chung và trong các doanh nghiệp nhà nước về xây dựng nói riêng.
Do giới hạn về thời gian và khuôn khổ đề tài nên đề tài này mới chỉ đề cập đến việc tổ chức kiểm toán nội bộ tại doanh nghiệp nhà nước về xây dựng một cách mang tính hệ thống và cơ bản nhất. Tuy nhiên, với những gì đã được nghiên cứu và đề cập đến trong đề tài này đã là những cơ sở cần thiết cho bộ phận kiểm toán nội bộ được thành lập sẽ hoạt động hiệu quả và hữu ích. Tuân thủ các nguyên tắc đã được xây dựng trong đề tài thì hệ thống kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp sẽ khẳng định được vị trí của mình là “quan toà công minh của quá khứ, người dẫn đường cho hiện tại và người cố vấn sáng suốt cho tương lai”.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo – GS - TS: Nguyễn Đăng Hạc và các thầy cô trong khoa đã giúp tôi hoàn thành đề tài này. Do còn hạn chế về nhiều mặt nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, với tinh thần học hỏi, tôi rất mong nhận được sự góp ý, cộng tác của các đồng nghiệp, các thầy cô trong khoa và những người quan tâm để đề tài ngày một hoàn thiện hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7luan vanIII.doc